Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác - Lênin (Tập 1): Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 86 trang )

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ
 

GIÁO TRÌNH

KINH TẾ HỌC CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
TẬP I
(Dùng cho đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội, bậc đại học)

HÀ NỘI - 2007


2

BAN BIÊN SOẠN
Đại tá, TS Chử Văn Tuyên (chủ biên) - Chương 1, 5
Đại tá, Th.S Nguyễn Công Cời

- Chương 2, 3

Đại tá, TS Hoàng Minh Thảo

- Chương 10

Đại tá, Th.S Đặng Đình Tiến

- Chương 8

Đại tá, Th.S Đào Văn Dụng


- Chương 6

Thượng tá, TS Bùi Ngọc Quỵnh

- Chương 11

Thượng tá, TS Nguyễn Trọng Xuân

- Chương 12

Thượng tá, Th.S Thân Văn Nhau

- Chương 7

Thượng tá, Th.S Đinh Huy Chung

- Chương 13

Thượng tá, CN Phạm Văn Phùng

- Chương 4

Thiếu tá, CN Đỗ Văn Dạo

- Chương 9


3

LỜI NĨI ĐẦU


Trong giảng dạy, học tập các mơn lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh hiện nay, kinh tế học chính trị có vị trí rất quan trọng.
Thời gian qua, việc nghiên cứu, dạy và học kinh tế học chính trị trong các
nhà trường quân đội nói chung, ở Học viện Chính trị qn sự nói riêng luôn
được quan tâm đúng mức; chất lượng và hiệu quả ngày càng được nâng cao.
Nhưng trong điều kiện xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, nội dung chương trình của mơn học
đang đặt ra nhiều vấn đề mới cần quan tâm giải quyết.
Tiếp tục quán triệt và vận dụng đường lối quan điểm của Đảng vào giảng
dạy, học tập bộ mơn kinh tế học chính trị; chấp hành chỉ thị của Thủ trưởng Tổng
cục chính trị, Học viện Chính trị quân sự, trực tiếp là cán bộ giáo viên Khoa Kinh
tế chính trị đã tiến hành biên soạn giáo trình “Kinh tế học chính trị Mác - Lênin Tập I” (Dùng cho đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội, bậc đại học).
Trong q trình biên soạn, tập thể tác giả đã bám sát những nguyên lý
kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa có chọn lọc, nội dung kết
cấu của những giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin đã và đang được sử
dụng trong hệ thống giáo dục quốc gia. Các tác giả cũng đã quán triệt, vận dụng
những quan điểm mới của Đảng về nhiệm vụ kinh tế - xã hội, giáo dục và đào
tạo, quốc phòng an ninh ... vào những chủ đề hoặc những nội dung có liên quan
nhằm làm cho những nguyên lý kinh tế chính trị Mác - Lênin một cách cơ bản
và có hệ thống hơn, gắn bó chặt chẽ hơn với thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc ở nước ta hiện nay, giúp người học nắm các nguyên lý lý luận làm cơ sở
thuận lợi trong xem xét và lý giải các hiện tượng kinh tế - xã hội trong nước và
trên thế giới.
TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ


4

Chương 1

ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
VÀ CHỨC NĂNG CỦA KINH TẾ HỌC CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của kinh tế học chính trị
Trước khi Kinh tế học chính trị Mác - Lênin ra đời, đã xuất hiện những
tư tưởng, những học thuyết kinh tế đại biểu cho lợi ích của những giai cấp khác
nhau trong xã hội.
1.1. Một số tư tưởng kinh tế thời cổ đại và trung đại
a. Tư tưởng kinh tế thời cổ đại
Những tư tưởng kinh tế thời cổ đại phản ánh trình độ phát triển kinh tế
và trình độ nhận thức của con người trong xã hội chiếm hữu nô lệ. Những
người đã đề xuất các quan điểm, tư tưởng kinh tế thời đó là: Xenophon (430354); Platon (427-347); Aristoteles (384-322). Những tư tưởng kinh tế thời cổ
đại chưa được khái quát thành hệ thống các phạm trù, quy luật mà chỉ được thể
hiện trong các tác phẩm triết học, sử học, văn học nghệ thuật... Có thể khái lược
những quan điểm, tư tưởng kinh tế thời cổ đại với những nội dung sau:
Thứ nhất, coi chế độ chiếm hữu nô lệ là tất yếu.
Platon đã mô tả một xã hội lý tưởng dựa trên cơ sở chế độ chiếm hữu nơ
lệ, trong đó việc mua bán nô lệ là tất yếu nhằm củng cố quyền lực thống trị của
giai cấp chủ nô.
Aristotles cho rằng chế độ nô lệ là do giới tự nhiên sáng tạo ra, và chỉ có 2
khoa học là làm thế nào để có nhiều nơ lệ và nên sử dụng nơ lệ như thế nào?
Ơng đã khuyến cáo giới chủ nơ phải thường xuyên tiến hành chiến tranh để bắt
tù binh về làm nơ lệ; chia nơ lệ thành từng nhóm nhỏ không cùng nguồn gốc,
màu da; không cho nô lệ ăn q đói nhưng cũng khơng nên cho ăn q no.
Theo Aristotles thì chiến tranh là khơng thể tránh được và chiến tranh “chính
nghĩa” là chiến tranh cướp đoạt nơ lệ để đem lại nguồn của cải vô tận
Thứ hai, thái độ coi khinh lao động.
Xenophon coi lao động chân tay là điều khơng đáng làm vì nó có thể làm
hư hỏng thân thể con người. Người lao động không thể là người chiến binh
hoặc là người bạn tốt. Platon quan niệm về một nhà nước lý tưởng mà xã hội



5
được chia thành những đẳng cấp khác nhau. Trong đó tầng lớp trên là giới chủ
nô, là những người thông thái; tầng lớp thứ hai là những chiến binh có nhiệm
vụ bảo vệ nhà nước, bảo vệ chế độ đương thời; tầng lớp thứ ba là những thợ thủ
công và những thị dân có nhiệm vụ phục vụ lợi ích của hai tầng lớp trên.
Những nô lệ - người trực tiếp làm ra của cải cho xã hội, chỉ là những “cơng cụ
biết nói” chứ khơng thể được coi là những công dân của thành Aten.
Thứ ba, tư tưởng phủ nhận thương nghiệp và đề cao nền kinh tế tự cấp, tự túc.
Liên quan đến sản xuất và trao đổi hàng hoá, Platon cho rằng thương
nghiệp là một tội ác, là việc làm xấu xa...vì nó làm cho con người phát triển
tính giả dối, lừa gạt. Theo Aristotles, cho vay nặng lãi cũng đáng phải lên án
như việc kinh doanh nhà thổ. Các nhà tư tưởng thời cổ đại lên án cho vay nặng
lãi, hoạt động thương nghiệp vì những hoạt động này làm lung lay chế độ
chiếm hữu nô lệ và quyền lực của tầng lớp chủ nô.
Thứ tư, bước đầu xem xét và phân tích một số hiện tượng kinh tế - xã hội.
Platon coi sự phân công xã hội là cơ sở sinh ra hoạt động trao đổi, sinh ra
giai cấp và nhà nước. Tuy chưa đề cập tới nguồn gốc và bản chất của tiền
nhưng ông đã phát hiện chức năng lưu thơng của tiền. Ơng còn cho rằng tiền tệ
và thương nghiệp thúc đẩy phân công phát triển.
Aristotles là nhà tư tưởng kinh tế lớn nhất thời cổ đại. Ông là người đầu tiên
phân biệt sự khác nhau giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi; đồng thời nêu ra
hai loại thương nghiệp là: thương nghiệp trao đổi (H - H hoặc H - T - H) và đại
thương nghiệp (T - H - T). Mục đích của thương nghiệp trao đổi là để tổ chức
kinh tế tốt hơn. Cịn mục đích của đại thương nghiệp là để có nhiều tiền, để làm
giàu.Vì vậy, hoạt động đại thương nghiệp là trái đạo đức, không hợp quy luật.
b. Tư tưởng kinh tế thời trung cổ
Các tư tưởng kinh tế thời trung cổ đều đứng về phía lợi ích của giai cấp
địa chủ quý tộc và giới giáo sĩ; mang tính phiến diện, đề cao cưỡng bức phi
kinh tế, bênh vực bạo lực và chiến tranh theo tinh thần hiệp sĩ.

Đề cập tư tưởng kinh tế thời trung cổ trước hết phải kể đến phạm trù “giá
cả công bằng” của Augustin Siannt (linh mục người Italia - 354 - 450).Theo
Augustin Siannt, một mặt, giá cả cơng bằng là giá cả trung bình phù hợp với
hao phí lao động để sản xuất ra hàng hố, trên một ý nghĩa nào đó giá cả cơng
bằng chính là tư tưởng trao đổi ngang giá. Bên cạnh đó ơng lại giải thích giá cả


6
công bằng một cách chủ quan dựa vào tư tưởng phân biệt đẳng cấp xã hội. Ông
ta cho rằng cùng trao đổi một loại hàng hố, mỗi đẳng cấp có một giá cả cơng
bằng riêng. Điều này có nghĩa là giá cả hàng hố khơng phụ thuộc vào giá trị,
khơng phụ thuộc vào cung - cầu, mà phụ thuộc vào địa vị xã hội của những
người tham gia trao đổi trên thị trường.
Một đại biểu khác cho tư tưởng kinh tế thời trung cổ là Thomasd
Aquin(1225-1274) người Italia. Xuất thân từ một gia đình q tộc nên ơng là
người bảo vệ giáo lý nhà thờ; bảo vệ chế độ sở hữu phong kiến và sự thống trị
của giai cấp địa chủ, quý tộc. Tư tưởng kinh tế của Thomasd Aquin mang tính
hai mặt và cịn nhiều yếu tố duy tâm chủ quan. Một mặt ông cho rằng giới tự
nhiên do thượng đế sinh ra và sản phẩm nông nghiệp phát sinh từ thượng đế
nên sản xuất nông nghiệp hợp ý muốn của chúa trời, hợp với giáo lý nhà thờ và
là việc làm từ thiện. Còn tài sản tiền tệ, sự giàu có từ trao đổi và cho vay nặng
lãi là sự chiếm đoạt của người khác. Nó trái với lòng tốt của con người.
Mặt khác, Thomasd Aquin lại cho rằng người ta có thể hoạt động thương
nghiệp để có lợi nhuận. Lợi nhuận thương nghiệp cũng có tính hợp pháp, cũng hợp
với giáo lý khi người ta thực hiện tích luỹ tiền tệ để theo đuổi mục đích từ thiện.
Nói chung, tư tưởng kinh tế thời trung cổ đại biểu cho lợi ích của giai cấp
địa chủ quý tộc và giới tu hành. Cuối thời kỳ phong kiến, khi sản xuất hàng hoá
và hoạt động trao đổi ngày càng phát triển, cịn xuất hiện những tư tưởng dung
hồ lợi ích của địa chủ quý tộc với lợi ích của tầng lớp thương nhân và cho vay
nặng lãi.

1.2. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển và những cống hiến của C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I. Lênin cho kinh tế học chính trị
Kinh tế chính trị với tư cách là một khoa học độc lập ra đời vào thế kỷ 17,
cùng kỷ nguyên ra đời của chủ nghĩa tư bản. Montchsetien(1575-1629)- đại biểu
của trường phái trọng thương Pháp) là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ kinh tế
chính trị. Kinh tế chính trị (Oiconomia- Politria) tiếng Hy Lạp có nghĩa là “quy
luật kinh tế của một thiết chế xã hội”. Người sáng lập ra kinh tế chính trị tư sản cổ
điển là W.Petty (1623-1687) người Anh và F.Quesnay (1694 - 1774) người Pháp.
Đại biểu xuất sắc nhất của kinh tế chính trị tư sản cổ điển là hai nhà kinh tế học
người Anh: A.Smith (1723-1790) và Đ.Ricardo (1772-1823).
Gọi là Kinh tế học tư sản cổ điển hay Kinh tế chính trị tư sản cổ điển, vì
thời kỳ đó bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp; giai cấp tư sản đang lên, họ


7
đại biểu cho một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn nên lợi ích của họ ít
nhiều cịn phù hợp với lợi ích của xã hội
Lý luận của A.Smith phản ánh sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kỳ
công trường thủ công. Trong tác phẩm “Nghiên cứu về bản chất và nguyên
nhân sự giàu có của các dân tộc” (1776), ơng xác định kinh tế chính trị có hai
nhiệm vụ: một là, phân tích thực tiễn khách quan nền kinh tế và giải thích tính
quy luật phát triển của nó; hai là, đưa ra những đề nghị cụ thể về các chính sách
kinh tế cho nhà nước và giới chủ. Điểm xuất phát trong phân tích kinh tế của
ông là nhân tố “con người kinh tế” và lý thuyết “bàn tay vơ hình”. A.Smith cho
rằng, lồi người là một liên minh trao đổi. Trong khi trao đổi sản phẩm lao
động cho nhau, phục vụ lẫn nhau thì con người ln bị chi phối bởi lợi ích cá
nhân. Song khi chạy theo lợi ích cá nhân thì “người kinh tế” bị “Bàn tay vơ
hình” bắt buộc phải làm một việc không nằm trong dự kiến là đáp ứng lợi ích
xã hội. “Bàn tay vơ hình” chính là các quy luật kinh tế khách quan, tự phát hoạt
động chi phối hành động của con người. Điều kiện để các quy luật kinh tế

khách quan hoạt động là: phải có sản xuất và trao đổi hàng hoá, nền kinh tế
phát triển trên cơ sở tự do kinh tế và tự do thương mại. Quan hệ giữa người với
người là quan hệ phụ thuộc về kinh tế. Ông đã nêu lên rất nhiều phạm trù, quan
điểm kinh tế như: tiền là “phương tiện kỹ thuật”, là “bánh xe vĩ đại” của lưu
thông; lao động là thước đo cuối cùng của giá trị; giá trị sử dụng không quyết
định giá trị trao đổi...
Đ.Ricardo sống và nghiên cứu kinh tế trong thời đại cách mạng cơng
nghiệp. Đó là điều kiện khách quan cho lý thuyết kinh tế của Đ.Ricardo vượt
lên trên A.Smith trên nhiều lĩnh vực nghiên cứu. Trong tác phẩm “Những
nguyên lý của kinh tế chính trị học” (1817), Đ.Ricardo xác định đối tượng và
phương pháp của kinh tế học chính trị là xác lập các quy luật phân phối sản
phẩm (tức thu nhập) của ba giai cấp trong xã hội.
Đ.Ricardo đã đứng vững trên quan điểm giá trị - lao động để phân tích các
phạm trù: tiền lương, lợi nhuận, địa tô. Về địa tô, ông lập luận: do “đất đai canh
tác hạn chế”, “độ màu mỡ của đất đai giảm sút”, “năng suất đầu tư bất tương
xứng” trong khi đó dân số tăng nhanh làm cho nạn khan hiếm tư liệu sinh hoạt
trở thành phổ biến trong xã hội buộc con người phải canh tác trên ruộng đất
xấu. Vì canh tác trên đất xấu, nên giá trị nông phẩm do hao phí lao động trên
ruộng đất xấu nhất quy định. Vì vậy, ở ruộng đất tốt và trung bình, cùng chi phí


8
đầu tư nhưng sẽ thu được một lượng nông phẩm nhiều hơn so với ruộng đất
xấu. Phần chênh lệch phải nộp trả cho chủ ruộng gọi là địa tơ.
Tuy cịn nhiều hạn chế bởi lập trường giai cấp và phương pháp luận nghiên
cứu, nhưng công lao to lớn của kinh tế học tư sản cổ điển là đã đi sâu vào nghiên
cứu bản chất các hiện tượng, các quá trình kinh tế; hệ thống và khái quát thành các
phạm trù, khái niệm kinh tế. C.Mác đã đánh giá cao công lao của các nhà kinh tế
tư sản cổ điển cho khoa học kinh tế và coi Đ.Ricardo là tiền bối trực tiếp trong quá
trình hình thành và phát triển học thuyết kinh tế của mình.

Đến những năm đầu của thế kỷ XIX, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
xác lập được địa vị thống trị và bắt đầu bộc lộ những mâu thuẫn của chính nó.
Kinh tế chính trị tư sản cổ điển chấm dứt, bắt đầu xuất hiện các trào lưu hậu cổ
điển (hoặc là tầm thường hoá kinh tế học và biện hộ cho chủ nghĩa tư bản) hoặc
là phê phán chủ nghĩa tư bản theo lập trường tiểu tư sản)
Đến giữa thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện một cuộc cách
mạng trong kinh tế chính trị và phát triển nó thực sự trở thành một khoa học.
Bằng thiên tài của mình và trên cơ sở kế thừa có phê phán những thành tựu của
các nhà kinh tế học tư sản cổ điển, C.Mác đã hoàn bị lý luận giá trị lao động;
phát kiến ra học thuyết giá trị thặng dư và khẳng định: quy luật kinh tế cơ bản
của chủ nghĩa tư bản là quy luật giá trị thặng dư, vạch rõ bản chất của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa và quy luật vận động của xã hội tư sản. Học thuyết kinh
tế của C.Mác được trình bày tập trung và đầy đủ nhất trong bộ “Tư bản”.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một giai đoạn mới của kinh tế học
mác-xít ra đời: V.I Lênin bảo vệ và phát triển học thuyết kinh tế. Mác trong
thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản. Di sản mà V.I Lênin để lại
trong hệ tư tưởng của giai cấp vô sản nói chung và cho khoa học kinh tế nói
riêng là lý luận về chủ nghĩa tư bản thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, lý luận về
kinh tế xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ.
Hiện nay, học thuyết kinh tế Mác - Lênin vẫn đang được tiếp tục bổ
sung, phát triển và hồn thiện. Thơng qua những hoạt động thực tiễn và
nghiên cứu khoa học, các nhà lý luận mác - xít đã tổng kết những thành cơng
và cả những thất bại của các nước xã hội chủ nghĩa trong những năm cuối
của thế kỷ XX, nhằm bảo vệ và phát triển những nguyên lý cơ bản của Kinh
tế học chính trị Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử mới.


9

2. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế học chính trị

Nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen đều
bắt đầu bằng sự phân tích các hiện tượng, các quá trình kinh tế với một luận
điểm cơ bản nhất: sản xuất vật chất là cơ sở của toàn bộ đời sống xã hội và nền
sản xuất xã hội bao giờ cũng là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất.
2.1. Nền sản xuất xã hội
a. Vai trò của lao động sản xuất ra của cải vật chất.
Lao động sản xuất ra của cải vật chất là hoạt động có mục đích, có ý thức
của con người. Đó là q trình con người thơng qua cơng cụ tác động vào giới tự
nhiên, cải biến giới tự nhiên nhằm tạo ra các sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của
mình. Lao động sản xuất ra của cải vật chất là điều kiện đầu tiên, cơ bản nhất để
con người, xã hội loài người tồn tại và phát triển.
Lao động sản xuất ra của cải vật chất là loại hình hoạt động thực tiễn cơ bản
nhất của con người và xã hội loài người. Lao động sản xuất vật chất, một mặt tạo
ra các sản phẩm để thoả mãn những nhu cầu con người; mặt khác, chính q trình
sản xuất vật chất làm cho nhu cầu của con người tăng lên, do đó nó tạo thêm
những động lực mới thúc đẩy sản xuất vật chất không ngừng phát triển.
Lao động sản xuất vật chất của con người được tiến hành một cách thường
xuyên, liên tục. Sự lặp đi lặp lại và đổi mới khơng ngừng của q trình sản xuất
chính là q trình tái sản xuất. Mọi quá trình sản xuất (đồng thời cũng là quá
trình tái sản xuất) đều là sự kết hợp giữa 3 yếu tố: sức lao động, đối tượng lao
động và tư liệu lao động.
- Sức lao động: Là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại
trong một con người đang sống và được người đó đem ra sử dụng mỗi khi sản
xuất ra một sản phẩm nào đó.
- Đối tượng lao động: Là tất cả nhưng gì mà lao động của con người hướng tới
và tác động vào nhằm biến đổi nó cho phù hợp với nhu cầu của con người.
- Tư liệu lao động: Là một vật hay một tổ hợp vật có khả năng truyền dẫn
sức lao động của con người đến đối tượng lao động để biến các đối tượng đó
thành sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu của con người. Tư liệu lao động bao

gồm công cụ lao động và cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội... Sự


10
phát triển của hệ thống các công cụ lao động là một trong những tiêu chí để
phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau.
Lao động sản xuất ra của cải vật chất ln mang tính mục đích, tính liên
tục và tính xã hội. Tổng thể các hoạt động sản xuất vật chất có quan hệ biện
chứng với nhau, phụ thuộc lẫn nhau... hợp thành nền sản xuất xã hội.
Nền sản xuất xã hội bao giờ cũng tồn tại và phát triển trong những điều kiện
lịch sử nhất định. Tiêu chí để phân biệt sự khác nhau giữa các nền sản xuất xã hội
là phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thống nhất biện
chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tương ứng.
b. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Lực lượng sản xuất: Là tổng hợp các yếu tố vật chất, kỹ thuật của nền
sản xuất cùng con người - với những tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm, ý thức...sử
dụng các yếu tố vật chất kỹ thuật đó để sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con người.
Trong mọi nền sản xuất, con người luôn là yếu tố quyết định. V.I Lênin cho
rằng: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là giai cấp công nhân, là
người lao động”1. Con người với vai trò là yếu tố quyết định trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, không phải là những con người chung chung, trừu
tượng mà là con người của một thời đại kinh tế nhất định. Đó là những con
người có tri thức, có kỹ năng, có sức khoẻ, có ý thức lao động và phải được tổ
chức chặt chẽ, khoa học. Hiện nay, cách mạng khoa học và công nghệ đang
diễn ra mạnh mẽ; lồi người đang chuyển từ kinh tế cơng nghiệp sang kinh tế
tri thức (tiếp cận từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất), con người vẫn là
yếu tố quyết định đến năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng
trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Hiện nay, trong nền sản xuất xã hội, những
“robot thông minh”, những “nhà máy không người”...đều là những sản phẩm

do lao động con người tạo ra trong thời cách mạng khoa học - công nghệ hiện
đại. Một mặt, nó phản ánh năng lực kỳ diệu của con người trong chinh phục tự
nhiên; mặt khác, nó lại được sử dụng như những phương tiện để con người
nâng cao trình độ chinh phục tự nhiên. Khơng những thế, trong những điều
kiện lịch sử cụ thể, máy móc cịn là phương tiện để giải quyết mối quan hệ giữa
con người với con người trong quá trình chinh phục tự nhiên. Trong q trình
1

V.I.Lênin, Tồn tập , tập 38, bản tiếng Việt, Nxb Tiến bộ Mátxcơva,1978, tr.430


11
lao động không chỉ diễn ra trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, mà
còn xuất hiện mối quan hệ giữa người với người.
- Quan hệ sản xuất: Là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất để
thoả mãn nhu cầu của chính con người.
Quan hệ sản xuất là một hệ thống các mối quan hệ đa chiều rất phong phú,
phức tạp. Nó được biểu hiện tập trung trên ba mối quan hệ cơ bản: quan hệ về sở
hữu tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ về phân phối
sản phẩm. Trong đó, quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định, chi
phối các quan hệ khác và nó là cơ sở của tồn bộ quan hệ sản xuất.
Các quan hệ sản xuất là các quan hệ vật chất khách quan, khơng phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của con người. C.Mác đã viết: “Trong sự sản xuất ra đời
sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của họ tức là những quan hệ sản xuất. Những quan hệ
này phù hợp với một trình độ nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của
họ”. Quan hệ sản xuất là một phạm trù được xác định trong tính hiện thực của
nó như: chủ sở hữu các tư liệu sản xuất là ai? Tổ chức và quản lý hoạt động sản
xuất như thế nào? Sản phẩm lao động làm ra thuộc về ai và phục vụ lợi ích cho

những ai? Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế giữa người với người trong sản
xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng của cải vật chất của nền sản xuất xã hội.
Trong nền sản xuất xã hội, lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất
là hình thức xã hội của sản xuất. Chúng ln vận động, phát triển theo yêu cầu của
quy luật: quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất tạo thành phương thức sản xuất. Trong mọi phương thức sản xuất, lực lượng
sản xuất luôn giữ vai trị là yếu tố cách mạng nhất. Nó quy định hình thức của
những quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý sản xuất, phương thức phân phối sản phẩm
- nghĩa là nó quy định tồn bộ quan hệ sản xuất nói chung.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất cũng có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với quy luật khách
quan, nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược
lại, nếu không phù hợp (lạc hậu hay tiến bộ hơn trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất), nó sẽ trở thành lực cản kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất.


12
Lịch sử xã hội loài người gắn liền với sự phát triển không ngừng của lực lượng
sản xuất và sự thay đổi của những quan hệ sản xuất. Đó là lịch sử phát triển của
những phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao: cộng sản nguyên thuỷ,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa.
2.2. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế học chính trị Mác - Lênin
Lịch sử hình thành và phát triển của kinh tế học chính trị cho thấy có các
tư tưởng, các trường phái kinh tế khác nhau vì có nhận thức khác nhau về đối
tượng nghiên cứu.
Trường phái trọng thương cho rằng, đối tượng nghiên cứu của kinh tế học
chính trị là lưu thơng để thực hiện việc tích luỹ của cải, tích luỹ sự giàu có (chủ
yếu là tích luỹ vàng) thơng qua hoạt động ngoại thương.

Trường phái trọng nông chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu
thông sang lĩnh vực sản xuất nhưng lại chỉ giới hạn ở sản xuất nông nghiệp.
Các đại biểu của kinh tế học chính trị tư sản cổ điển cho rằng, đối tượng
của kinh tế học chính trị là nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của mọi của cải; sự
giàu có của các dân tộc và việc phân chia của cải đó giữa các tầng lớp xã hội.
Ngồi ra, kinh tế học chính trị tư sản cổ điển cịn có những đóng góp nhất định
khi phát hiện ra một số quy luật kinh tế chi phối quá trình vận động của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Điểm hạn chế của họ là coi các quy luật kinh tế của chủ
nghĩa tư bản là quy luật chung của mọi q trình lao động sản xuất, phủ định
tính chất lịch sử của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Với quan điểm duy vật về lịch sử; C.Mác, Ph. Ăng ghen và V.I.Lênin cho
rằng: sản xuất ra của cải vật chất là nền tảng của đời sống xã hội. Quá trình lao
động sản xuất khơng chỉ có mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, mà
còn phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người. Kinh tế học chính trị
nghiên cứu nền sản xuất vật chất nhưng không nghiên cứu các mối quan hệ
giữa con người với giới tự nhiên - mặt kỹ thuật của sản xuất; mà nghiên cứu
mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất - mặt xã hội của sản
xuất, nhằm tìm ra những quy luật chi phối sự vận động của một phương thức
sản xuất nhất định trong lịch sử. C.Mác đã viết: “Đối tượng nghiên cứu của tôi
là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao
đổi thích ứng với phương thức ấy”1. V.I.Lênin cho rằng: Kinh tế chính trị tuyệt
1

C.Mác và Ph.Ăng ghen,Tồn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 19


13
nhiên không nghiên cứu sự sản xuất mà nghiên cứu quan hệ xã hội giữa người
với người trong sản xuất, nghiên cứu chế độ xã hội của sản xuất.
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế học chính trị được hiểu theo cả nghĩa

rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp, kinh tế học chính trị nghiên cứu một
phương thức sản xuất nào đó để tìm ra những quy luật vận động của riêng nó,
nghiên cứu những quy luật kinh tế chi phối sự phát sinh, phát triển của một
phương thức sản xuất nhất định và sự thay thế tất yếu phương thức sản xuất đó
bằng một phương thức sản xuất mới cao hơn. Bộ “Tư bản” của C.Mác là hình
mẫu về kinh tế học chính trị theo nghĩa hẹp. Trong tác phẩm này, C.Mác đã
luận giải sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; phát
hiện ra những nhân tố kinh tế- xã hội sẽ phủ định chủ nghĩa tư bản và những
tiền đề vật chất chuẩn bị cho sự ra đời một phương thức sản xuất mới.
Theo nghĩa rộng, Ph.Ăngghen cho rằng, kinh tế chính trị là khoa học về
những quy luật chi phối sự sản xuất và trao đổi tư liệu sinh hoạt vật chất trong xã
hội lồi người. Q trình sản xuất và trao đổi vật chất của con người được quy
định bởi những điều kiện lịch sử nhất định. Nó phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên,
trình độ phát triển của sức sản xuất và ý chí chủ quan của con người thơng qua hệ
tư tưởng, thiết chế chính trị xã hội.... Khơng có kinh tế chính trị chung cho mọi
thời đại, mọi dân tộc và giai cấp.
Như vậy, đối tượng nghiên cứu của kinh tế học chính trị là các quan hệ sản
xuất - một xã hội của sản xuất trong mối quan hệ biện chứng với lực lượng sản
xuất và kiến trúc thượng tầng, nhưng không phải là những quan hệ xã hội chung
chung trừu tượng, mà là những quan hệ sản xuất gắn với đời sống hiện thực, nhằm
tìm ra các quy luật kinh tế chi phối sự vận động và phát triển của các phương thức
sản xuất trong những giai đoạn lịch sử khác nhau.
Cũng như tất cả những quy luật tự nhiên và xã hội khác, các quy luật kinh
tế mang tính khách quan, khơng lệ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Các quy luật kinh tế chỉ phát sinh và phát huy tác dụng thơng qua các hoạt
động kinh tế mang tính xã hội. Có những quy luật kinh tế tồn tại trong mọi
phương thức sản xuất của xã hội loài người, gọi là quy luật chung (như quy luật
quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, quy luật tiết kiệm chi phí và nâng cao năng suất lao động...); có những
quy luật kinh tế chỉ ra đời, tồn tại trong một hoặc một số phương thức sản xuất

nhất định (như quy luật giá trị, cung cầu, lưu thông tiền tệ...).


14
Mỗi phương thức sản xuất đều có một hệ thống các quy luật kinh tế cùng
tồn tại và phát huy tác dụng. Việc nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế
vào hoạch định các chính sách kinh tế xã hội, vào tổ chức quản lý sản xuất và
phân phối các sản phẩm làm ra... phụ thuộc vào năng lực chủ quan của con
người. Trong các xã hội có phân chia giai cấp, có nhà nước, những chính sách
kinh tế của nhà nước bao giờ cũng đứng về phía lợi ích của một giai cấp nhất
định. Nghiên cứu kinh tế học chính trị khơng thể tách rời những chính sách
kinh tế của nhà nước đại biểu cho lợi ích của một dân tộc, một giai cấp.
3. Phương pháp nghiên cứu và chức năng của kinh tế học chính trị
Mác - Lênin
3.1. Phương pháp nghiên cứu của Kinh tế học chính trị Mác - Lênin
Là một khoa học, Kinh tế chính trị Mác - Lênin đã sử dụng phép biện
chứng duy vật để nghiên cứu các hiện tượng, các quá trình kinh tế diễn ra trong
đời sống kinh tế xã hội. Khi xem xét, lý giải các hiện tượng, các q trình kinh
tế phải ln đặt nó trong mối liên hệ phổ biến và sự vận động, phát triển không
ngừng; đồng thời phải gắn với những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Quan hệ sản xuất là những mối quan hệ đa chiều rất phức tạp. Việc nghiên
cứu nó để tìm ra những quy luật chi phối sự vận động, phát triển của những
phương thức sản xuất nhất định là điều hồn tồn khơng đơn giản. Vì vậy, kinh
tế học chính trị Mác - Lênin đã sử dụng phương pháp đặc thù: trừu tượng hoá
khoa học để nghiên cứu, tìm ra bản chất của những quan hệ kinh tế xã hội.
Phương pháp trừu tượng hoá khoa học trong kinh tế học chính trị MácLênin là phương pháp nghiên cứu kinh tế dựa vào phép biện chứng duy vật để
phân tích, tổng hợp các hiện tượng, các q trình kinh tế; gạt bỏ những yếu tố
tạm thời, ngẫu nhiên, thứ yếu...; đi sâu vào những yếu tố chủ yếu, ổn định, bản
chất nhất để khái quát thành hệ thống các phạm trù, khái niệm kinh tế.
Trừu tượng hoá tức là phải tư duy để nhận thức được bản chất của những

hiện tượng, q trình kinh tế. Trừu tượng hố khoa học khác hoàn toàn với kiểu
trừu tượng kiểu hư vơ chủ nghĩa. Trừu tượng hố khoa học chỉ gạt bỏ những
yếu tố tạm thời, ngẫu nhiên, thứ yếu, chứ khơng gạt bỏ hết thảy mọi thuộc tính
vốn có của sự vật để rồi tự tưởng tượng, áp đặt những thuộc tính mà bản thân
sự vật khơng có để rơi vào chủ nghĩa cực đoan, duy ý chí.


15
Có ý kiến cho rằng, vì sử dụng phương pháp trừu tượng hố nên kinh tế
học chính trị Mác - Lênin chỉ đưa ra được những nội dung chung chung khơng
có ý nghĩa về mặt thực tiễn. Ý kiến này là hồn tồn sai trái, vì trước khi kinh
tế học mác-xít ra đời, Ph.Kêne đã sử dụng thành cơng phương pháp trừu tượng
hoá để nghiên cứu tái sản xuất và phát minh ra “Biểu kinh tế” nổi tiếng. Mặt
khác, khi sử dụng phương pháp trừu tượng hoá, kinh tế học chính trị Mác Lênin cũng ln quan tâm tới tính lịch sử và tính thực tiễn của những hiện
tượng, những q trình kinh tế.
Ngồi phương pháp trừu tượng hố khoa học, kinh tế học chính trị Mác Lênin cịn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác như: kết hợp lơgíc và
lịch sử, phương pháp đi từ giản đơn đến phức tạp, phương pháp phân tích, tổng
hợp, phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp toán, sơ đồ hoá các hiện
tượng, q trình kinh tế...
3.2. Tính đảng của kinh tế học chính trị Mác - Lênin
Kinh tế học chính trị là mơn khoa học xã hội, nó thuộc hệ tư tưởng và ln
bảo vệ lợi ích của một giai cấp nhất định. Khơng có kinh tế học chính trị phi giai
cấp hoặc kinh tế học chính trị chung cho mọi giai cấp. Tính đảng của kinh tế học
chính trị phản ánh tính mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các giai cấp có địa vị
khác nhau trong một nền sản xuất xã hội. Nó cịn được biểu hiện qua tính phê
phán và tính kế thừa có phê phán giữa các trường phái, các học thuyết kinh tế.
Kinh tế học chính trị Mác - Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành
chủ nghĩa Mác - Lênin; bảo vệ lợi ích của giai cấp vơ sản; nó là vũ khí tư
tưởng được giai cấp vô sản sử dụng đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, đồng
thời nó trang bị tri thức để giai cấp vô sản nhận thức và thực hiện nhiệm vụ

xây dựng chế độ xã hội mới do nhân dân lao động làm chủ.
Tính đảng trong Kinh tế học chính trị Mác - Lênin khơng mâu thuẫn với
tính khoa học của nó. Điều đó cũng có nghĩa là Kinh tế học chính trị Mác Lênin có sự thống nhất cao giữa tính đảng và tính khoa học. Bởi vì nó là bộ phận quan
trọng trong hệ tư tưởng của giai cấp vô sản- giai cấp mà lợi ích của nó thống nhất
với lợi ích của tồn xã hội, giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới
sẽ thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội
đẩy mạnh xuyên tạc, phủ nhận những nguyên lý kinh tế học mác-xít; chống phá
đường lối, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Nhận thức đầy đủ và


16
sâu sắc tính đảng, tính giai cấp của kinh tế học chính trị, chúng ta tích cực và
chủ động đấu tranh trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng, góp phần bảo vệ chủ nghĩa
Mác - Lênin trong điều kiện mới .
3.3. Chức năng của Kinh tế học chính trị Mác - Lênin
Kinh tế học chính trị Mác - Lênin là môn cơ sở cho nhiều môn khoa học
kinh tế khác và có vai trị quan trọng trong đời sống kinh tế-xã hội. Vì vậy,
kinh tế học chính trị Mác - Lênin có những chức năng cơ bản sau:
Chức năng nhận thức: Trang bị tri thức cho con người là chức năng chung
của mọi khoa học. Đối với Kinh tế học chính trị Mác - Lênin, chức năng nhận
thức hay trang bị tri thức chính là cung cấp những tri thức về sự vận động của
các quan hệ sản xuất, về mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản
xuất với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Trên cơ sở đó, người học
nhận thức được hệ thống các quy luật kinh tế; hiểu biết đầy đủ và ngày càng
sâu sắc hơn bản chất của các hiện tượng, quá trình kinh tế đã và đang diễn ra
trong hiện thực xã hội; nhận thức được lịch sử phát triển của sản xuất vật chất
và lịch sử phát triển của xã hội lồi người; phân tích ngun nhân ra đời và dự
báo xu hướng vận động, phát triển của một phương thức sản xuất, một hình thái
kinh tế-xã hội.

Chức năng phương pháp luận: Cùng với triết học và chủ nghĩa xã hội
khoa học, kinh tế học chính trị Mác - Lênin có vai trị quan trọng để giáo dục,
bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận khoa học trong xem xét lý giải các
hiện tượng kinh tế xã hội. Học tập, nghiên cứu kinh tế học chính trị Mác Lênin để từng bước hình thành, phát triển tư duy khoa học và cách mạng, làm
cơ sở để nhận thức đúng đắn các vấn đề kinh tế xã hội phức tạp đã hoặc sẽ nảy
sinh. Ngoài ra, Kinh tế học chính trị Mác - Lênin cịn cung cấp hệ thống các
phạm trù, khái niệm làm nền tảng, cơ sở cho các khoa học kinh tế khác.
Chức năng tư tưởng : Trên cơ sở luận giải đầy đủ, sâu sắc quy luật vận
động, phát triển của các phương thức sản xuất nói chung, phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa nói riêng, kinh tế học chính trị Mác- Lênin là vũ khí lý luận tư
tưởng của giai cấp vơ sản trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.
Kinh tế học chính trị Mác - Lênin góp phần đắc lực vào việc hình thành
nhân sinh quan cách mạng, tạo niềm tin sâu sắc cho người học vào thắng lợi
cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản xố bỏ áp bức bóc lột, xây dựng chế độ xã
hội mới do nhân dân lao động làm chủ. Nó trang bị cho người học những tri
thức, phương thức đấu tranh trên lĩnh vực lý luận tư tưởng để bảo vệ đường lối,


17
chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong cơng cuộc đổi mới tồn diện
đất nước, trước hết và cơ bản nhất là đổi mới về kinh tế.
Chức năng thực tiễn : Nghiên cứu kinh tế học chính trị Mác - Lênin khơng
chỉ nhằm mục đích nhận thức các hiện tượng, các quá trình kinh tế mà quan
trọng hơn là vận dụng những nhận thức đó vào hoạt động thực tiễn
Thực hiện chức năng này, đòi hỏi quá trình nghiên cứu mơn học phải bám
sát thực tiễn và tham gia giải quyết kịp thời những vấn đề kinh tế - xã hội đang
và sẽ đặt ra. Phải khắc phục triệt để khuynh hướng giáo điều, kinh viện. Phải
thường xuyên tổng kết thực tiễn, cả những thành tựu lẫn những hạn chế của
những quá trình kinh tế - xã hội, để bảo vệ và phát triển kinh tế học mác-xít
trong điều kiện lịch sử mới. Kinh tế học chính trị Mác - Lênin trang bị cho giai

cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động hệ thống các tri thức kinh tếcơ sở lý luận cách mạng và khoa học cho cuộc đấu tranh xố bỏ bóc lột, bất
công; xây dựng chế độ xã hội mới văn minh hạnh phúc.
Câu hỏi ơn tập
1. Trình bày khái lược sự ra đời và phát triển của kinh tế học chính trị ?
2. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế học chính trị Mác- Lênin? Phân biệt
đối tượng của kinh tế chính trị theo nghĩa rộng, hẹp ?
3. Phân tích phương pháp trừu tượng hóa khoa học của kinh tế học chính
trị Mác - Lênin. Phê phán những quan điểm sai trái liên quan tới vấn đề nghiên
cứu ?
4. Mối quan hệ giữa chức năng tư tưởng và chức năng thực tiễn và chức
năng tư tưởng của kinh tế học chính trị Mác - Lênin ?


18

Chương 2
SẢN XUẤT HÀNG HĨA
1. Sản xuất hàng hóa và hàng hóa
1.1. Sản xuất hàng hố và vai trị của nó trong phát triển lực lượng sản xuất
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã trải qua hai kiểu tổ chức kinh
tế đặc trưng: sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa. Đặc trưng cơ bản của
sản xuất tự cấp tự túc là sản xuất ra sản phẩm để tự tiêu dùng, còn sản xuất
hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán đáp ứng nhu cầu của xã hội chống
thông qua sự trao đổi trên thị trường. Ở đây, quan hệ giữa những người sản
xuất hàng hóa với nhau được biểu hiện thông qua thị trường- mua và bán sản
phẩm của lao động.
a. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa ra đời là một bước tiến quan trọng của nền sản xuất xã
hội, khi có những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
* Phân công lao động xã hội.

Phân công lao động là sự phân chia lao động xã hội thành những ngành
nghề khác nhau, tạo ra sự chun mơn hóa lao động sản xuất. Tham gia vào
q trình phân cơng lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất ra một, hoặc một
vài sản phẩm nhất định. Trong khi đó, nhu cầu cuộc sống của con người lại rất
đa dạng, phong phú, cần đến nhiều loại sản phẩm khác nhau. Vì vậy, để thỏa
mãn nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống, đòi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ
thuộc vào nhau, trao đổi sản phẩm của lao động với nhau.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ của khoa học, kỹ
thuật, phân công lao động càng phát triển thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng
mở rộng và đa dạng hơn. Xét về mặt lịch sử, phân công lao động xã hội là cơ
sở, là tiền đề để sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển
* Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất.
Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, sự tách biệt tương đối về
mặt kinh tế giữa những người sản xuất hình thành từ khi xuất hiện chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã làm cho những
người sản xuất độc lập với nhau, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu cá nhân
người lao động, sản phẩm làm ra thuộc quyền chi phối của họ. Do đó, người


19
này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác, nhất thiết phải thông
qua trao đổi, mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, sự tách biệt tương đối về mặt kinh
tế giữa những người sản xuất không chỉ do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
quy định. Trong nền sản xuất lớn, nó cịn do các hình thức sở hữu khác nhau về
tư liệu sản xuất, sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản
xuất quy định.
Sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại phải có đầy đủ hai điều kiện trên, thiếu
một trong hai điều kiện đó thì khơng có sản xuất hàng hóa.
b. Vai trị của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa ra đời là một bước tiến quan trọng trong sự phát triển

của nền sản xuất xã hội, đánh dấu một bước ngoặt của lịch sử xã hội lồi người,
đưa lồi người thốt khỏi tình trạng “mơng muội”, tiến lên xã hội văn minh.
Vai trò của sản xuất hàng hoá được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, sản xuất hàng hóa ra đời đã phá vỡ tính tự cấp, tự túc, bảo thủ,
trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, địa phương, vùng lãnh thổ; giải phóng lực lượng
sản xuất, mở rộng mối liên hệ kinh tế. Do đó, nó có tác động thúc đẩy sự phát
triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao động ngày
càng cao, khai thác triệt để lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người,
từng cơ sở sản xuất, từng ngành và từng địa phương, vùng lãnh thổ. Trên cơ sở
đó, năng xuất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng, đáp ứng ngày càng đầy đủ
hơn nhu cầu của xã hội. Khi sản xuất hàng hóa phát triển, quan hệ trao đổi hàng
hóa vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, nó cịn thúc đẩy phân công lao động quốc
tế, khai thác tốt hơn lợi thế so sánh để phát triển sản xuất ở mỗi nước cũng như
từng khu vực và trên toàn thế giới.
Thứ hai, sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để đáp ứng nhu cầu
của thị trường, của xã hội nên nó khơng bị giới hạn bởi quy mơ sản xuất, nhu
cầu, nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở sản
xuất mỗi địa phương, vùng lãnh thổ. Do đó, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc
ứng dụng nhanh nhất những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng.
Thứ ba, sản xuất hàng hóa chịu sự chi phối của những quy luật kinh tế
khách quan như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh... Do đó, người
sản xuất hàng hóa phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt, buộc họ
phải ln ln năng động, nhạy bén, tính tốn, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản


20
xuất, tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu
quả kinh tế, hạ thấp chi phí sản xuất đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu, thị
hiếu của người tiêu dùng.

Thứ tư, sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa khơng chỉ mở rộng
giao lưu kinh tế mà còn mở rộng giao lưu văn hóa giữa các địa phương, vùng
lãnh thổ, quốc gia, khu vực và thế giới; làm thỏa mãn ngày càng tốt hơn cả đời
sống vật chất và văn hố tinh thần người lao động. Từ đó, tạo động lực kích
thích sản xuất phát triển nhanh chóng.
1.2. Hàng hố
a. Khái niệm hàng hố và hai thuộc tính của hàng hố
Hàng hố là sản phẩm của lao động, có khả năng thoả mãn một nhu cầu
nào đó của con người và phải được đem trao đổi (bán-mua) trên thị trường.
Hàng hóa có thể ở dạng vật thể (hữu hình) như sắt, thép, lương thực, thực
phẩm, máy móc... hoặc ở dạng phi vật thể (vơ hình) như dịch vụ y tế, thương
mại, giáo dục, văn hóa, thương hiệu, sở hữu trí tuệ... Ngày nay, cùng với sự
phát triển của khoa học- công nghệ và sự phát triển của sản xuất hàng hóa, khái
niệm hàng hóa cũng được mở rộng hơn, nhiều loại hình trước đây vốn khơng
phải là hàng hóa, nay cũng được đem trao đổi (bán-mua) hoặc sử lý nó như
hàng hố.
Sản xuất hàng hóa ra đời từ cuối xã hội cộng sản nguyên thủy và đã tồn tại
qua các chế độ nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Dù
trong bất kỳ hình thái kinh tế-xã hội nào thì mục đích trực tiếp của sản xuất
hàng hố để bán, mục đích xét đến cùng là để tiêu dùng, tiêu cùng cho sản xuất
hoặc tiêu dùng cho sinh hoạt. Vì vậy, hàng hóa có hai thuộc tính là: giá trị sử
dụng và giá trị.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa là cơng dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn
một nhu cầu nào đó của con người.
Mỗi một hàng hóa được sản xuất ra đều có một hay một số cơng dụng nhất
định có thể thỏa mãn được một nhu cầu nào đó của con người, hoặc nhu cầu vật
chất, hoặc nhu cầu tinh thần. Ví dụ: máy móc, ngun vật liệu là sản phẩm vật
chất thỏa mãn nhu cầu cho người sản xuất; lương thực, thực phẩm thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng vật chất cá nhân; phim ảnh, sách báo thỏa mãn nhu cầu tinh
thần của con người...



21
Chính cơng dụng của vật phẩm làm cho hàng hố có giá trị sử dụng. Cơng
dụng hay giá trị sử dụng của hàng hóa là do những thuộc tính tự nhiên (lý, hóa,
sinh học) của thực thể hàng hóa đó quy định. Do đó, giá trị sử dụng, với ý nghĩa
là công dụng của vật phẩm là một phạm trù vĩnh viễn
Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần trong quá trình phát triển
của khoa học - kỹ thuật và của lực lượng sản xuất. Thí dụ: Than đá trước đây chỉ
dùng làm chất đốt, khi khoa học kỹ thuật phát triển than đá được dùng làm
nguyên liệu cho một số ngành cơng nghệ hóa chất, chế tạo ra nhiều sản phẩm có
cơng dụng khác nhau như cao su, tơ nhân tạo, thậm chí có thể là nước hoa... Xã
hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì giá trị sử dụng của vật
phẩm hàng hoá càng đa dạng, phong phú
Giá trị sử dụng với tư cách là một thuộc tính của hàng hóa không phải là
giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp mà là giá trị sử dụng xã hội, cho
người khác, thông qua trao đổi trên thị trường. Điều đó, địi hỏi người sản xuất
hàng hóa phải ln quan tâm đến nhu cầu xã hội, thị hiếu của người tiêu dùng,
làm cho sản phẩm của mình sản xuất ra được thị trường thừa nhận. Trong nền
sản xuất hàng hóa, giá trị sử dụng đồng thời là vật mang giá trị trao đổi.
- Giá trị của hàng hóa:
Để hiểu được thực thể giá trị của hàng hóa, phải đi từ giá trị trao đổi của
hàng hóa. Giá trị trao đổi là quan hệ về số lượng, là tỷ lệ trao đổi giữa các giá
trị sử dụng khác nhau.
Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc.
Hai hàng hố (vải và thóc) có giá trị sử dụng hoàn toàn khác nhau nhưng
chúng lại trao đổi được với nhau theo một tỷ lệ nhất định (1/5), vì chúng đều là
sản phẩm của lao động, do hao phí lao động của người sản xuất hàng hóa tạo ra.
Hao phí lao động chính cơ sở chung cho sự trao đổi giữa tất cả các hàng hóa, là
giá trị của hàng hóa. Với phương trình trao đổi trên, hao phí lao động để sản

xuất ra 1m vải ngang bằng hao phí lao động để sản xuất ra 5kg thóc; 1m vải có
giá trị bằng 5kg thóc
Giá trị của hàng hóa là hao phí lao động của người sản xuất hàng hóa
kết tinh trong hàng hóa đó. Giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi, là nội dung bên
trong; còn giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngồi của giá trị
khi trao đổi. Giá trị hàng hóa là biểu hiện quan hệ xã hội, quan hệ giữa những


22
người sản xuất hàng hóa. Trao đổi hàng hóa thực chất là trao đổi lao động ẩn
dấu trong các hàng hóa với nhau. Giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử.
Như vậy, hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Một sản
phẩm chỉ trở thành hàng hố khi nó vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị. Thiếu
một trong hai thuộc tính đó thì nó khơng gọi là hàng hố. Giá trị sử dụng và giá
trị là hai mặt đối lập, mâu thuẫn và thống nhất với nhau trong một hàng hố.
Trong nền sản xuất hàng hóa, người sản xuất khơng chỉ là người bán mà
cịn là người mua hàng hóa khác để thỏa mãn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Khi
sản xuất ra hàng hóa để bán thì mục đích của họ là giá trị chứ khơng phải là giá
trị sử dụng, nhưng trong tay họ lại có giá trị sử dụng; để có giá trị thì hàng hóa
họ sản xuất ra phải phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người mua, phải được thị
trường thừa nhận. Do đó, họ chú ý đến giá trị sử dụng (chất lượng, mẫu mã,
chủng loại hàng hố) cũng chính là để đạt mục đích giá trị. Ngược lại người
mua, mục đích của họ là giá trị sử dụng; nhưng muốn có được giá trị sử dụng
trước hết họ phải thực hiện được giá trị hàng hóa, tức là phải trả giá trị(trả tiền)
cho người sản xuất ra nó thì mới chi phối được giá trị sử dụng đó. Như vậy, việc
thực hiện giá trị và giá trị sử dụng là hai q trình khác nhau. Do đó, hàng hóa
sản xuất ra có thể bán được và cũng có thể khơng bán được. Điều đó địi hỏi
người sản xuất hàng hóa phải luôn quan tâm đến chất lượng, mẫu mã và giá cả
của hàng hoá; sản xuất phải phù hợp với nhu cầu, thị hiếu và khả năng thanh
toán của người tiêu dùng.

b. Tính chất hai mặt của lao động và sản xuất hàng hóa.
C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa, đó là là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Với phát hiện
quan trọng này, kinh tế chính trị của C. Mác thực sự là khoa học và cách mạng
- Lao động cụ thể: Là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của
những ngành nghề chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có đối tượng
mục đích, phương pháp, cơng cụ lao động và kết quả (sản phẩm làm ra) khác
nhau. Do đó, mỗi lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định.
Lực lượng sản xuất càng phát triển, phân cơng lao động xã hội- sự chun
mơn hóa càng cao thì lao động cụ thể càng đa dạng, phong phú và tạo ra nhiều
giá trị sử dụng khác nhau. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, tồn tại
cùng với nền sản xuất xã hội với ý nghĩa là lao động sản xuất ra những công
dụng vầ vật phẩm.


23
- Lao động trừu tượng: Là lao động của người sản xuất hàng hóa đã gạt bỏ
hình thức cụ thể của nó để quy về một cái chung, đồng chất. Đó là sự hao phí
sức lao động, tiêu hao sức lực, bắp thịt, thần kinh của người sản xuất hàng hóa.
Lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa
và tạo ra giá trị hàng hóa. Lao động trừu tượng chỉ được biểu hiện ra khi trao
đổi giữa những người sản xuất hàng hóa và phản ánh tính chất xã hội lao động
của những người sản xuất hàng hóa.
Chỉ có lao động của người sản xuất hàng hóa mới mang tính chất hai mặt
là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Đây là hai mặt của một quá trình lao
động sản xuất hàng hóa diễn ra trong cùng một khơng gian, thời gian. Quá trình
lao động cụ thể đồng thời là quá trình lao động trừu tượng.
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ánh tính chất tư
nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa. Bởi vì, đối với mỗi
người sản xuất hàng hóa, sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế

nào là việc riêng của họ. Nhưng mặt khác, lao động của người sản xuất hàng
hóa lại là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân cơng
lao động xã hội. Chính sự phân công lao động xã hội đã tạo ra sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa những người sản xuất hàng hóa
Lao động cụ thể và lao động trừu tượng phản ánh tính chất tư nhân và tính
chất xã hội của lao động sản xuất hàng hố. Đó là mâu thuẫn cơ bản của sản
xuất hàng hóa giản đơn. Mâu thuẫn đó được biểu hiện:
Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể phù
hợp với nhu cầu của xã hội, có thể khơng đủ cung cấp hoặc vượt quá nhu cầu
của xã hội. Trong trường hợp sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội, tức cung
lớn hơn cầu thì sẽ có một số hàng hóa khơng bán được, khơng thực hiện được
giá trị của hàng hóa.
Khi hao phí lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa cao hơn mức
hao phí lao động mà xã hội có thể chấp nhận thì hàng hóa khơng bán được,
người sản xuất sẽ bị thua lỗ, phá sản. Ngược lại, khi hao phí lao động cá biệt
của người sản xuất hàng hóa thấp hơn hao phí lao động mà xã hội có thể chấp
nhận thì hàng hóa bán được và có lãi, họ sẽ giàu lên nhanh chóng.
Vì vậy, sự vận động của mâu thuẫn giữa tính chất tư nhân và tính chất xã
hội của lao động sản xuất hàng hố sẽ dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, đồng


24
thời chứa đựng khả năng sản xuất thừa và là mầm mống của mọi mâu thuẫn
trong tiến trình phát triển của kinh tế hàng hóa.
c. Lượng giá trị hàng hóa
Giá trị hàng hóa là do hao phí lao động trừu tượng của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Lượng giá trị hàng hóa được đo bằng lượng
lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó và được tính bằng thời gian lao
động (ngày, giờ...) Nhưng trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một loại
hàng hóa, với điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động khác

nhau, do đó, thời gian lao động để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa cũng khác
nhau, đó là hao phí lao động cá biệt tạo ra giá trị cá biệt của hàng hoá. Trên thị
trường, cùng một loại hàng hoá, tuy được sản xuất trong điều kiện khác nhau
nhưng chúng được bán cùng một mức giá, đó là giá cả thị trường.
Vì vậy, lượng giá trị hàng hóa khơng thể tính bằng thời gian lao động cá
biệt mà phải tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đòi hỏi để sản xuất ra một
đơn vị hàng hóa nào đó trong điều kiện sản xuất bình thường với một trình độ
thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó. Thời
gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa gần sát với thời gian lao
động cá biệt của những người sản xuất ra phần lớn hàng hóa đó trên thị trường.
Thời gian lao động xã hội cần thiết không phải là đại lượng cố định, nó
thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, lượng giá trị hàng
hóa cũng thay đổi. Sự thay đổi đó tùy thuộc vào nhiều yếu tố như năng suất,
cường độ và tính chất của lao động.
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được tính
bằng số lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian, hoặc lượng thời gian
lao động để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Nếu trong cùng một đơn vị thời gian
làm ra được nhiều sản phẩm hơn trước, hoặc sản xuất ra một đơn vị sản phẩm tốn
ít thời gian hơn trước gọi là tăng năng suất lao động. Để tăng năng suất lao động,
phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, đổi mới cơng nghệ, hợp lý hóa sản xuất, nâng
cao trình độ chun mơn ngành nghề cho người lao động.
Khi năng suất lao động tăng lên, trong một đơn vị thời gian, người sản
xuất hàng hóa tạo ra được nhiều sản phẩm hơn, lượng giá trị một đơn vị sản
phẩm giảm, nhưng tổng giá trị không đổi.


25
Tăng cường độ lao động là tăng mức độ khẩn trương căng thẳng, tức là
tăng sự hao phí sức lực của người lao động trong một đơn vị thời gian. Do đó,

số lượng hàng hóa được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên và tổng
lượng giá trị cũng tăng lên tương ứng, nhưng lượng giá trị một đơn vị sản phẩm
khơng đổi.
Trong q trình phát triển của nền sản xuất hàng hóa, người sản xuất hàng
hóa có sự khác nhau về mức độ thành thạo và trình độ nghề nghiệp. Nhưng khi
trao đổi trên thị trường, phải căn cứ vào lượng giá trị (thời gian lao động xã hội
cần thiết). Do đó, khi xét đến lượng giá trị hàng hóa và quan hệ trao đổi giữa
những người sản xuất hàng hóa phải xét đến lao động giản đơn và lao động
phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động không qua đào tạo mà bất cứ người nào có
khả năng lao động bình thường đều làm được. Còn lao động phức tạp là lao
động phải được học tập, đào tạo chuyên môn ngành nghề. Năng suất của lao
động phức tạp bao giờ cũng là bội số của lao động giản đơn. Trong cùng một
đơn vị thời gian, lao động phức tạp sẽ tạo ra số lượng hàng hóa lớn hơn nhiều
so với lao động giản đơn. Để trao đổi ngang bằng giữa những sản phẩm hàng
hóa của lao động phức tạp và lao động giản đơn, người ta lấy lao động giản đơn
làm đơn vị tính tốn và quy tất cả lao động phức tạp thành lao động giản đơn.
Trong nền kinh tế hàng hóa dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, việc quy
đổi diễn ra một cách tự phát trên thị trường.
2. Bản chất và chức năng của tiền tệ
2.1. Nguồn gốc và bản chất của tiền
Khơng phải ngay từ khi có sản xuất hàng hóa tiền tệ đã ra đời. Tiền tệ ra
đời là kết quả của sự vận động, phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng
hóa. Tiền tệ là một hình thái giá trị, nhưng là hình thái giá trị đặc biệt phản
ánh trình độ phát triển cao của sản xuất và lưu thơng hàng hóa. Trong lịch sử
phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, tương ứng với mỗi giai đoạn lịch
sử và trình độ phát triển của nó có một hình thái giá trị. Hình thái giá trị cũng
phát triển từ thấp đến cao: hình thái giản đơn, hình thái mở rộng, hình thái
chung, hình thái tiền tệ.
a. Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên.



×