Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Thách thức thực hiện chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn 2011-2020 và kinh nghiệm quốc tế xây dựng chính sách về biến đổi khí hậu giai đoạn mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.86 KB, 11 trang )

RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

THÁCH THỨC THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA
VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU GIAI ĐOẠN 2011-2020
VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH
VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU GIAI ĐOẠN MỚI
Chu Thị Thanh Hương*

Tóm tắt: Sau 10 năm triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (BĐKH),
bối cảnh thế giới và Việt Nam đã có nhiều thay đổi. BĐKH diễn biến ngày càng nhanh hơn, mạnh
hơn, tác động đến phát triển kinh tế, xã hội và tài nguyên môi trường. Các thách thức về suy thối
tài ngun mơi trường, suy giảm kinh tế… vẫn còn hiện hữu trên thế giới. Việt Nam tiếp tục quá
trình hội nhập quốc tế sâu rộng, bắt đầu giai đoạn phát triển mới 2021-2030 với nhiều cơ hội và
thách thức đan xen khi chuyển từ giai đoạn giảm phát thải “tự nguyện” sang giảm phát thải “bắt
buộc” theo quy định của Thỏa thuận Paris về BĐKH. Bài viết trình bày về những thách thức trong
thực hiện Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn 2011-2020 và đúc kết những kinh nghiệm quốc
tế trong xây dựng Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050.
Từ khóa: Biến đổi khí hậu; Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu; Giảm nhẹ phát thải khí
nhà kính; Thích ứng với biến đổi khí hậu.
1. Bối cảnh
1.1. Đánh giá chung các kết quả đạt được của Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu
giai đoạn 2011-2020
Ngày 05 tháng 12 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt ban hành Chiến lược quốc
gia về BĐKH (Thủ tướng Chính phủ, 2011). Chiến lược đã đề ra mục tiêu chung, 4 mục tiêu cụ
thể và 10 nhóm nhiệm vụ. Sau 10 năm triển khai thực hiện, Chiến lược đã đạt được những kết quả
chính. Trên cơ sở đánh giá kết quả tình hình thực hiện chiến lược cho thấy, đến năm 2020, Việt
Nam cơ bản vẫn đảm bảo an ninh lương thực và an ninh năng lượng; xóa đói giảm nghèo, bình
đẳng giới, an sinh xã hội tiếp tục được bảo đảm; sức khỏe cộng đồng được quan tâm, đời sống của
nhân dân từng bước được nâng cao. So với giai đoạn trước khi ban hành Chiến lược, nhận thức về
BĐKH đã được nâng cao hơn (AFD và Cục BĐKH, 2020). Việt Nam là thành viên có trách nhiệm,
nỗ lực tham gia Thỏa thuận Paris về BĐKH, phê duyệt Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về


*

Tiến sĩ, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

107


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

BĐKH; xây dựng và cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), theo đó giảm 9% phát
thải khí nhà kính (KNK) đến năm 2030 so với kịch bản phát triển thông thường bằng nguồn lực
trong nước và giảm 27% phát thải KNK (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2020b) thông qua các hợp
tác song phương, đa phương khác, góp phần tích cực với cộng đồng quốc tế trong ứng phó với
BĐKH tồn cầu. Bên cạnh những kết quả đạt được, những thách thức trong thực hiện Chiến lược
giai đoạn 2011-2020 vẫn tồn tại và được trình bày cụ thể như sau:
1.2. Những thách thức trong thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn
2011-2020
Thách thức về thích ứng với BĐKH trong ngành khí tượng thủy văn và phòng chống thiên tai
Xu hướng BĐKH và nước biển dâng ở Việt Nam ngày càng rõ và tác động đến tất cả các ngành,
lĩnh vực và địa phương. Theo các kịch bản BĐKH và nước biển dâng (NBD), BĐKH làm gia tăng
các hiện tượng thời tiết cực đoan và thiên tai (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016). Một số tỉnh
thường xuyên bị thiệt hại lớn do thiên tai như Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị, Phú Yên… Thiệt
hại do thiên tai đối với nền kinh tế vẫn cịn lớn, ước tính khoảng 1-1,5% GDP/năm (Bộ Tài nguyên
và Môi trường, 2020b). Tuy nhiên, hệ thống trạm quan trắc khí tượng thủy văn chưa đáp ứng yêu cầu
hiện đại hóa cơng tác dự báo, cảnh báo thiên tai, đặc biệt, đối với một số loại hình thiên tai như lũ
quét, lũ ống, sạt lở, dông, lốc, mưa đá và sương mù trên biển. Việc đầu tư, xây dựng nâng cấp các
cơng trình trọng điểm ứng phó với thiên tai gồm đê sông, đê biển, hồ chứa, công trình tránh trú tàu
thuyền, các điểm sạt lở cịn chưa đáp ứng yêu cầu. Việc điều tra, thành lập bản đồ phân vùng cảnh
bảo nguy cơ sạt lở đất đến cấp xã còn chưa được triển khai rộng rãi đến các địa phương.
Thách thức về thích ứng với BĐKH trong ngành nông nghiệp

Trong giai đoạn 10 năm tiếp theo, với định hướng phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, khai thác và phát huy lợi thể nền nông
nghiệp nhiệt đới, thì việc nâng cao khả năng chống chịu, thích ứng của nơng nghiệp, nơng dân với
biến đổi khí hậu từng vùng, miền là cần thiết. Nhưng những khó khăn trong việc chuyển đổi diện
tích đất nơng nghiệp sang mục đích sử dụng phi nông nghiệp tiếp tục diễn ra ở nhiều địa phương;
chủ trương tích tụ đất nơng nghiệp, xây dựng cánh đồng lớn vẫn cịn gặp khó khăn; quy hoạch
chuyển đổi cây trồng, vật nuôi chưa đồng bộ; số lượng giống cây trồng vật ni mới, có khả năng
chống chịu với BĐKH vẫn cịn ít; việc cảnh báo, dự báo và kiểm soát, dịch bệnh do BĐKH gây ra
cho cây trồng và vật ni cịn rất hạn chế; bảo hiểm nơng nghiệp mới chỉ thực hiện thí điểm.
Thách thức về thích ứng với BĐKH trong phát triển và bảo tồn tài nguyên nước
Tài nguyên nước có mối liên hệ chặt chẽ với khí hậu; một trong những thách thức là căng
thẳng trong chia sẻ tài nguyên nước giữa các vùng, khu vực, địa phương trên cùng một lưu vực
sông, hay giữa các quốc gia có cùng hệ thống sơng xuyên biên giới… Làm thế nào để thúc đẩy
phát triển và sử dụng tài nguyên nước bền vững; nâng cao năng lực thích ứng của hệ thống tài
nguyên nước nhằm giảm tính dễ bị tổn thương trước BĐKH là thách thức lâu dài đối với phát triển
và bảo tồn tài nguyên nước trong điều kiện nâng cao năng lực thích ứng với BĐKH. Những thách
108


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

thức như: vẫn còn 70% diện tích trên cả nước chưa được lập bản đồ điều tra tài nguyên nước dưới
đất theo tỷ lệ 1:100.000 (AFD và Cục BĐKH, 2020); chính sách, pháp luật về sử dụng tiết kiệm,
hiệu quả, tích nước, điều tiết, quản lý, khai thác và đa mục tiêu tài nguyên nước phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân chưa đồng bộ và hoàn thiện. Việc xây dựng, nâng cấp các
cơng trình thủy lợi, thủy điện, hệ thống đê sông, đê biển vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng
xâm ngập mặn ở ĐBSCL, thiếu nước do hạn hán ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên vẫn tiếp tục diễn ra ngày càng trầm trọng.
Thách thức về thích ứng với BĐKH, nước biển dâng ở vùng ven biển và hải đảo
Việt Nam nằm trong số 10 nước trên thế giới có chỉ số cao nhất về chiều dài bờ biển (3260

km) so với diện tích lãnh thổ (khơng kể một số đảo), với khoảng 20 triệu người sống ở ven bờ và
17 vạn người sống ở các đảo, chiếm 35,47% lao động cả nước. Với lợi thế đó, giai đoạn 20212030, phát triển kinh tế biển là một trong những giải pháp chiến lược và được đánh giá là đóng vai
trị ngày càng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, phấn đấu đến
năm 2030, quy mô kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển bằng 65 - 70% GDP cả nước (Báo Điện
tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Tuy nhiên, BĐKH và NBD vẫn là một trong những thách
thức lớn với việc phát triển bền vững kinh tế biển. Những thách thức có thể kể đến như: thiếu năng
lực trong việc giám sát mơi trường biển, cảnh báo sớm và ứng phó khẩn cấp với các thảm họa đại
dương liên quan đến biến đổi khí hậu; xói mịn bờ biển, bờ sơng, xâm thực nước biển, mặn hóa
đất và dịng chảy ngược của nước biển vào các cửa sông do nước biển dâng; chưa thực hiện một
cách đầy đủ các hoạt động bảo vệ và phát triển các vùng hải đảo ứng phó với BĐKH, NBD.
Thách thức đối với việc bảo tồn và phát triển rừng
Bảo tồn và phát triển rừng là biện pháp giảm thiểu BĐKH nhanh nhất và hiệu quả nhất, đem
lại ý nghĩa lớn cả về mặt thích ứng và giảm nhẹ. Rừng chính là “bể chứa” hấp thụ và lưu giữ cácbon tự nhiên. Trong đó, trồng rừng được coi là hoạt động quan trọng nhất trong hành động giảm
thiểu biến đổi khí hậu vơ điều kiện. Giai đoạn, 2011-2020, Việt Nam đã ghi nhận độ che phủ rừng
có tăng, nhưng chất lượng rừng tiếp tục suy giảm. Với quan điểm, rừng vừa là yếu tố quan trọng
của môi trường sinh thái, góp phần giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo tồn
đa dạng sinh học, tỷ lệ che phủ rừng giữ ổn định ở mức 42-43%, đóng góp hiệu quả vào việc thực
hiện cam kết giảm phát thải KNK do quốc gia tự quyết định (Thủ tướng Chính phủ, 2021). Với
mục tiêu đó, việc quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh
học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái; phát triển mạnh và nâng cao chất lượng rừng trồng,
nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ ven biển là những thách thức
không nhỏ. Đặc biệt, trong bối cảnh, phá rừng vẫn xảy ra ở nhiều địa phương Tây Nguyên, Nam
Trung Bộ. Kinh phí cho việc trồng rừng ngập mặn ven biển không đáp ứng đủ so với mục tiêu đề
ra. Đa dạng sinh học tiếp tục có xu hướng suy giảm. Sự tham gia của doanh nghiệp lâm nghiệp
vào bảo vệ và phát triển rừng để ứng phó BĐKH chưa xứng với tiềm năng; việc sử dụng đất ở các
nơng, lâm trường cịn bất cập.
109


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG


Thách thức quan trọng đối với mơ hình phát triển hiện tại trong giảm cường độ phát thải khí
nhà kính
Giao thông vận tải vẫn tiếp tục là ngành sử dụng nhiều năng lượng, phát thải khí nhà kính
(KNK) lớn, gây ô nhiễm môi trường không khí. Theo Thông báo quốc gia lần thứ ba của Việt Nam
gửi Ban Thư ký Cơng ước, phát thải khí nhà kính của lĩnh vực giao thông vận tải là 30,5 triệu tấn
CO2tđ, chiếm 17,8% tỷ lệ phát thải khí nhà kính năm 2014 trong lĩnh vực năng lượng (Bộ Tài
nguyên và Môi trường, 2019). Trong khi đó, hệ thống giao thơng vận tải cơng cộng ở các đơ thị
Việt Nam vẫn cịn hạn chế. Tỷ lệ vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt năm 2019 ở Hà Nội
đạt 17,3% (Báo điện tử Hà Nội mới, 2019) và khố lượng vận tải hành khách cơng cộng ở TP Hồ
Chí Minh đạt 98,3% (Ấn phẩm điện tử Thời nay của Báo nhân dân, 2020). Phương tiện vận tải cá
nhân vẫn chiếm tỷ trọng lớn và tiếp tục gia tăng nhanh. Việc phát triển và sử dụng nhiên liệu ít
phát thải như nhiên liệu khí tự nhiên nén (CNG), khí hóa lỏng (LPG), xăng sinh học cịn rất hạn
chế.
Nơng nghiệp tiếp tục là ngành kinh tế quan trọng của quốc gia. Tuy nhiên, phát triển nông
nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ vẫn còn là thách thức lớn trong việc
thay đổi phương thức canh tác nông nghiệp, sử dụng nước, phân bón, thức ăn chăn ni phù hợp
trên diện rộng. Phát triển vùng, liên kết vùng trong nông nghiệp, chia sẻ nguồn nước tưới còn nhiều
bất cập. Việc lạm dụng phân bón hóa học và thuốc BVTV trong canh tác nơng nghiệp, xử lý chất
thải vật nuôi tiếp tục là những yếu kém gây ơ nhiễm, suy thối mơi trường và phát thải KNK. Theo
Thông báo quốc gia 3 của Việt Nam, tổng phát thải trong lĩnh vực nông nghiệp và LULUCF năm
2014 là 52,3 triệu tấn CO2 tđ, dự báo sẽ tăng lên 69 triệu tấn năm 2020 và đạt 63,2 triệu tấn CO2
tđ vào năm 2030 (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2019). Do vậy, mục tiêu giảm 20% phát thải
KNK trong 10 năm (tức đến 2024 chỉ còn khoảng 42 triệu tấn CO2 tđ) của ngành Nông nghiệp và
Phát triển nơng thơn có thể sẽ khó đạt được.
Sản xuất cơng nghiệp và xây dựng. Nhiều mẫu hình sản xuất bền vững trong công nghiệp,
thiết kế sản phẩm bền vững cũng đã bước đầu được thực hiện, tuy nhiên, trên thực tế, còn ở phạm
vi hẹp, đa phần nhờ sự hỗ trợ của các dự án có sự hỗ trợ của đối tác phát triển. Hiện nay khơng có
số liệu thống kê về chỉ tiêu về giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp ứng dụng công nghệ cao
ở Việt Nam, song có thể thấy là tỷ lệ này chưa cao như yêu cầu của Chiến lược “Tăng cường

nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao trong các ngành công nghiệp trọng điểm; đến năm 2020,
nâng cao giá trị sản xuất công nghiệp của các ngành công nghiệp áp dụng công nghệ cao đảm
bảo giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp khoảng 42 - 45%; tăng cường đổi mới
công nghệ theo hướng áp dụng công nghệ cao, đạt tỷ lệ đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị trên 20%
vào năm 2020”. Việc xây dựng các cơng trình xanh, nhìn chung, chưa phát triển mạnh mẽ, chưa
xứng với tiềm năng của thị trường.
Quản lý chất thải. Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2020 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường thì lượng chất thải rắn tăng nhanh, cơ cấu thành phần phức tạp, tỷ lệ chất thải nhựa
110


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

cao. Tổng khối lượng CTR sinh hoạt phát sinh trên địa bàn 51/63 tỉnh thành phố là khoảng 66.904
tấn/ngày. Các địa phương có khối lượng CTR sinh hoạt phát sinh trên 1.000 tấn/ngày chiếm 25%
(trong đó có Đồng Nai, Hà Nội phát sinh trên 6.000 tấn/ngày) (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2020a).
Về xây dựng cộng đồng các mơ hình cộng đồng với sinh kế theo hướng các-bon thấp cịn
manh mún, nhỏ lẻ. Các mơ hình cộng đồng chủ yếu được thực hiện và triển khai từ nguồn hỗ trợ
của các tổ chức NGO, CSO và mới chỉ được triển khai thí điểm mà chưa được nhân rộng trên quy
mô lớn.
Thách thức lớn với cơ cấu năng lượng than đá chiếm ưu thế và thúc đẩy sử dụng năng lượng
sạch, năng lượng tái tạo
Nguồn điện quốc gia trong thời gian tới vẫn chịu sự phụ thuộc vào nhiệt điện than, trong đó
ngun liệu chính là nguồn than nhập khẩu, đặt ra những nguy cơ về ô nhiễm môi trường và an
ninh năng lượng. Trong khi nguồn năng lượng từ thủy điện nhỏ gần như đã được khai thác tới hạn;
các nguồn năng lượng tái tạo có tiềm năng khai thác lớn ở Việt Nam như năng lượng gió và năng
lượng mặt trời cịn thiếu sự đồng bộ trong phát triển, hệ thống truyền tải điện gây lãng phí, gián
đoạn nguồn lực đầu tư; cơng tác quy hoạch năng lương tái tạo còn bất cập, chưa có tầm nhìn xa.
Ngồi ra, vẫn cịn tiềm năng lớn về sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng trong các ngành,
lĩnh vực chưa được khai thác hết. Việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các công nghệ, thiết bị,

sản phẩm tiêu dùng sử dụng năng lượng hiệu quả, sử dụng nguồn năng lượng phi hóa thạch, phát
thải thấp chưa có nhiều chuyển biến mạnh mẽ.
Nhìn chung, đến năm 2020, Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức về an ninh nguồn
nước, đặc biệt là ở khu vực ven biển Nam Trung Bộ, ĐBSCL và Tây Nguyên. Cơ sở hạ tầng về y
tế vẫn chưa đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân trong bối cảnh dịch bệnh do BĐKH
diễn biến phức tạp. Nền kinh tế các-bon thấp chưa trở thành xu hướng chủ đạo; giảm nhẹ phát thải
KNK và tăng khả năng hấp thụ KNK chưa trở thành chỉ tiêu bắt buộc trong phát triển kinh tế - xã
hội (sẽ bắt buộc kể từ năm 2021). Đây tiếp tục là những thách thức cho phát triển bền vững, tăng
trưởng xanh, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu trong giai đoạn mới, cũng phù hợp với đánh
giá của Ban Chấp hành Trung ương: “Năng lực và nguồn lực về quản lý tài ngun, bảo vệ mơi
trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai còn hạn chế”.
2. Kinh nghiệm quốc tế ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn mới
Để ứng phó với biến đổi khí hậu trong giai đoạn mới, các quốc gia đề xuất các giải pháp về
giảm nhẹ phát thải khí nhà kính hướng tới nền kinh tế các-bon thấp, tăng cường hiệu quả thích ứng
với biến đổi khí hậu và tăng cường các phương thức ứng phó với biến đổi khí hậu, cụ thể như sau:
2.1. Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, hướng tới nền kinh tế các-bon thấp là xu hướng
bắt buộc
Kiểm sốt phát thải khí nhà kính. Trong Chương trình quốc gia về BĐKH (The Auspices of
National Development and Reform Commission People’s Republic of China, 2007), Trung Quốc
111


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

đã đề ra các giải pháp nhằm kiểm soát phát thải khí nhà kính như: đẩy nhanh việc chuyển đổi mơ
hình tăng trưởng kinh tế; tăng cường hướng dẫn chính sách về tiết kiệm và sử dụng năng lượng
hiệu quả; tăng cường giám sát và điều hành của chính phủ về tiết kiệm năng lượng; phát huy tác
dụng của các cơ chế dựa trên thị trường để tiết kiệm năng lượng; nâng cao nhận thức của cộng
đồng và xã hội về tiết kiệm năng lượng; đẩy nhanh việc xây dựng một xã hội bảo tồn tài nguyên.
Năng lượng là lĩnh vực ưu tiên cao trong khi nông nghiệp và sử dụng đất, thay đổi sử dụng

đất và lâm nghiệp (LULUCF) cũng là những lĩnh vực được chú trọng ở các nước đang phát triển.
Năng lượng là lĩnh vực phát thải KNK trọng tâm, đồng thời cũng gắn chặt với sự phát triển kinh
tế, xã hội. Do đó, tất cả các nước phát triển và đang phát triển, kể cả các quốc gia đảo nhỏ cũng
chú trọng giảm phát thải KNK trong lĩnh vực năng lượng. Nội dung chính là tập trung vào: (i) sử
dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng trong các ngành, lĩnh vực và; (ii) phát triển năng lượng tái
tạo. Đây là lĩnh vực trọng tâm ở các nước phát triển như EU, Nhật Bản và Hàn Quốc. Ngay từ năm
1980, Chính phủ Trung Quốc đã áp dụng nguyên tắc “đối xử bình đẳng để phát triển và bảo tồn
với nhấn mạnh ngay lập tức cho sau này”, coi bảo tồn năng lượng là một vấn đề có tầm quan trọng
chiến lược trong chính sách năng lượng. Với mục tiêu, giảm tỷ trọng than trong cơ cấu năng lượng
sơ cấp của Trung Quốc từ 76,2% năm 1990 xuống 68,9% năm 2005, trong khi tỷ trọng dầu, khí
đốt và thủy điện tăng lên 16,6%, 2,1% và 5,1% năm 1990 lên 21,0%, 2,9% và 7,2 % vào năm
2005, tương ứng (China, 2007). Ở các nước đang phát triển, do điều kiện và cơ cấu kinh tế, các
lĩnh nông nghiệp, lâm nghiệp và LULUCF cũng được coi trọng, trong đó bảo vệ và phát triển rừng,
chương trình REDD+ được triển khai ở nhiều quốc gia (Fiji, Tanzania, Kenya…).
Tăng cường hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, các mục tiêu tự nguyện để thúc đẩy
giảm phát thải KNK trong lĩnh vực năng lượng. Nhật Bản đã ưu tiên phát triển phương tiện giao
thơng vận tải có mức tiêu hao nhiên liệu và phát thải các-bon thấp. Các nhóm ngành cơng nghiệp
Nhật Bản cũng ưu tiên thiết lập các kế hoạch hành động tự nguyện (VAP) và đặt ra các giới hạn
phát thải và các mục tiêu giảm thiểu tự nguyện. Tiêu chuẩn “top-runner” do Chính phủ đặt ra thúc
đẩy các ngành công nghiệp đạt được các mục tiêu tự nguyện của họ (The Plan for Global Warming
Countermeasures). Tại Hàn Quốc và Nhật Bản, các tiêu chuẩn về dấu chân các-bon đối với các
sản phẩm đã được thiết lập, qua việc dán nhãn các-bon đã giúp các doanh nghiệp đổi mới công
nghệ, thay thế nguyên liệu đầu vào và xử lý chất thải trong quá trình sản xuất nhằm đáp ứng các
tiêu chuẩn về phát thải KNK. Hàn Quốc cũng ban hành tiêu chuẩn đầu tư tái tạo (RPS) đặt ra quy
định nghiêm ngặt đối với các nhà sản xuất điện quốc gia nhằm đáp ứng các mục tiêu cho tỷ lệ điện
từ nguồn năng lượng tái tạo (Government of the Republic of Korea, 2017).
Thiết lập hệ thống buôn bán phát thải (ETS), thực hiện cơ chế tín chỉ chung (JCM) và thể chế
hóa hoạt động giảm nhẹ. Kinh nghiệm của EU, Hàn Quốc và Nhật Bản cho thấy ETS sẽ thúc đẩy
hoạt động giảm phát thải KNK, huy động được nguồn lực từ khối tư nhân cũng như khuyến khích
đổi mới công nghệ, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.

112


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

2.2. Tăng cường hiệu quả thích ứng với biến đổi khí hậu
Thích ứng với biến đổi khí hậu lấy nơng nghiệp là lĩnh vực ưu tiên. An ninh lương thực là một
trong những lĩnh vực cần được quan tâm trong bối cảnh BĐKH diễn biến ngày càng gia tăng, đặc
biệt là đối với các nước đang phát triển vốn dựa vào nông nghiệp. Đây là một trong những ưu tiên
trong chính sách, chiến lược và kế hoạch thích ứng với BĐKH của các quốc gia đảo nhỏ SIDS,
các quốc gia đang phát triển và LDC. Tài nguyên nước ở các nước đang phát triển là điều kiện để
bảo đảm an ninh lương thực do có mối quan hệ chặt chẽ với hạn hán, lũ lụt và sản xuất lương thực.
Việc bảo đảm sinh kế cho người dân ở những khu vực chịu tác động mạnh của BĐKH như khu
vực ven biển, thường xuyên xảy ra hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn là rất quan trọng. Vì vậy, cần có
các đánh giá tác động xây dựng và phát triển các sinh kế bền vững, chống chịu với BĐKH như
khai thác thủy sản bền vững, du lịch sinh thái đã được thực hiện ở Kenya, Malawi… Thái Lan
(Intended Nationally Determined Contributions) cũng đã đạt được những thành công nhất định
trong việc phân bổ nước hiệu quả, ứng phó lũ lụt và hạn hán, lồng ghép quản lý tổng hợp tài nguyên
nước kết hợp với quy hoạch sử dụng đất, điển hình là dự án “Túi chứa nước” ở quận Bang Khu
Thian, ngoại ơ Bangkok
Thích ứng với nước biển dâng dựa vào hệ sinh thái. Kinh nghiệm của các nước đảo nhỏ cho
thấy nước biển dâng là vấn đề không thể đảo ngược, liên quan đến sinh kế, hạ tầng kỹ thuật, xã
hội và tài nguyên môi trường vùng ven biển. Việc thích ứng với nước biển dâng gắn liền với đa
dạng hóa sinh kế và phịng chống rủi ro thiên tai. Rất nhiều quốc gia đang phát triển, SIDS, LDC
như Seychelles (Seychelles, 2020), Quần đảo Solomon, Kenya, Malawi, Thái Lan, Bangladesh,
Gambia… đều lựa chọn giải pháp thích ứng dựa vào hệ sinh thái (EbA), giải pháp dựa vào tự nhiên
(NbS) là các giải pháp ưu tiên, cụ thể là phát triển và bảo vệ rừng ngập mặn ven biển, bảo vệ và
phục hồi hệ sinh thái biển… Các giải pháp này cũng gắn liền với bảo đảm sinh kế bền vững dựa
vào nguồn lợi từ biển cho các cộng đồng, nâng cao sức chống chịu trước các tác động của BĐKH.
Việc phát triển hài hòa với tự nhiên, tuân theo quy luật tự nhiên là hết sức quan trọng. Bảo vệ và

phát triển rừng là giải pháp mang lại lợi ích kép cả về thích ứng và giảm nhẹ. Do đó, nhiều nước
như Kenya, nơi rừng hỗ trợ hàng triệu người chăn nuôi; nơi cư trú của các loài động vật hoang dã
là nguồn lợi lớn về du lịch đều khuyến khích thúc đẩy bảo vệ và phát triển rừng (Government of
Kenya, 2010).
Nâng cao vai trò của chính quyền địa phương, tăng cường sự liên kết giữa các vùng, địa
phương trong thích ứng với biến đổi khí hậu. Liên minh châu Âu đã khuyến khích tất cả các quốc
gia thành viên áp dụng chiến lược thích ứng một cách tồn diện. Theo đó, đã cung cấp các hướng
dẫn để xây dựng các chiến lược, kế hoạch thích ứng. Đồng thời, cũng khuyến khích sự liên kết,
hợp tác giữa các thành viên trong khối thông qua việc đưa nội dung thích ứng với BĐKH trong
Thoả ước Thị trưởng (AFD và Cục BĐKH, 2020).
Ưu tiên lĩnh vực thích ứng liên quan đến sức khỏe con người, chú trọng đến các biện pháp
ứng phó với tác động của BĐKH và gia tăng dịch bệnh. Châu Âu và Nhật Bản có nhiều kinh
113


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

nghiệm đối với vấn đề sức khỏe trong bối cảnh BĐKH, đặc biệt là người già. Trong đó, cần đánh
giá và thống kê ảnh hưởng của BĐKH đến sức khỏe con người để lồng ghép vào kế hoạch, chương
trình y tế cơng cộng, đảm bảo ứng phó tốt những tác động của thay đổi nhiệt độ, bệnh truyền nhiễm
mới… Vấn đề này đặc biệt cần được quan tâm trong bối cảnh dịch Covid 19 đang lây lan mạnh
như hiện nay.
2.3. Tăng cường các phương thức ứng phó với biến đổi khí hậu
a) Tăng cường phát triển nguồn nhân lực, phát triển các-bon thấp và thích ứng với khí hậu
Tại Điều 6 của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC), giáo dục,
đào tạo và nâng cao nhận thức cộng đồng được xác định là những lĩnh vực quan trọng sẽ góp phần
vào các nỗ lực giảm thiểu biến đổi khí hậu, tăng cường khả năng thích ứng và khả năng chống
chịu trước những tác động tiêu cực của BĐKH. Thỏa thuận Paris (Mục 72-84) đã nêu rõ hơn nữa
nhu cầu của các quốc gia trong việc tăng cường năng lực và thể chế. Đây là một trong những trụ
cột quan trọng trong việc đảm bảo rằng các quốc gia có thể thực hiện NDC và Kế hoạch thích ứng

quốc gia (NAP). Malawi cũng là một trong các quốc gia tiên phong trong việc xây dựng quốc gia
chống chịu với biến đổi khí hậu dựa trên tri thức vào năm 2030, theo đuổi lộ trình phát triển cácbon thấp, đây cũng là quan điểm trong Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu của Malawi cập
nhật vào năm 2021 (Malawi, 2021). Trong NDC cập nhật năm 2020, Việt Nam cũng đưa việc phát
triển và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, gồm nhân lực, công nghệ, tài chính, là giải pháp quan
trọng để thúc đẩy việc thực hiện NDC. Trong đó việc phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn lực về
nhân lực được nêu ra đầu tiên với những giải pháp về tăng cường năng lực cho các Bộ hỗ trợ tiếp
cận các nguồn vốn đầu tư từ các quỹ nước ngoài một cách hiệu quả hơn; Xây dựng, triển khai
chương trình đào tạo, đào tạo lại cán bộ về biến đổi khí hậu; Xây dựng, triển khai chương trình
giảng dạy, cập nhật kiến thức về biến đổi khí hậu và mơi trường trong hệ thống giáo dục, đào tạo
quốc gia.
b) Tăng cường tiếp cận và huy động nguồn lực tài chính quốc tế, nguồn lực trong nước và sự
tham gia của khối doanh nghiệp trong ứng phó với biến đổi khí hậu
Quỹ quốc tế. Kinh nghiệm của các quốc gia đảo nhỏ SIDS và các nước đang phát triển tương
tự cũng đều cho rằng, đây là một nguồn lực quan trọng để ứng phó với BĐKH. Điều này cũng
hồn tồn phù hợp với chính sách và nhận định mà UNFCCC và Thỏa thuận Paris đã đề cập. Các
nước Gambia, Kenya, Tanznia, Quần đảo Solomon (Ministry of Environment, Climate Change,
Disaster Management and Meteorology, 2012) đều đã và đang thực hiện các dự án hỗ trợ từ các
quỹ mơi trường và khí hậu đa phương như Quỹ Khí hậu Xanh (GCF), Quỹ Mơi trường Tồn cầu
(GEF), Quỹ quốc gia kém phát triển (LDCF), Quỹ thích ứng (AF), WB, ADB, Quỹ của Ngân hàng
Phát triển Châu Phi (AfDB), Quỹ Biến đổi Khí hậu Đặc biệt (SCCF), các ngân hàng và các quỹ
song phương. Các đối tác phát triển khác cũng đóng vai trị rất quan trọng như GIZ, USAID,
AusAID… Các lĩnh vực hỗ trợ là lâm nghiệp, phịng chống thiên tai, hạ tầng thích ứng BĐKH,
năng lượng tái tạo, tăng cường năng lực…
114


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Quỹ quốc gia để ứng phó với biến đổi khí hậu. Tanzania đã thành lập các Quỹ Ủy thác Môi
trường Quốc gia, Quỹ Quốc gia về BĐKH và Quỹ REDD; Thanh toán cho Dịch vụ Mơi trường

(ví dụ, Thanh tốn cho Dịch vụ Hệ sinh thái - PES); Quỹ từ các tổ chức phi chính phủ. Các quỹ
này là nguồn thu do Chính phủ thu được thơng qua các khoản thuế và phí từ các khoản đầu tư khác
nhau liên quan đến ứng phó với BĐKH. Bangladesh (Bangladesh’s Ministry of Finance, 2014) đã
thành lập các quỹ về ứng phó với BĐKH như Quỹ doanh thu, Quỹ ủy thác BĐKH và Quỹ chống
chịu BĐKH Bangladesh - huy động nguồn lực từ các đối tác tài chính và đối tác phát triển của
chính phủ. Thái Lan cũng thành lập Quỹ quay vòng để hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư các dự án tiết
kiệm năng lượng.
Khu vực tư nhân. Theo Tanazia, các cá nhân và tổ chức lớn đã tài trợ cho các sáng kiến thích
ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Các tổ chức và cá nhân này có thể cung cấp nguồn vốn quan
trọng cho các cộng đồng nhỏ/các dự án thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu riêng lẻ như: Quỹ
Clinton; Quỹ Mellinda Gates; Quỹ Rockefeller; Quỹ WaterAid và Ford. Từ kinh nghiệm của Nhật
Bản, Hàn Quốc... việc huy động nguồn lực từ khối tư nhân là rất quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh
vực giảm nhẹ phát thải KNK. Việc phát hành trái phiếu xanh được chú trọng, huy động sự tham
gia của các nhà đầu tư. Cả 2 quốc gia cũng rất chú trọng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển
(R&D), thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu. Qua đó, phát triển
mạnh mẽ thị trường cơng nghệ ứng phó với BĐKH và tăng cường sự tham gia đầu tư.
c) Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo
Theo kinh nghiệm một số quốc gia, để giảm phát thải khí nhà kính, cần nghiên cứu đề xuất
trong các Chiến lược như: Công nghệ than sạch; Đốt nghiền bột giấy cực siêu tới hạn (PC USC);
Đốt tầng sôi tuần hồn áp suất, siêu tới hạn. Chu trình hỗn hợp (PCFBC SC CC); Chu trình kết
hợp khí hóa tích hợp (IGCC); Pin nhiên liệu oxyt rắn (SOFC); Pin nhiên liệu khí hóa tích hợp
(IGFC); Điện hạt nhân khí hóa than ngầm (UCG); Lị phản ứng nước có áp, Lị phản ứng nước
điều áp tích hợp, Lị phản ứng nước nặng tiên tiến (AHWR); Lò phản ứng tạo giống nhanh (FBR)...
Một số biện pháp giảm mạnh phát thải khí nhà kính các quốc gia đề xuất như sử dụng hydrogen
sạch lưu trữ năng lượng, vật liệu các-bon thấp (thép và nhôm), chôn lấp và lưu trữu các-bon. Những
công nghệ này giải quyết lượng khí thải trong các lĩnh vực chiếm 90% lượng khí thải tồn cầu,
hoặc khoảng 45 tỷ tấn CO2-e hàng năm, là những biện pháp rất đắt đỏ mà hiện nay thế giới còn
đang nghiên cứu, đồng thời áp dụng các biện pháp định giá các-bon để buộc doanh nghiệp phát
thải lớn phải thay đổi công nghệ sang phát thải ít hơn (AFD và Cục BĐKH, 2020).
3. Kết luận

Để ứng phó với BĐKH trong giai đoạn mới, một số nhận định sau có thể là bài học kinh
nghiệm tốt cho xây dựng Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050:
- Giải quyết vấn đề BĐKH trong khuôn khổ phát triển bền vững. Đặt trọng tâm ứng phó với
BĐKH vào cả giảm nhẹ phát thải KNK và thích ứng với BĐKH nhằm giảm tính dễ bị tổn thương

115


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

và rủi ro trước tác động của BĐKH, trong khi đó cần đảm bảo phát triển nền kinh tế các-bon thấp,
nâng cao chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Hội nhập quốc tế một cách tích cực và sâu rộng; phát huy, mở rộng hợp tác quốc tế, đặc biệt
là tiếp cận các quỹ GCF, GEF và các đối tác phát triển trong bối cảnh Việt Nam trở thành nước có
thu nhập trung bình để huy động nguồn lực tài chính và kỹ thuật. Đồng thời nâng cao hiệu lực
quản lý, giám sát việc phân bổ nguồn tài chính qua xây dựng, hồn thiện thể chế, chính sách.
- Tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức, kiến thức và sự tham gia của cộng đồng trong
ứng phó với BĐKH, đặc biệt thu hút thêm nguồn lực từ khối tư nhân trong phịng tránh thiên tai,
cơng nghệ các-bon thấp, giảm nhẹ phát thải KNK.
- Phát triển nguồn lực về khoa học và công nghệ, dựa vào sự tiến bộ và đổi mới của khoa học
và công nghệ, công nghệ số, cuộc cách mạng 4.0 thúc đẩy đổi mới công nghệ là cách hiệu quả
trong giảm nhẹ phát thải KNK và thích ứng với BĐKH.
Tài liệu tham khảo
1. Ấn phẩm Điện tử Thời nay của Báo Nhân dân (2020). Lấy
/>
từ

2. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Triển khai Chiến lược phát triển kinh tế
biển theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII. Lấy từ />3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016). Kịch bản Biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho
Việt Nam.

4. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2019). Thông báo quốc gia lần thứ 3 của Việt Nam cho
UNFCCC.
5. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2020a). Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2020.
6. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2020b). Báo cáo kỹ thuật Đóng góp do quốc gia tự quyết
định cập nhật.
7. Báo điện tử Hà Nội mới (2019). Lấy từ />8. AFD và Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường (2020). Báo cáo tổng hợp
“Đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược và Kế hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu và
đề xuất các giải pháp đẩy mạnh thực hiện Chiến lược trong giai đoạn 2021-2030”.
9. Thủ tướng Chính phủ (2011). Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 5/12/2011 phê duyệt Chiến
lược quốc gia về biến đổi khí hậu.

116


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

10. Thủ tướng Chính phủ (2021). Chiến lược phát triển lâm nghiệp của Việt Nam giai đoạn
2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
11. Bangladesh’s Ministry of Finance (2014). Bangladesh Climate Fiscal Framework.
12. Government of Kenya (2010). National Climate Change Response Strategy.
13. Malawi. (2021). Strategy on climate change learning.
14. Ministry of Environment, Climate Change, Disaster Management and Meteorology
(2012). Solomon Islands National Climate Change Policy: 2012 - 2017.
15. Seychelles (2020). National Climate Change Policy, Ministry of Environment, Energy
and Climate Change, Seychelles.
16. The Auspices of National Development and Reform Commission People’s Republic of
China (2007). China’s National Climate Change Programme.
17. The Government of the Republic of Korea (2017). Second Biennial Update Report of the
Republic of Korea Under the United Nations Framework Convention on Climate Change.


117



×