Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng trung – dài hạn tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.doc.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.12 KB, 79 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn 20 năm đổi mới kể từ đại hội Đảng VI năm 1986, đất nước ta đã đạt
nhiều thành tựu to lớn đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Hiện nay tốc độ tăng
trưởng kinh tế ở nước ta vẫn ở mức khá bất chấp những khó khăn tác động xấu từ
bên ngoài. Nền kinh tế càng phát triển mạnh thì nhu cầu vốn tín dụng dành cho
đầu tư và phát triển ngày càng tăng nhất là vốn tín dụng trung – dài hạn.
Với xu hướng phát triển đó cho vay trung – dài hạn ở các ngân hàng thường
ở mức cao nhằm đạt mục tiêu kinh doanh và góp phần phát triển nền kinh tế đất
nước. Vấn đề đặt ra là phải làm sao vừa tăng doanh số cho vay trung – dài hạn
trong các năm vừa đảm bảo chất lượng tín dụng. Đây là thách thức với các ngân
hàng trong nước hiện nay để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài
sau khi thị trường tài chính tiền tệ trong nước chính thức mở cửa sau khi Việt Nam
đã gia nhập WTO vào năm 2006.
Tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, hoạt động tín
dụng trung – dài hạn luôn là mảng hoạt động có hiệu quả mang lại lợi nhuận cho
ngân hàng. Bên cạnh việc Sở đã có nhiều kết quả trong công tác cho vay trung –
dài hạn, chất lượng tín dụng trung – dài hạn trong những năm qua cũng tăng lên
tạo điều kiện trong cạnh tranh và nâng cao uy tín cho Sở. Nhưng thực tế cho thấy
chất lượng tín dụng trung – dài hạn tại Sở có nhiều biến động trong những năm
qua. Chính vì vậy em đã chọn để tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình sau thời
gian thực tập tại Sở giao dịch I là “Nâng cao chất lượng tín dụng trung – dài
hạn tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”
Ngoài phần mở đầu, kết luận chuyên đề được chia làm 3 phần chính:
Chương 1: Lý luận chung về chất lượng tín dụng trung – dài hạn

1
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung – dài hạn tại Sở giao dịch I
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung – dài hạn tại Sở
giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Do thời gian và kiến thức có hạn nên bài viết khó tránh khỏi những khiếm


khuyết nhất định, kính mong thầy cô giáo giúp đỡ để bản chuyên đề này hoàn
thiện hơn.
Trong thời gian thực tập và viết chuyên đề em đã được sự hướng dẫn và chỉ
bảo tận tình của cô giáo Th.S Nguyễn Thị Thuỳ Dương và các anh chị Phòng giao
dich II Sở giao dịch I.
Em xin chân thành cảm ơn!

2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN
DỤNG TRUNG – DÀI HẠN
1.1. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.1. Huy động vốn
Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại - đóng
vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Một trong
những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách
hàng. Ngân hàng làm dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam
kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và huy động được tiền gửi,
các ngân hàng trả lãi cho các khoản huy động vốn đó.
1.1.2. Cho vay
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi trong một khoảng thời gian xác định. Cho vay là tài
sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Cho vay thường được định lượng theo 2
chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Cho vay là được coi là hoạt
động sinh lời cao mang lại thu nhập cho ngân hàng do đó các ngân hàng tìm mọi
cách để huy động được tiền.
Có nhiều hình thức cho vay như cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, tài
trợ cho dự án.
1.1.3. Hoạt động khác
Huy động vốn và cho vay là 2 khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong bảng
cân đối kế toán của các ngân hàng thương mại. Ngoài hai hoạt động quan trọng

trên ngân hàng còn có nhiều hoạt động khác như: kinh doanh ngoại tệ, tài trợ cho

3
các hoạt động của chính phủ, bảo lãnh, cho thuê, cung cấp các dịch vụ uỷ thác và
tư vấn, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán…
Kinh doanh ngoại tệ là một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được
thực hiện. Hoạt động này là mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và
hưởng phí dịch vụ.
Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách
hàng. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng mua chịu hàng hoá trang thiết
bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác.
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để khách hàng thuê theo
những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định khách hàng trả cả gốc lẫn lãi
cho ngân hàng.
Dịch vụ môi giới chứng khoán nhằm cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ
phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Hiện nay hầu hết các ngân hàng tổ
chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch
vụ môi giới.
1.2. Hoạt động tín dụng trung – dài hạn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Kháí niệm
Tín dụng (Credit) xuất phát từ chữ Latin là Credo (tin tưởng, tín nhiệm).
Trong thực tế cuộc sống, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau, trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động thì ngân hàng được hiểu như
sau:
Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên trong đó một bên (người cho vay) cung
cấp tiền, hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng khoán dựa vào lời hứa thanh toán lại trong
tương lai của bên kia (bên vay tiền). Thông thường những giao dịch như vậy bao
gồm cả việc thanh toán lợi tức cho người cho vay.

4

Như vậy, tín dụng là quan hệ vay mượn gồm cả đi vay và cho vay. Tuy nhiên
khi gắn với chủ thể nhất định như ngân hàng thì tín dụng chỉ hàm nghĩa là ngân
hàng cho vay.
Tín dụng là loại tài sản chiểm tỉ trọng lớn nhất trong các ngân hàng thương
mại, nó phản ánh đặc trưng của các ngân hàng thương mại.
Tín dụng trung – dài hạn là hình thức tín dụng được phân chia theo tiêu thức
thời gian đó là những khoản cho vay có thời gian lớn hơn một năm nhưng không
dài hơn thời gian khấu hao cần thiết của tài sản hình thành từ vốn vay
1.2.2. Phân loại
Hiện nay các ngân hàng thường thực hiện đa dạng hoá các hình thức tín dụng
từ cho vay ngắn hạn, trung – dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của
khách hàng.
Tín dụng trung hạn là khoản tín dụng có thời gian từ trên 1 năm đến 5 năm
nhằm tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số loại cây trồng
vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn.
Tín dụng dài hạn là khoản tín dụng có thời gian từ 5 năm trở lên tài trợ cho
công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu đường, máy móc có giá trị lớn, thường
có thời gian sử dụng lâu.
Cách phân chia tín dụng theo tiêu thức thời gian này phù thuộc vào từng
nước. Có những nước tín dụng dài hạn là những khoản tín dụng có thời hạn 7 năm
trở lên. Còn ở Việt Nam theo quy chế cho vay mới 1627/2001/QĐ NHNN có hiệu
lực từ 01/02/2002 các khoản tín dụng có thời gian từ 12 – 60 tháng được gọi là tín
dụng trung hạn còn trên 60 tháng được gọi tín dụng dài hạn
Phân chia tín dụng có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì nó liên quan
đến tính an toàn và sinh lợi của tài sản.

5
1.2.3. Vai trò của tín dụng trung – dài hạn
Tín dụng trung – dài hạn là những khoản vay có thời hạn trên 12 tháng của
ngân hàng đối với khách hàng. Thực chất mối quan hệ này chỉ được hình thành

trên cơ sở sự thoả thuận giữa các bên dựa trên nguyên tắc cùng có lợi. Như vậy
việc tham gia mối quan hệ này là hoàn toàn tự nguyện và nó đem lại lợi ích cho cả
hai bên. Mà ngân hàng và doanh nghiệp là hai chủ thể quan trọng hàng đầu trong
nền kinh tế quốc dân, do đó việc nâng cao chất lượng hoạt động của hai chủ thể
này cũng sẽ góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Nên việc
mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng tín dụng trung – dài hạn có vai trò quan
trọng đối với ngân hàng nói riêng, sự phát triển của nền kinh tế nói chung và
doanh nghiệp
Đối với ngân hàng: Trong các tài sản của ngân hàng thì khoản mục cho vay
bao giờ cũng chiếm tỷ trọng cao nhất là khoản mục mang lại thu nhập lớn cho
ngân hàng và đem lại cho ngân hàng một số lượng lớn khách hàng.Thu nhập từ
tiền vay biểu hiện dưới dạng lãi vay và phụ thuộc chủ yếu vào thời hạn khoản vay.
Thời hạn càng dài thì thu nhập càng cao nên thu nhập của ngân hàng càng lớn. Do
đó một ngân hàng có thể mở rộng cho vay trung – dài hạn để có thể kiếm nhiều lợi
nhuận hơn. Nhưng tín dụng trung – dài hạn có thời hạn cao nên rủi ro càng cao
nên mở rộng quy mô phải đi kèm với việc nâng cao chất lượng tín dụng.
Mặt khác, việc đáp ứng tốt nhu cầu tín dụng trung – dài hạn mang lại cho
ngân hàng vũ khí cạnh tranh lợi hại. Khả năng mở rộng tín dụng trung – dài hạn
thể hiện tiềm lực mạnh về vốn của ngân hàng; chất lượng tín dụng cao thể hiện
năng lực quản lý, chuyên môn của cán bộ ngân hàng điều đó tạo nên uy tín cho
ngân hàng. Và tín dụng trung – dài hạn là xuất phát điểm để ngân hàng tạo mối
quan hệ tốt với khách hàng, phát triển thêm nhiều dịch vụ khác của mình. Khi
ngân hàng cho vay trung – dài hạn để mở rộng quy mô sản xuất, nhà xưởng, máy

6
móc thiết bị thì tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển cần nhiều vốn lưu động
nên cho vay ngắn hạn được mở rộng. Còn các dịch vụ khác như thanh toán, bảo
lãnh, tư vấn cũng sẽ tăng lên và dĩ nhiên ngân hàng cho vay sẽ được lựa chọn ưu
tiên nhất.
Đối với doanh nghiệp: Trong mỗi nền kinh tế, ở mỗi thời kỳ thì nhu cầu vốn

trung – dài hạn cho các doanh nghiệp luôn là đòi hỏi cấp bách đặc biệt trong điều
kiện các nước đang phát triển như Việt Nam nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh
doanh cho các doanh nghiệp là rất lớn. Các doanh nghiệp mới thành lập thì cần
vốn để mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như nhà xưởng,
kho bãi đáp ứng một phần vốn lưu động. Các doanh nghiệp đang hoạt động thì
luôn có nhu cầu đổi mới trang thiết bị, công nghệ để nâng cao khả năng cạnh
tranh, để mở rộng sản xuất khi gặp cơ hôi kinh doanh thuận lợi. Để làm được điều
đó thông thường phải có một lượng vốn lớn, hơn nữa phải là nguồn dài hạn. Mỗi
doanh nghiệp có nhiều cách để đáp ứng nhu cầu đó nhưng thông thường đi vay
trung dài hạn là nguồn tài trợ dài hạn quan trọng cho doanh nghiệp. Vì để có
nguồn vốn lớn để đầu tư sản xuất các doanh nghiệp thường dùng hai biện pháp là
đi vay và phát hành chứng khoán ra thị trường. Tuy nhiên, phát hành chứng khoán
làm doanh nghiệp mất nhiều chi phí, thời gian để huy động. Nên giải pháp đi vay
trung – dài hạn là giải pháp hiệu quả cho doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế: Nền kinh tế mỗi quốc gia trong tường thời kỳ dù là quốc
gia phát triển hay đang phát triển thì nhu cầu vốn tín dụng là rất lớn. Đối với các
nước đang phát triển đầu tư chủ yếu theo chiều rộng dưới hình thức xây dựng mới,
các nước phát triển thì đầu tư theo chiều sâu theo hướng hiện đại hoá. Nguồn vốn
đáp ứng nhu cầu đầu tư có thể khai thác từ nhiều kênh trong đó tín dụng ngân
hàng đóng vai trò quan trọng

7
Tín dụng ngân hàng có thể tác động như một công cụ trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đất nước theo hướng có lợi nhất. Thông qua mở rộng cho vay với
những lĩnh vực cần đẩy mạnh các ngân hàng tham gia vào việc điều chỉnh cơ cấu
kinh tế một cách chủ động và tích cực hơn. Ngoài ra tín dụng ngân hàng thúc đẩy
quá trình tập trung vốn là công cụ tài trợ cho ngành kinh tế kém phát triển và
ngành kinh tế mũi nhọn. Ngoài ra tín dụng trung – dài hạn sử dụng như một đòn
bẩy kinh tế hợp lý không thể thiếu được cả trong công tác quản lý, kiểm soát quá
trình sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội, củng cố chế độ hạch toán kế toán.

Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nhiệm vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đang được
Đảng và nhà nước đặt lên hàng đầu. Nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư đó bao
gồm: nguồn do ngân sách nhà nước cấp, nguồn tích luỹ từ các doanh nghiệp,
nguồn huy động trong dân cư, vay nước ngoài, vốn tín dụng ngân hàng. Trong các
nguồn này thì nguồn tín dụng ngân hàng là nguồn chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn
trung – dài hạn cho đầu tư phát triển. Nên tín dụng trung – dài hạn có vai trò rõ rệt
trong phát triển kinh tế đất nước ta nhất là trong thời kỳ hội nhập với nền kinh tế
thế giới.
1.2.4. Đặc điểm của tín dụng trung – dài hạn.
Trong khoản mục tín dụng, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng
thương mại thường cao hơn tín dụng trung – dài hạn do các ngân hàng chủ yếu tài
trợ cho các tài sản lưu động của khách hàng. Tín dụng trung – dài hạn thường có
tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt hơn và khan hiếm hơn. Điều
này thể hiện cụ thể trong đặc điểm của tín dụng trung – dài hạn:

8
+Thời gian cho vay cao:
Theo quyết định của thống đốc NHNN số284/2002/QĐ-NHNN ngày
25/8/2002 về việc ban hành quy chế cho vay các tổ chức tín dụng đối với khách
hàng tại điều 3 khoản 2 định nghĩa: “Thời hạn cho vay là một khoảng thời gian
được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận tiền vay cho đến khi khách hàng trả hết
nợ gốc và lãi tiền vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín
dụng và khách hàng”. Thời hạn này do hai bên ngân hàng và khách hàng thoả
thuận và được ghi trong hợp đồng tín dụng. Đối với cho vay trung – dài hạn thì
thời gian cho vay trên 1 năm và không quá thời gian khấu hao cần thiết của tài sản
hình thành từ vốn vay. Vốn tín dụng có thể điều chỉnh linh hoạt tuỳ vào tình hình
thực tế của doanh nghiệp vay vốn. Nếu tình hình kinh doanh thuận lợi, doanh
nghiệp có nguồn thu dồi dào mà không cần sử dụng ngay thì có thể hoàn trả ngân
hàng trước hạn. Ngược lại, nếu tình hình kinh doanh gặp khó khăn do các lý do

bất khả kháng thì ngân hàng có thể cho phép doanh nghiệp gia hạn nợ. Dĩ nhiên
ngân hàng sẽ phần nào bị ảnh hưởng nhưng nếu biết điều chỉnh kịp thời, hợp lý thì
sẽ có lợi cho ngân hàng về lâu dài
+ Tín dụng trung – dài hạn có rủi ro cao:
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do
khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không thể trả đầy đủ cả vốn
lẫn lãi. Khi thực hiện hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng đã không dự kiến là
khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Rủi ro tín dụng thường do nhiều nguyên nhân như
về phía khách hàng, về sự quản lý yếu kém của ngân hàng hoặc do thay đổi bất
thường trên thị trường. Các khoản tín dụng trung – dài hạn thường có thời gian dài
nên sẽ chịu nhiều rủi ro hơn các khoản tín dụng ngắn hạn. Mà nền kinh tế của một
nước thường không có sự ổn định trong thời gian dài, thường xuyên có sự biến
động. Những biến động này có thể diễn ra theo hai chiều hướng tốt hoặc xấu.

9
Trong thời gian dài, các khoản tín dụng trung – dài hạn sẽ chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ sự thay đổi bất thường trên thị trường như lãi suất, lạm phát, chính sách, cơ
chế. Khi rủi ro tín dụng trung – dài hạn xảy ra thường gây hậu quả nghiêm trọng
cho ngân hàng do quy mô cho vay thường lớn. Nên hầu hết các khoản cho vay
trung – dài hạn thường có tài sản đảm bảo. Hình thức đảm bảo có thể là đối nhân
hay bảo đảm đối vật, việc áp dụng các hình thức đảm bảo này nhằm giúp ngân
hàng có thể thu được nợ trong trường hợp có rủi ro xảy ra.
+ Tín dụng trung – dài hạn có lãi suất cao
Lãi suất cho vay trung – dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Điều này
là hợp lý bởi một khoản rủi ro tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn thì cần phải được trả lãi
cao hơn để có thể bù đắp được những rủi ro nếu xảy ra. Rủi ro và lãi suất có mối
quan hệ tỷ lệ thuận với nhau, rủi ro càng cao thì lãi suất càng cao. Do ngân hàng
phải bù đắp rủi ro lớn, chi phí huy động nguồn trung – dài hạn để cho vay lớn nên
lãi suất cao.
+ Tính thanh khoản thấp

Do thời hạn cho vay cao nên khả năng chuyển đổi thành tiền trong thời gian
ngắn là thấp. Nên tính thanh khoản của tín dụng trung - dài hạn là thấp. Thông
thường ở ngân hàng tính thanh khoản cao thể hiện ở chứng khoán ngắn hạn.
1.3. Chất lượng tín dụng trung – dài hạn
1.3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành ngân hàng, phạm trù “chất lượng
tín dụng” biến đổi qua các thời kỳ khác nhau. Trước đây chất lượng tín dụng được
hiểu là an toàn tín dụng tức là được đo lường bằng mức độ tổn thất phát sinh trực
tiếp từ rủi ro đối với mỗi khoản cho vay của ngân hàng thương mại. Một ngân

10
hàng có chất lượng tín dụng cao khi mà đáp ứng được các yêu cầu như khoản vay
được trả cả gốc và lãi đúng hạn, có ít các khoản nợ xấu và tỷ lệ nợ quá hạn là thấp.
Hiện nay khái niệm chất lượng tín dụng được mở rộng: “chất lượng tín dụng
là vừa đáp ứng yêu cầu của khách hàng phù hợp với sự phát triển của đất nước vừa
đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng. Do đó một khoản tín dụng có chất
lượng cao khi nó đáp ứng được các yêu cầu như:
+ Đối với khách hàng: Khoản tín dụng đáp ứng đủ nhu cầu về vốn, lãi suất
phù hợp, thủ tục cho vay đơn giản thuận tiện cho khách hàng. Điều này sẽ tạo điều
kiện cho khách hàng sản xuất kinh doanh hiệu quả để có thể hoàn trả cả gốc lẫn lãi
cho ngân hàng và gia tăng giá trị tài sản cho khách hàng.
+ Đối với ngân hàng: Khoản tín dụng có chất lượng phải đảm bảo nguyên tắc
đầu tiên là khách hàng hoàn trả cả vốn lẫn lãi theo hợp đồng. Ngoài ra các khoản
tín dụng có quy mô, thời gian, lãi suất phù hợp với thực lực của ngân hàng và khả
năng cạnh tranh với các ngân hàng khác sẽ làm tăng chất lượng tín dụng của ngân
hàng.
+ Đối với sự phát triển kinh tế, xã hội: Tín dụng có chất lượng phải đảm bảo
thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng
hoá góp phần tạo công ăn việc làm giảm thất nghiệp, khai thác phát triển khả năng
tiềm tàng của nền kinh tế.

Như vậy chất lượng tín dụng là khái niệm vừa cụ thể vừa trừu tượng nó chịu
ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan. Chất lượng tín dụng chịu
ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: xu hướng phát triển của đất nước, sự thay đổi
giá cả thị trường, môi trường chính trị pháp lý
Chất lượng tín dụng là chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của
ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức

11
cạnh tranh của một ngân hàng. Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu
tố.
Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có nó là sự kết hợp của những con
người trong một tổ chức và giữa các tổ chức với nhau vì mục tiêu chung. Do đó để
có chất lượng tín dụng tốt, các ngân hàng cần có cơ cấu đồng bộ, hợp lý.
Tóm lại, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu vừa tổng hợp, vừa cụ thể, vừa
trừu tượng. Để có chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và
quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín trong hoạt động
tín dụng. Việc nghiên cứu và hiểu đúng bản chất của chất lượng tín dụng giúp
ngân hàng phân tích, đánh giá đúng chất lượng tín dụng của ngân hàng. Đồng thời,
giúp cho ngân hàng tìm ra các nguyên nhân của những tồn tại để nâng cao chất
lượng tín dụng.
Nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung – dài
hạn có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển của ngành ngân hàng và nền kinh tế
đất nước.
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng trung – dài hạn
1.3.2.1. Các chỉ tiêu định tính
Chất lượng tín dụng trung – dài hạn thể hiện qua các chỉ tiêu như: hiệu quả
đối với nền kinh tế (góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đất
nước); hiệu quả đối với khách hàng (đáp ứng tốt nhu cầu vay vốn của doanh
nghiệp); đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng
Hiệu quả đối với nền kinh tế: Hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín

dụng trung – dài hạn nói riêng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân trong xã hội hay gián tiếp ảnh hưởng đến nền kinh tế đất
nước. Hiệu quả đối với nền kinh tế của tín dụng trung – dài hạn thể hiện rõ ở chỗ

12
tín dụng trung – dài hạn góp phần ổn định nền tài chính tiền tệ của quốc gia; nâng
cao năng lực hoạt động, năng lực công nghệ của doanh nghiệp; thúc đẩy, mở rộng
sản xuất kinh doanh của nền kinh tế; tạo công ăn việc làm khi có nhiều dự án được
đầu tư; tăng thu nhập; nâng cao mức sống dân cư… Nếu chất lượng tín dụng càng
tốt thì các hiệu quả của tín dụng trung – dài hạn càng thể hiện rõ nét hơn
Hiệu quả đối với khách hàng: Một ngân hàng có đội ngũ khách hàng đông
đảo là những doanh nghiệp có uy tín trên thị trường thì đó là một trong những dấu
hiệu cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng là khả quan. Để thu hút được
lượng khách hàng đông đảo thì ngân hàng cũng phải có những biện pháp để đáp
ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Hiệu quả của chất lượng tín dụng đối với khách
hàng thể hiện trực tiếp ở chỗ thủ tục đơn giản, thuận tiện (tuy nhiên phải đảm bảo
những nguyên tắc an toàn tối thiểu cần thiết cho hoạt động tín dụng của ngân hàng
để tránh những rủi ro do thủ tục), cung cấp vốn nhanh chóng, kịp thời, an toàn.
Nhờ đó khách hàng sẽ tiết kiệm được chi phí giao dịch, tiết kiệm được thời gian
và nhất là không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh tốt. Ngoài ra, ngân hàng còn phải trở
thành người bạn thực sự của khách hàng; sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ khó khăn, tư
vấn khi có vướng mắc với khách hàng. Làm như vậy thì nguồn vốn tín dụng mới
thực sự phát huy được vai trò đòn bẩy giúp doanh nghiệp trong việc cải tiến thiết
bị, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh. Và khi doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả thì ngân hàng sẽ cũng tránh được những rủi ro tín
dụng đồng thời chất lượng tín dụng cũng được nâng lên.
Đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng: Chất lượng tín dụng mà nhất
là chất lượng tín dụng trung – dài hạn được nâng cao còn được thể hiện ở việc
đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Hay các khoản tín dụng này phải
mang lại thu nhập cho ngân hàng đủ để trang trải các chi phí liên quan và có lãi,

hạn chế thấp nhất nguy cơ rủi ro. Các khoản tín dụng trung – dài hạn có quy mô

13
cho vay lớn, thời gian dài, lãi suất cao nên mang lại thu nhập lớn cho ngân hàng
đồng thời rủi ro lớn. Những khoản tín dụng trung – dài hạn có chất lượng cao sẽ
đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng
Như vậy, chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung – dài
hạn nói riêng là chỉ tiêu tổng hợp được đánh giá trên quan điểm của cả ba chủ thể:
ngân hàng, doanh nghiệp, nền kinh tế. Các chỉ tiêu này chỉ phản ánh một cách
khái quát. Để có thể kết luận chính xác về chất lượng tín dụng của một ngân hàng
thì cần phải xem xét trên các chỉ tiêu định lượng khác nữa.
1.3.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
Để phản ánh chất lượng tín dụng, ngoài các chỉ tiêu định tính còn có các chỉ
tiêu định lượng. Đây là những chỉ tiêu quan trọng để phản ánh chất lượng tín dụng
trung – dài hạn của một ngân hàng thương mại. Các chỉ tiêu đó bao gồm:
+ Doanh số cho vay trung – dài hạn:
Là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay trong kỳ. Doanh số cho vay phản
ánh quy mô hoạt động tín dụng trung – dài hạn. Doanh số cho vay càng lớn chứng
tỏ khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng tốt thì lợi nhuận đạt được càng cao
và thể hiện mối quan hệ tốt giữa ngân hàng và khách hàng. Tuy nhiên doanh số
cao không có nghĩa là chất lượng tín dụng tốt mà còn phụ thuộc vào rủi ro mà
ngân hàng sẽ gặp phải

14
+ Doanh số thu nợ trung – dài hạn:
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng thu hồi nợ gốc và lãi của ngân hàng. Khoản
tín dụng trung – dài hạn có chất lượng cao khi khách hàng hoàn trả cả gốc và lãi
đúng hạn theo hợp đồng. Nếu doanh số thu nợ cao chứng tỏ công tác thu nợ của
ngân hàng được tiến hành tốt, đồng thời hoạt động của ngân hàng đang thuận lợi.
Nếu doanh số thu nợ thấp thì công tác thu nợ đang gặp khó khăn nên chất lượng

tín dụng của ngân hàng thấp Chỉ tiêu này cùng doanh số cho vay nói lên chất
lượng tín dụng của ngân hàng. Tín dụng được đánh giá là có chất lượng cao khi
mà doanh số cho vay đi kèm doanh số thu nợ cao.
+ Dư nợ trung – dài hạn:
Chỉ tiêu này cho biết số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay trên thị
trường. Chỉ tiêu này phản ánh thu nhập trong tương lai của ngân hàng. Ngân hàng
thường phải theo dõi kiểm soát các khoản nợ này của khách hàng xem khách hàng
sử dụng có đúng mục đích hay không. Chỉ tiêu này quyết định chất lượng tín dụng
trung – dài hạn trong tương lai của ngân hàng.

15
Dư nợ cho vay trung – dài hạn/ Tổng dư nợ cho vay: Phản ánh quy mô của tín
dụng trung – dài hạn trong mối tương quan với quy mô tín dụng ngắn hạn. Tỷ lệ
này càng cao cho thấy ngân hàng chú trọng đến cho vay trung – dài hạn. Mở rộng
tín dụng trung – dài hạn mang lại thu nhập cao cho ngân hàng đồng thời giúp ngân
hàng nâng cao uy tín, mở rộng thị trường tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên các ngân
hàng thường quy định và giám sát tỷ lệ này ở một mức nhất định phù hợp với khả
năng tài chính, nguồn vốn, năng lực của ngân hàng.
Dư nợ trung – dài hạn/Tổng tài sản: Phản ánh quy mô cho vay trung – dài
hạn so với tổng tài sản đồng thời đánh giá tính hợp lý trong cơ cấu sử dụng vốn
của ngân hàng. Tỷ lệ này cao chứng tỏ các khoản vay trung – dài hạn chiếm tỷ
trọng cao trong tổng tài sản. Điều này là tích cực nếu ngân hàng có tiềm năng dồi
dào về nguồn vốn trung – dài hạn đồng thời việc quản lý cho vay được thực hiện
tốt, bảo đảm an toàn. Còn nếu ngược lại thì ngân hàng đang ở tình thế nguy hiểm
có thể dẫn tới mất khả năng thanh toán bất cứ lúc nào.
+ Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng trung – dài hạn:
Các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh doanh đều hướng tới mục
tiêu quan trọng nhất là lợi nhuận và các ngân hàng cũng không nằm trong ngoại lệ

16

đó. Khi đánh giá lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng trung – dài hạn thường
được đánh giá trên các chỉ tiêu như:
Tỷ lệ sinh lời trung – dài hạn =
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản tín dụng trung – dài
hạn. Nó cho biết một đồng dư nợ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ lệ này
càng cao chứng tỏ lợi nhuận mang lại từ hoạt động tín dụng trung – dài hạn càng
lớn chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng là tốt
Tỷ lệ lợi nhuận trung – dài hạn =
Chỉ tiêu này đánh giá tầm quan trọng của hoạt động tín dụng trung – dài hạn
trong toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này cao chứng tỏ hầu hết lợi
nhuận của ngân hàng có được là từ hoạt động cho vay trung – dài hạn. Nên chất
lượng tín dụng trung – dài hạn tăng lên.
+ Nợ quá hạn trung – dài hạn
Nợ quá hạn là những khoản nợ đến hạn trả nợ hoặc hết hạn cho vay vốn cộng
với thời gian gia hạn thêm (nếu có) nhưng khách hàng vẫn chưa trả được nợ. Lúc
này khách hàng sẽ phải chịu trả lãi phạt cao hơn lãi suất thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng. Nợ quá hạn phản ánh những rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt.
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của thống đốc Ngân hàng
Nhà nước, các tổ chức tín dụng phân loại nợ theo 5 nhóm, bắt đầu từ nợ nhóm 2 là

17
nợ quá hạn phân theo thời gian. Các chỉ tiêu thường dùng để đánh giá nợ quá hạn
trung – dài hạn bao gồm:
Dư nợ quá hạn, nợ khó đòi trung – dài hạn: Đây là chỉ tiêu quan trọng phản
ánh chất lượng tín dụng trung – dài hạn của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn cho
thấy khả năng thu hồi vốn và lãi của ngân hàng là thấp tức là chất lượng tín dụng
trung – dài hạn của ngân hàng thấp. Do đó, các ngân hàng cố gắng duy trì chỉ tiêu
này ở mức thấp nhất. Tuy nhiên nhiều khi ngân hàng áp dụng các cách tính khác
nhau về kỳ hạn nợ và nợ quá hạn có thể làm cho các chỉ tiêu này biến dạng như:
+ Kỳ hạn nợ không phù hợp với thu nhập của người đi vay: đến hạn họ

không trả được nợ và buộc phải gia hạn nợ.
+ Đảo nợ hoặc giãn nợ: đảo nợ làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để che
giấu ngân hàng cấp trên và không bị chịu lãi phạt, cán bộ ngân hàng và khách
hàng thoả thuận để cho vay khoản nợ mới trả khoản nợ cũ. Hoặc nhân viên ngân
hàng thực hiện giãn nợ đối với khoản vay không thể trả được, hành vi này làm chỉ
tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ rủi ro tín dụng.

18
+ Chính sách cho vay của ngân hàng: có nhiều khoản cho vay khó đòi không
thể thu hồi bằng phát mại tài sản như cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước hay
người nghèo…, những khoản vay này phần lớn là cho vay theo chỉ thị của chính
phủ. Khi chưa có biện pháp giải quyết, nó trở thành tài sản “ảo”, nhiều ngân hàng
xếp chúng vào nợ khoanh (khi chính phủ đồng ý). Chúng sẽ đe doạ đến lợi nhuận
của ngân hàng nếu chính phủ không có biện pháp để bù đắp.
Tỷ lệ nợ quá hạn trung – dài hạn/ Dư nợ tín dụng trung – dài hạn: Đây là chỉ
tiêu phản ánh tình hình nợ quá hạn của ngân hàng trong cho vay trung – dài hạn.
Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ ngân hàng đang gặp nhiều rủi ro. Thực tế do những
rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh khỏi nên các ngân hàng thường duy trì
tỷ lệ nợ quá hạn trong giới hạn cho phép. Tuy nhiên tỷ lệ này chỉ tính đến các
khoản nợ đến hạn chưa trả đủ cả gốc và lãi chứ chưa xét đến các khoản nợ có
nguy cơ khó đòi.
+ Vòng quay vốn trung – dài hạn:
Vòng quay vốn trung – dài hạn =

19
Chỉ tiêu này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng trung – dài hạn.
Vòng quay càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay của ngân hàng luân chuyển càng
nhanh, tham gia nhiều vào chu trình sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá.
Chỉ tiêu này càng gần 1 chứng tỏ khả năng thu nợ trung – dài hạn của ngân hàng
là tốt, hiệu quả cho vay cao nên quản lý vốn của ngân hàng cao, chất lượng tín

dụng tốt. Điều này chỉ đạt được khi quy mô cho vay được mở rộng và các khoản
cho vay đến hạn trong năm đó đều được thu hồi đầy đủ. Ngược lại nếu tỷ lệ này
thấp chứng tỏ hoạt động thu nợ gặp khó khăn hay chất lượng tín dụng của ngân
hàng giảm sút.
+ Hiệu suất sử dụng vốn trung – dài hạn:
Hiệu suất sử dụng vốn trung – dài hạn =
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sử dụng nguồn vốn trung – dài hạn để cho
vay. Ngân hàng thương mại thu lãi từ hoạt động cho vay để chi trả cho chi phí huy
động các khoản vốn. Do đó nếu biết tận dụng tối đa các khoản vốn huy động được
(hệ số sử dụng vốn tiến gần tới 1) để thực hiện các khoản cho vay và mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng.

20
Thông qua các chỉ tiêu trên kết hợp với các chỉ tiêu định tính ta có thể đánh
giá chính xác được chất lượng tín dụng trung – dài hạn của một ngân hàng là tốt
hay xấu. Đồng thời cũng cần phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để có sự ưu
tiên cho chỉ tiêu này hay chỉ tiêu khác, chủ thể này hay chủ thể khác. Từ đó ngân
hàng sẽ đưa ra các biện pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của
mình. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của từng ngân hàng,
các ngân hàng sẽ xây dựng chính sách nhằm nâng cao chất lượng tín dụng phù
hợp với ngân hàng mình.
1.3.3.
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung – dài hạn
Chất lượng tín dụng trung – dài hạn là khái niệm tổng hợp liên quan đến
nhiều chủ thể, lĩnh vực khác nhau. Chất lượng tín dụng tốt hay xấu phụ thuộc vào
nhiều nhân tố mà thông thường là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp từ hoạt động
tín dụng như: ngân hàng, khách hàng, nền kinh tế xã hội.
1.3.3.1.
Khách hàng
Để đảm bảo an toàn và tránh rủi ro trong cho vay, các ngân hàng thương mại

thường đặt ra những điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng nhằm phân loại ra những khách

21
hàng có thể cho vay và không thể cho vay. Nên có nhiều yếu tố thuộc về khách
hàng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Các yếu tố đó bao gồm:
+ Năng lực kinh doanh của khách hàng ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của
phương án kinh doanh từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới việc trả nợ cho ngân hàng.
Năng lực sản xuất kinh doanh thể hiện ở quy mô, năng suất, khả năng đáp ứng nhu
cầu thị trường về giá cả, chất lượng, khả năng mở rộng sản xuất. Ngoài ra các
ngân hàng cũng thường yêu cầu các doanh nghiệp phải hoạt động ổn định và có lãi
trong một khoảng thời gian nhất định. Trong trường hợp phương án kinh doanh
không có hiệu quả thì năng lực tài chính chính là yếu tố mang tính quyết định
trong việc trả nợ cho ngân hàng của người đi vay.
+ Các biện pháp đảm bảo: Các khoản tín dụng thường yêu cầu có tài sản đảm
bảo để đảm bảo an toàn cho ngân hàng khi rủi ro xảy ra. Nhất là cho vay trung –
dài hạn có tiềm ẩn nhiều rủi ro do thời gian và quy mô nên các khoản cho vay
trung – dài hạn thường có tài sản đảm bảo. Hình thức bảo đảm là cầm cố, thế
chấp, bảo lãnh.
+ Khả năng quản lý của doanh nghiệp: Bao gồm chất lượng tín dụng nhân sự
quản lý, sự phối kết hợp giữa các thành viên trong ban quản lý nhằm xây dựng cơ

22
cấu hợp lý trong doanh nghiệp, cho phép tận dụng tối đa nguồn lực của doanh
nghiệp để đạt mục tiêu cao nhất. Nếu năng lực quản lý của doanh nghiệp tốt thì
khả năng kinh doanh đạt hiệu quả là rất cao nên trả được nợ cho ngân hàng hay
chất lượng tín dụng của ngân hàng tăng lên
Bên cạnh đó, đạo đức uy tín của người vay cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín
dụng. Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận
cao, để đạt được mục đích của mình họ sẵn sang tìm mọi thủ đoạn ứng phó với
ngân hàng như cung cấp sai các thông tin, mua chuộc cán bộ tín dụng… Và có

khách hàng kinh doanh có lãi nhưng vẫn chây ì không chịu trả nợ đúng hạn hy
vọng quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt, điều này làm chất lượng tín
dụng của ngân hàng giảm sút.
1.3.3.2.
Ngân hàng
Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại là một
hệ thống các biện pháp liên quan đến việc khuyết trương hoặc hạn chế tín dụng
nhằm đạt mục tiêu của ngân hàng trong từng thời kỳ. Chính sách tín dụng cung
cấp cho cán bộ tín dụng và các nhà quản lý ngân hàng đường lối chỉ đạo, đảm bảo
cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo. Do đó chính sách tín dụng có ý nghĩa

23
quan trọng đưa đến sự thành công hay thất bại của từng ngân hàng. Khi chính sách
tín dụng đúng đắn, hợp lý sẽ thu hút được nhiều khách hàng đảm bảo khả năng
sinh lời cho ngân hàng. Ở từng thời kỳ khác nhau thì chính sách tín dụng của ngân
hàng là khác nhau vì phải phù hợp với chính sách pháp luật của nhà nước và
những thay đổi trên thị trường trong và ngoài nước. Như vậy chính sách tín dụng
là yếu tố quan trọng đầu tiên quyết định đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Chất lượng thẩm định tín dụng: Thẩm định tín dụng là quy trình đầu tiên
trước khi quyết định cho vay của ngân hàng, chủ yếu tập trung xem xét các mặt
như khả năng tài chính, khả năng điều hành quản lý kinh doanh, mức độ tín
nhiệm.

Đây là quy trình để ngân hàng quyết định có cho vay hay không. Quy trình
này càng làm chặt chẽ thì các khoản vay sẽ có hiệu quả hơn và nâng cao chất
lượng tín dụng của ngân hàng. Nhưng nếu quy trình này có quá nhiều thủ tục
rườm rà, các điều kiện đặt ra quá khắt khe không phù hợp với tình hình thực tế thì
sẽ làm nản lòng các khách hàng hoặc có rất ít khách hàng thoả mãn được các yêu
cầu của ngân hàng. Điều đó cản trở việc ngân hàng thu hút thêm khách hàng, mở
rộng tín dụng Thẩm định tín dụng sẽ nâng cao hiệu quả và đảm bảo an toàn cho

hoạt động tín dụng.

24
Khả năng thu thập và xử lý thông tin: Thông tin về khách hàng là yếu tố quan
trọng để ngân hàng đánh giá tình hình thực tế của khách hàng, để từ đó ra quyết
định xem khách hàng có đủ tiêu chuẩn để được vay vốn hay không. Các thông tin
mà ngân hàng thường thu nhập liên quan đến khách hàng bao gồm những thông
tin do khách hàng cung cấp (hồ sơ vay vốn, sổ sách kế toán, báo cáo tài chính),
nguồn thông tin từ thị trường và các tổ chức có liên quan, nguồn thông tin do ngân
hàng điều tra trực tiếp tại cơ sở sản xuất kinh doanh. Khi ngân hàng có một hệ
thống thu thập và xử lý thông tin đầy đủ sẽ giúp cho ngân hàng lọc ra những
khách hàng tốt, thực hiện các khoản cho vay lành mạnh mang lại lợi nhuận cho
ngân hàng đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng. Ngoài ra thông
tin chính xác, kịp thời, đầy đủ còn giúp ngân hàng xây dựng hoặc điều chỉnh kế
hoạch kinh doanh, chính sách tín dụng một cách linh hoạt, phù hợp với tình hình
thực tế. Tất cả những điều này góp phần nâng cao chất lượng của ngân hàng.
Chất lượng cán bộ: Cho dù khoa học hiện đại đã mở ra cơ hội tự động hoá
trong nhiều lĩnh vực song nhân tố con người vẫn là nhân tố giữ vai trò quyết định.
Năng lực, phẩm chất cán bộ là một trong những yếu tố quan trọng tác động tới
chất lượng tín dụng của ngân hàng. Việc tuyển chọn những cán bộ có đạo đức

25

×