Tiểu luận
Thực trạng và giải pháp sử
dụng lao động nông nghiệp
nông thôn khi mất đất hiện
nay tại Việt Nam
1
Họ và tên học Viên nhóm 2:
1. Lê Quang Đại
2. Đặng Đình Đạm
3. Hoàng Trọng Đông
4. Quán Vi Giang
5. Nguyễn Thị Thu Hà
6. Trần Thị Thu Hà
7. Nguyễn Huy Hải
I. Đặt vấn đề
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước. Thực hiện chủ trương này diện tích đất cho sản xuất nông
nghiệp của nhiều địa phương đã bị thu hẹp lại để dành cho phát triển
công nghiệp. Kéo theo đó có nhiều vấn đề phát sinh đặt ra cho lãnh đạo
các ngành, các cấp phải nghiên cứu và giải quyết
Thời gian vừa qua, việc làm nông thôn phụ thuộc chủ yếu vào đất
đai canh tác. Thiếu đất canh tác, ở mức độ nào đó, đồng nghĩa với việc
thiếu việc làm của lao động nông thôn và đặc biệt là lao động phi nông
nghiệp. Tình trạng thiếu việc làm hay còn gọi là thất nghiệp bộ phận, bán
thất nghiệp là đặc trưng phổ biến của lao động nông thôn. Khu vực nông
thôn chiếm khoảng 70% lực lượng lao động của cả nước, trong đó
thường xuyên có gần 30% lao động thiếu việc làm, phổ biến là thiếu
mang tính thời vụ.
Mấy năm gần đây, tình trạng nông nhàn trở thành vấn đề xã hội
nổi cộm vì đó là một trong những nguyên nhân đầu tiên dẫn đến di
chuyển lao động nông thôn mang tính thời vụ để tìm kiếm thêm việc làm
và tăng thu nhập. Đặc biệt, trong điều kiện gia tăng tình trạng thiếu việc
làm trong toàn nền kinh tế thì vấn đề lao động nông nhàn ở nông thôn
ngày càng trở nên bức bách. Đó là nguồn bổ sung đáng lo ngại vào lực
lượng lao động thiếu việc làm nói chung và làm tăng thêm dòng người di
dân, di chuyển lao động từ vùng này đến vùng khác, từ nông thôn ra
thành thị. Dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm có chiều hướng gia
tăng.
II. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Nông thôn Việt nam có nguồn lao động dồi dào và tiềm năng, là
nơi cung cấp và hậu thuẫn đắc lực về nguồn nhân lực cho các khu đô thị
và khu công nghiệp. Thế nhưng, tồn tại một thực tế đối với lao động
nông thôn hiện nay là thị trường lao động tại khu vực này chưa thực sự
phát triển, nó còn phân mảng, phân tán và sơ khai. Bản thân lao động
nông thôn chưa có cơ hội phát huy khả năng cống hiến của mình cho sự
2
nghiệp phát triển nông thôn. Đây là thách thức lớn đối với chính lao
động nông thôn cũng như các nhà làm chính sách trước yêu cầu công
nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn nhất là khi đất nước thực hiện công
nghiệp hoá làm thu hẹp dần diện tích đất nông nghiệp và tăng tỷ lệ lao
động nông nghiệp không có việc làm.
Ở Việt Nam, đại bộ phận dân cư tập trung sinh sống ở khu vực
nông thôn, tính đến ngày 1/7/2002, dân số cả nước là 79,93 triệu người,
thì dân số nông thôn là 60,05 triệu người (75,13%). Số người trong độ
tuổi lao động là 35,44 triệu, khoảng 59% dân số, trong đó 30,9 triệu
người tham gia vào lực lượng lao động. Tốc độ tăng dân số bình quân
hơn 10 năm qua là 1,7%, mức tăng trung bình của số người trong độ
tuổi lao động là 2,6% năm.
Khu vực nông thôn đang tập trung một số lượng lớn lực lượng lao
động của cả nước và với tốc độ tăng khoảng hơn 2,5% năm. Nhưng thời
gian trung bình chưa sử dụng của cả nước có xu hướng giảm xuống,
nếu năm 1998 là 29,12% thì năm 2002 còn 24,46%. Với lực lượng lao
động ở nông thôn năm 2002 là 30,98 triệu người và thời gian chưa sử
dụng trung bình cả nước là 24,46 %, nếu quy đổi thì sẽ tương đương
đương khoảng 7,5 triệu người không có việc làm.
Cơ cấu của lao động hiện nay ở nông thôn Việt Nam vẫn thể hiện
tính thuần nông. Trong tổng số 12 triệu hộ dân ở khu vực nông thôn thì
có tới 81% làm việc trong lĩnh vực nông-lâm- thuỷ sản, chỉ có 16,1% làm
việc ở khu vực phi nông nghiệp. Trong khi đó diện tích đất cho nông
nghiệp quá chật hẹp. Với 12 triệu hộ gia đình, nhưng chỉ có 9,4 triệu ha
đất nông nghiệp. Bình quân mỗi hộ chỉ 0,7-0,8ha, mỗi lao động 0,3ha và
mỗi nhân khẩu 0,15ha. Ở Đồng bằng Bắc Bộ, con số này còn nhỏ hơn,
chỉ 360m2/khẩu. Nếu chia ra, tất cả các hoạt động ăn, ở, đi lại, sinh hoạt
hàng ngày của một người nông dân ở Bắc Bộ chỉ dựa vào 1m2 đất.
Chưa kể, nông dân - đối tượng đông nhất trong xã hội - lại ít được
đào tạo nghề nên tỷ lệ thất nghiệp ở mức báo động, trên 83% lao động
ở nông thôn chưa qua đào tạo bất kỳ chuyên môn gì (con số từ Bộ
LĐTB-XH), trong khi tỷ lệ này ở thành thị là 49%. 20% lao động ở nông
thôn thất nghiệp, tương đương khoảng 4,8 triệu người, cộng thêm hàng
triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động mỗi năm.
Với tốc độ đô thị hoá cùng với việc phát triển các khu công nghiệp
đang diễn ra, khi mỗi ha đất nông nghiệp bị "xà xẻo" sẽ kéo theo 13
người rơi vào cảnh không có việc làm. Điển hình, mỗi năm, Hà Tây có
28.000-30.000 lao động đổ ra thành thị kiếm sống, trong khi con số này
phải "Nam tiến" ở Quảng Nam là 46.000 người.
III. Thực trạng
3
Thực tiễn xây dựng và phát triển các khu công nghiệp (KCN) ở
nước ta trong những năm qua cũng đang đặt ra nhiều vấn đề đối với sự
phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Những người “làm KCN”
lẫn người nông dân chưa tính hết được những vấn đề phát sinh sau khi
“KCN hoá”. Vậy, quá trình xây dựng và phát triển các KCN đã ảnh
hưởng như thế nào đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta.
1. Tác động của việc phát triển các KCN tới Nông nghiệp
Đến nay, việc xây dựng và phát triển các KCN ở nước ta những
năm qua đã sử dụng 43.687 ha đất nông nghiệp (chưa kể diện tích đất
xây dựng các khu kinh tế mở). Nếu tính cả phần diện tích đất nông
nghiệp được chuyển đổi mục đích sử dụng vào việc đô thị hoá xung
quanh các KCN thì con số này còn cao hơn nhiều lần. Mặc dù diện tích
canh tác nông nghiệp có giảm do phải dành một phần quỹ đất để xây
dựng các KCN, song kinh tế nông nghiệp vẫn có sự phát triển liên tục
với nhịp độ tăng trưởng từ 4,5%-5%. Năm 2007, sản lượng lương thực
đạt 39.977 nghìn tấn, tăng 5.704 nghìn tấn so với năm 2001, bình quân
mỗi năm tăng 950 ngàn tấn. Hàng năm nước ta vẫn xuất khẩu khoảng
3,5-4 triệu tấn gạo. Nhờ đó mà an ninh lương thực ở nước ta được bảo
đảm.
Đạt được kết quả đó là do những năm qua các KCN đã thu hút
được hàng ngàn dự án hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh
các sản phẩm nông nghiệp hoặc sử dụng sản phẩm nông nghiệp như
công nghiệp thực phẩm, nông-lâm-thuỷ sản; sản xuất phân bón, nông
dược, thức ăn gia súc… Các dự án trên không chỉ trực tiếp đưa đến cho
nông nghiệp Việt Nam nguồn vốn phát triển, công nghệ tiên tiến, kinh
nghiệm quản lý mà còn gián tiếp, thông qua các mối quan hệ sản xuất,
kinh doanh tạo ra những tác động lan truyền, thúc đẩy tăng năng suất
lao động và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Nhiều doanh nghiệp trong
KCN đã đem vào Việt Nam nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất,
chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế; tạo ra những mô hình làm ăn
mới, có hiệu quả cao.
Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, đến nay đóng góp của các KCN
vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành nông nghiệp chưa
thực sự lớn. Vai trò động lực, vai trò kích cầu của các KCN đối với
ngành nông nghiệp chưa thể hiện rõ. Hầu hết các địa phương đều có
những chương trình, mô hình khuyến khích sự hợp tác giữa nhà nông
với doanh nghiệp trong KCN, nhất là vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Nhưng trên thực tế sự hợp tác này còn lỏng lẻo và chưa có hiệu quả.
Các sản phẩm nông nghiệp được sản xuất ra không được các doanh
nghiệp bao tiêu hết, thường xuyên trong tình trạng canh cánh nỗi lo
“được mùa mất giá”; và ngược lại các sản phẩm công nghiệp phục vụ
4
trực tiếp sản xuất nông nghiệp còn thiếu. Một số vật tư nông nghiệp như
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… vẫn phụ thuộc vào hàng hoá nhập
khẩu từ nước ngoài.
Bên cạnh đó, việc phát triển các KCN ở nước ta thời gian qua mặc
dù đã sử dụng một quỹ đất khá lớn đất nông nghiệp (chủ yếu là những
nơi “đắc địa”), nhưng những tác động tích cực trở lại của các KCN đối
với sự phát triển nông nghiệp là chưa tương xứng. Hay nói cách khác,
lợi ích do phát triển KCN đem lại đối với nông nghiệp chưa xứng với chi
phí (cả trước mắt và lâu dài) mà nông nghiệp phải hy sinh để xây dựng
các KCN.
2. Tác động của việc phát triển KCN tới nông thôn
Một trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước là hiện đại hoá nông thôn. Trong quá trình
thực hiện mục tiêu này, các KCN đóng vai trò rất quan trọng. Các KCN ở
nước ta đã tạo nên một diện mạo nông thôn mới, mang lại văn minh đô
thị, góp phần cải thiện đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội cho khu vực
rộng lớn được đô thị hoá.
Tuy nhiên, có một thực tế là việc quy hoạch và xây dựng đồng bộ
các khu dân cư, hệ thống hạ tầng kỹ thuật-xã hội gắn với các KCN chưa
được chú trọng. Điều đó đã dẫn đến một hệ quả là các KCN đã góp
phần đô thị hoá nông thôn nhiều hơn là hiện đại hoá nông thôn. Nhiều
vấn đề xã hội nổi cộm như trật tự, an ninh, nhà ở, đời sống văn hoá…ở
các vùng nông thôn vốn không được trù tính đầy đủ khi lập quy hoạch và
đánh giá các tác động của KCN. Vì vậy, sau nhiều năm đổi mới, bộ mặt
nông thôn nước ta nói chung, vùng xây dựng KCN nói riêng tuy đã khá
hơn trước, nhưng vẫn chưa mang dáng dấp của một nông thôn trên con
đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thêm vào đó, cùng với sự phát triển KCN, nông thôn nước ta bắt
đầu đang phải đối mặt với vấn đề môi trường do các nhà máy thải ra.
Các loại chất thải từ KCN không chỉ ảnh hưởng tới môi trường sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN mà tác hại hơn còn ảnh
hưởng tới môi trường và đời sống nhân dân ở các khu vực xung quanh
KCN. Theo tính toán, dự kiến khi các KCN đã lấp đầy, các doanh nghiệp
thải ra một lượng chất thải lên tới 567.131 m3/ngày đêm. Đây thực sự là
một khối lượng nước thải khổng lồ và là một thách thức lớn đối với các
KCN trong công tác xử lý. Đó là chưa kể đến hàng chục vạn m3/ngày
đêm nước thải sinh hoạt của người lao động trong các doanh nghiệp
KCN
3. Tác động của việc phát triển KCN tới việc làm và đời sống nông
dân
5
Theo số liệu thống kê, đến nay, các doanh nghiệp trong KCN đã
thu hút trên 1 triệu lao động trực tiếp, và hàng triệu lao động gián tiếp.
Tính bình quân 1 ha đất công nghiệp đã cho thuê thu hút 72 lao động.
Nếu so với khả năng tạo việc làm thì những con số này chưa phải là lớn,
và chưa tương xứng với tiềm năng. Nhưng điều quan trọng đáng nói ở
chỗ: phần lớn những lao động này là lao động trẻ ở nông thôn (có đến
90% lao động có độ tuổi từ 18 cho đến 35), có khả năng nhanh chóng
tiếp thu kỹ thuật mới.
Việc mở mang các KCN không chỉ góp phần tạo công ăn việc làm,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mà còn góp phần đáng kể vào
việc thực hiện xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập, ổn định đời sống cho
người lao động ở nông thôn nước ta.
Tuy nhiên, việc phát triển các KCN tất yếu phải đi liền với việc thu
hồi đất, mà chủ yếu là đất nông nghiệp của một bộ phận nông dân. Điều
này đang đẩy hàng chục vạn nông dân rơi vào cảnh mất đất, mất việc
làm và chưa tìm được việc làm mới. Trong số hơn 1 triệu lao động được
thu hút vào làm việc trong các KCN, liệu có bao nhiêu phần trăm trong
số đó là nông dân bị thu hồi đất và con em của họ! Điều này cũng dễ
hiểu vì các doanh nghiệp KCN cần tuyển dụng lao động có trình độ, đã
được đào tạo theo từng nghề nhất định, trong khi đó phần đông nông
dân chỉ biết nghề làm ruộng, chăn nuôi ở trình độ thấp, hoặc nghề thủ
công truyền thống; chưa có tác phong làm việc công nghiệp. Đây là một
mâu thuẫn và là vấn đề xã hội phát sinh khá gay gắt hiện nay ở nông
thôn, dẫn đến những điểm “nóng” về mặt xã hội cần phải giải quyết trong
thời gian tới.
Việc thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất vừa mang tính chất
kinh tế vừa mang tính chất xã hội lớn, phức tạp. Nếu chỉ giải quyết được
mặt kinh tế của vấn đề mà lại làm trầm trọng thêm mặt xã hội thì hiệu
quả kinh tế sẽ rất hạn chế, nếu không muốn nói là không thành công.
Con số thống kê cho thấy, hiện nay trung bình mỗi hộ nông dân có
1,5 lao động, việc thu hồi đất nông nghiệp và đất ở trong những năm
qua đã tác động đến khoảng 950.000 lao động. Với một lượng lớn lao
động như vậy, việc giải quyết việc làm gặp vô vàn khó khăn. Hầu hết các
tỉnh đều thừa nhận, lượng lao động bị thu hồi đất nông nghiệp vào làm
tại các khu công nghiệp có thể đếm trên đầu ngón tay. Mặc dù các
doanh nghiệp cũng có đăng tuyển dụng lao động, nhưng một lượng lớn
lao động địa phương chỉ làm được một thời gian rồi lại bỏ.
Nguyên nhân một phần do các doanh nghiệp trả lương thấp (lao
động phổ thông), một phần cũng phải kể đến một số doanh nghiệp “ma”
lợi dụng sức lao động, yêu cầu người lao động thử việc 2-3 tháng với
6
mức lương hoặc là thấp hoặc không trả lương khiến người lao động bỏ,
ở nhà còn hơn”.
Tuy nhiên, cũng phải kể đến, phần lớn lao động tại khu vực nông
thôn hiện nay đều rơi vào độ tuổi đã khá cao, trên 35 tuổi. Do vậy, tâm lý
trồng lúa đã ăn sâu, bén rễ, chuyện học nghề để chuyển đổi chẳng khác
nào đánh đố. Hơn nữa, để học những nghề đòi hỏi nhiều chất xám thì
người nông dân khó tiếp thu, còn đào tạo nghề đơn giản thì doanh
nghiệp không chấp nhận. Thành thử, những trường, trung tâm dạy nghề
được mở tại những vùng có diện tích thu hồi đất nông nghiệp lớn rơi vào
tình trạng “dở khóc, dở cười”. Nơi thì không đủ học viên vào học phải
đóng cửa hoặc hoạt động cầm chừng, nơi thì hầu như toàn học viên từ
các tỉnh khác, nơi khác về học.
Một thực trạng đáng buồn nữa, do trình độ hạn chế, sau khi bị thu
hồi đất có tới 67% nông dân vẫn giữ nguyên nghề sản xuất nông nghiệp,
13% chuyển sang nghề mới và khoảng 20% khác không có việc làm
hoặc có việc làm nhưng không ổn định. Số nông dân bị thu hồi đất
không tìm được công việc mới, quay lại làm nghề nông lại đối mặt với
nỗi lo không có đất để cấy cày, rơi vào cảnh thất nghiệp Đơn thuần,
không có đất canh tác, lại không kiếm được công việc mới nên thu nhập
của 37% số hộ nông dân bị thu hồi đất bị sụt giảm so với trước đây, và
chỉ có 13% số hộ có thu nhập tăng hơn trước.
Thêm vào đó, những hộ nông dân giao đất để xây dựng các KCN,
sau khi nhận được tiền đền bù hay hỗ trợ sử dụng chúng theo nhiều
cách khác nhau. Có nhiều gia đình biết dùng số tiền đó để đào tạo lại
chuyển đổi ngành nghề, nhanh chóng ổn định được cuộc sống và tạo
tiềm năng để phát triển kinh tế lâu dài. Nhưng cũng có không ít gia đình
sau khi nhận được tiền đền bù đã sử dụng không hiệu quả, tiêu xài
hoang phí, chủ yếu dùng để xây nhà, mua sắm để sau một thời gian
ngắn hết tiền, mất kế sinh nhai lâu dài, cuộc sống trở nên khó khăn hơn
cả khi chưa bị thu hồi đất. Do đó, chuyện nhận tiền đền bù vài trăm triệu
đồng nhưng chỉ sau 1-2 năm lại trở thành hộ nghèo.
Không chỉ nguy cơ thất nghiệp, nghèo đói đe dọa người nông dân
bị mất đất sản xuất mà nó còn kéo theo nhiều hệ lụy khác. Chẳng hạn
vấn đề an ninh nông thôn cũng bị xáo trộn đáng kể khi có một lượng lớn
người thất nghiệp tại địa phương, cùng với một lượng lớn lao động từ
các nơi khác đổ về
IV. Một số giải pháp và kết luận
1 - Đào tạo, dạy nghề cho lao động mất việc làm do chuyển đổi mục
đích sử dụng đất để thu hút họ vào các khu công nghiệp, khu chế
xuất hoặc du nhập nghề mới ở địa phương bị thu hồi đất.
7
Nhu cầu sử dụng lao động ở các khu công nghiệp, khu chế xuất
rất lớn, nên việc đào tạo, dạy nghề cho lao động mất việc làm là hướng
trọng điểm.Trước hết, cần chú trọng phát triển mở rộng dạy bổ túc văn
hóa cho lao động trẻ, khỏe dưới 35 tuổi để họ có đủ trình độ vào các lớp
đào tạo tập trung theo học những nghề mà khu công nghiệp, khu chế
xuất cần tuyển dụng.
Mô hình tạo việc làm thông qua du nhập ngành nghề thủ công và
hình thành, phát triển làng nghề được các địa phương Hải Dương và
Vĩnh Phúc, Hà Tây rất chú trọng. Các nghề thu hút được nhiều người
vào làm việc như: dệt chiếu, mây tre đan, gốm sứ, chế biến thực phẩm,
sản xuất đồ gỗ, hàng thêu, thảm Những nghề này thu nhập còn thấp
nhưng dễ học và quy mô sản xuất có thể mở rộng, sản phẩm được mua,
bán trao đổi với số lượng lớn trên thị trường trong nước và cả quốc tế,
đem lại nguồn lợi cho người lao động và tăng thu nhập ngân sách địa
phương.
Lao động nông thôn rất cần được đào tạo, dạy nghề, họ cần có
trình độ chuyên môn và cập nhật kiến thức để đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế của đất nước. Vì vậy, chiến lược phát triển nguồn nhân lực,
đầu tư giáo dục cho học sinh nông thôn ngay từ nhỏ là rất cần thiết. Các
kiến thức thực tế phải luôn được cập nhật và tăng thời gian thực hành.
Tiến tới phổ cập giáo dục ở bậc trung học cơ sở thay vì phổ cập ở cấp
Tiểu học như hiện nay. Ngay từ thời học sinh các em cũng cần được biết
đến Luật pháp, Luật lao động, quan hệ lao động, kỷ luật lao động, … là
thế nào. Lao động trẻ nông thôn hiện nay không chỉ thiếu kiến thức
chuyên môn mà kiến thức xã hội, giao tiếp cộng đồng, phát triển bản
thân còn nhiều khiếm khuyết. Ở họ dạy nghề không thôi chưa đủ mà cần
đưa cả kỹ năng sống vào chương trình giảng dạy, giúp họ có được tác
phong làm việc nghiêm túc, tuân thủ kỷ luật lao động và có tinh thân
đồng đội khi làm việc ở bất cứ môi trường nào, dù là làm công, tự làm
hay làm cho gia đình.
Muốn vậy công tác giảng dạy, đào tạo luôn phải đổi mới, cập nhật
và chuẩn hóa giáo trình cũng như đội ngũ giáo viên đồng thời bám sát
nhu cầu thị trường chứ không dạy tràn lan, dẫn đến dư thừa cục bộ và
gây lãng phí xã hội. Những năm gần đây, công tác dạy nghề đã có nhiều
tiến triển, nhiều lao động đã ý thức được việc học nghề và số người
tham gia các khóa đào tạo tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên mạng lưới dạy nghề
vẫn chưa bao phủ được hết các địa phương cấp huyện và rất cần sự trợ
giúp của các ngành, các cấp. Phấn đấu mỗi huyện có một cơ sở dạy
nghề và được trang bị các thiết bị cần thiết phục vụ công tác đào tạo
theo yêu cầu của xã hội.
Chương trình đầu tư cơ sở vật chất của Tổng cục dạy nghề còn
đang tập trung cho các trường trọng điểm dạy nghề, chưa thể đồng loạt
triển khai xuống hết các địa phương như mong muốn được. Mới đây
8
chúng ta lại có chính sách và chương trình dạy nghề cho thanh niên
nông thôn; dạy nghề và chuyển đổi nghề cho nông dân vùng mất đất và
dân tộc thiểu số v.v., nhiều địa phương đã triển khai tốt việc này. Song
một số nơi thực hiện chưa tốt. Nguyên nhân một phần do cán bộ địa
phương chưa nắm rõ nhu cầu thực tế của đối tượng để áp dụng linh
hoạt, cũng có thể do chương trình chưa bám sát nhu cầu thực tế của
người muốn học và một phần do khả năng tiếp thu hạn chế của người
được học.
Tình trạng này tiếp diễn sẽ hạn chế đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật
và chuyển giao công nghệ thích hợp vào phát triển sản xuất ở nông
thôn. Vì vậy, rất cần những cán bộ kỹ thuật kiên trì bám sát cơ sở,
hướng dẫn chỉ bảo kỹ thuật theo cách cầm tay chỉ việc và hướng dẫn
đầu bờ trong thời gian dài, giúp họ tin tưởng và tuân thủ hướng dẫn kỹ
thuật đã được dạy, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc thiểu số
2 - Thu hút lao động mất việc làm vào các khu công nghiệp, khu
chế xuất và khuyến khích các hộ gia đình dành tiền nhận đền bù
vào việc học nghề tạo việc làm
Việc thu hút lao động mất việc làm do bị thu hồi đất vào các khu
công nghiệp phụ thuộc vào các quy định cụ thể ràng buộc với các chủ
dự án sử dụng đất để họ cam kết sử dụng lao động tại chỗ. Các chính
sách thu hút lao động vào khu công nghiệp cần được nhanh chóng sửa
đổi cho phù hợp. Có cơ chế hỗ trợ cho các trung tâm dạy nghề tại địa
phương để đào tạo nghề có địa chỉ và đạt chất lượng cao. Đối với các
hộ bị thu hồi đất, tiền đền bù là tài sản quý giá nên cần phải được tuyên
truyền, hướng dẫn họ sử dụng hợp lý. Chính quyền các cấp cần giúp đối
tượng này lựa chọn ngành nghề đào tạo mà các khu công nghiệp đang
cần tuyển dụng lao động. Cùng với hỗ trợ tiền đào tạo từ ngân sách địa
phương, nên khuyến khích các hộ sử dụng tiền được đền bù để cho con
em họ, học nghề, học ngoại ngữ và tạo điều kiện cho họ đi lao động
xuất khẩu, khuyến khích lao động xuất khẩu gửi tiền về đầu tư vào sản
xuất kinh doanh, tạo việc làm.
3 - Với đối tượng người lao động tuổi từ trên 35, khó có khả năng
chuyển đổi nghề nghiệp khi bị thu hồi đất, Nhà nước cần có chính
sách dành cấp một phần đất trong hoặc sát với khu công nghiệp để
tổ chức các hoạt động dịch vụ
Biện pháp này nếu được triển khai có hiệu quả sẽ tạo ra hệ thống
dịch vụ mới như xây nhà cho thuê, bán hàng hóa tiêu dùng, dịch vụ ăn
uống, sửa chữa phương tiện xe đạp, xe máy tăng mức thu nhập của
người dân có đất bị thu hồi. Số liệu điều tra tại các địa phương được
nghiên cứu cho thấy, có 65,7% số người được hỏi đã ủng hộ việc dùng
9
một phần đất dự án để phát triển dịch vụ và 58,3% số người ủng hộ việc
dùng tầng trệt nhà chung cư dành cho dân thuê mặt bằng kinh doanh.
4 - Hỗ trợ lao động đi tìm việc làm
Chính sách ưu tiên giới thiệu, tư vấn việc làm miễn phí, thông qua
hội chợ việc làm, hỗ trợ tìm việc cũng là một hướng mở tích cực tạo ra
cơ hội có việc làm cho lao động. Kinh nghiệm ở Hải Dương và Vĩnh
Phúc và một số tỉnh khác là thành lập tổ công tác phối hợp với chính
quyền để cùng các cơ sở dạy nghề, các doanh nghiệp, các đơn vị xuất
khẩu lao động có uy tín mở hội nghị chuyên đề về đào tạo và giải quyết
việc làm, xúc tiến xây dựng các đề án kinh tế dài hạn có tính khả thi cho
hộ gia đình có đất bị thu hồi. Các xã, thôn bị thu hồi từ 40% - 50% diện
tích trở lên thì địa phương hỗ trợ thực hiện quy hoạch lại nông thôn. Cấp
đất kinh doanh dịch vụ và kết hợp huy động các nguồn lực đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện các hộ bị thu hồi đất tổ chức lại chỗ ở
và hoạt động sản xuất, kinh doanh.
5 - Xây dựng, triển khai quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, mở
rộng mạng lưới đào tạo nghề tại địa phương vùng chuyển đổi mục
đích sử dụng đất gắn với giải quyết việc làm cho lao động mất việc
làm
Khi xây dựng, triển khai quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội của các địa phương có chuyển đổi mục đích sử dụng đất cần chú
trọng các nội dung thiết thực là: xác định số lượng lao động bị mất việc
làm, khả năng sử dụng lao động của ngành tại địa phương, nắm bắt tiêu
chí tuyển lao động ở các khu công nghiệp về trình độ chuyên môn kỹ
thuật, loại hình nghề nghiệp, sức khỏe và giới tính cần tuyển dụng từ đó
đặt ra yêu cầu về tài chính từ ngân sách địa phương hỗ trợ đào tạo
chuyển đổi nghề cho lao động mất việc làm.
Mạng lưới đào tạo nghề phải được phân bố đều, thủ tục hành
chính thuận lợi. Cơ sở đào tạo nghề phải đáp ứng được qui mô đào tạo,
loại hình chất lượng nghề đào tạo để sau khi tốt nghiệp, học viên có thể
tìm được việc làm ngay trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Chú
trọng nâng cao chất lượng đào tạo nghề bằng cách thu hút đội ngũ các
nhà chuyên môn - kỹ thuật, nhà khoa học của các trường, viện nghiên
cứu, trung tâm ứng dụng khoa học công nghệ đóng trên địa bàn để
mời tham gia đào tạo nhân lực lao động chất lượng cao.
Ngoài việc thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo
mới cần phải hình thành cơ chế, hình thức thích hợp đào tạo lại, đào tạo
nâng cao kiến thức, tay nghề thường xuyên cho người lao động. Mạng
lưới đào tạo lại, đào tạo nâng cao phải đáp ứng phổ biến, thuận lợi cho
nhu cầu của tất cả những người lao động có thể tham gia học tâp. Đào
10
tạo lại, đào tạo nâng cao phải bao trùm ở tất cả các cấp trình độ: trên đại
học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và sơ cấp, công nhân
kỹ thuật.
Lập quỹ đào tạo nghề, thực hiện xã hội hóa việc huy động các
nguồn quỹ từ: ngân sách nhà nước trung ương và địa phương, đóng
góp của các doanh nghiệp, đóng góp của các chủ dự án sử dụng đất và
sự đóng góp của các tổ chức xã hội, Hiệp hội nghề nghiệp, của Chính
phủ và tổ chức quốc tế
6. Quan tâm tới môi trường làm việc
Môi trường và điều kiện làm việc hiện nay của lao động nông
nghiệp nông thôn hiện nay đang là vấn đề cần phải bàn đến. Đã có
nhiều lao động bị bệnh nghề nghiệp, nhiều người bị tai nạn lao động từ
môi trường và điều kiện làm việc này bởi vi phạm vệ sinh an toàn. Ô
nhiễm môi trường không chỉ chỉ xảy ra ngay tại cánh dồng canh tác mà
ngay tại khu vực dân cư và người tiêu dùng, ảnh hưởng nghiêm trọng
tới sức khỏe, đặc biệt sức khỏe sinh sản -một yếu tố quan trọng cho tái
sản xuất sức lao động và một nhân tố tạo nên chất lượng dân số cho đất
nước, xã hội. Nông dân là người chịu hậu quả trước tiên, vì vậy, công
tác tuyên truyên, giáo dục và phổ biến kiến thức an toàn vệ sinh đối với
người lao động nông nghiệp là hết sức cần thiêt. Các cơ quan và những
người có trách nhiệm cần giám sát và xử lý thích đáng các trường hợp vi
phạm, trước hết là an toàn cho người lao động và người tiêu dùng, tiếp
đến là làm cho môi trường sống trở lên thân thiện và chất lượng cuộc
sống được cải thiện.
7. Phát triển các loại hình kinh tế
Về cầu lao động, để nông thôn thực sự phát triển bền vững theo
hướng CNH-HĐH, trước hết phải phát triển mạnh doanh nghiệp vừa và
nhỏ, trong đó có làng nghề và kinh tế trang trại, nơi tạo ra thu nhập cao
và ổn định hơn. Thực tê cho thấy các loại hình kinh tế này có khả năng
áp dụng khoa học kỹ thuật tốt hơn và có tiềm lực kinh tế để sẵn sàng
đầu tư khi cần thiêt. Kinh tế trang trại có khả năng làm tăng giá trị sản
phẩm theo hướng xuất khẩu và hình thành các thị trường nông sản ngay
tại địa phương.
Ngoài ra, kinh tế trang trại còn góp phần phủ xanh đất trống đồi núi
trọc, bảo vệ môi trường sinh thái và điều hòa khí hậu trong vùng-một
trong các chỉ tiêu quan trọng trong phát triển bền vững. Xét cho cùng,
phát triển nông thôn bền vững thì phải chuyển dịch kinh tế, theo đó là
chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp và dịch vụ, hướng
người lao động đến những việc làm ở những ngành nghề, công việc
đem lại giá trị cao trong các chuỗi giá trị, với điều kiện lao động phải có
hiểu biết, có kỹ năng chuyên môn để dần thay thế khu vực kinh tế nông
11
nghiệp kém hiệu quả bằng khu vực kinh tế có giá trị cao hơn, thông qua
đó mà nâng cao đời sống và thu nhập của người lao động. Thời gian tới
cần đẩy nhanh tiến độ đô thị hóa và phát triển mạnh các khu kinh tế vệ
tinh và các làng nghề nhằm thu hút lao động nông thôn tại chỗ, tạo sự
liên kết kinh tế giữa các khu công nghiệp với nông thôn, giữa sản xuất
công nghiệp với nông nghiệp và dịch vụ, đặc biệt khai thác mỗi liên kết
kinh tế giữa các thành phố lớn với các khu vực phụ cận.
Chính sách khuyến công, khuyến nông đang được triển khai thực
hiện song cần đầu tư nhiều hơn cả về cán bộ kỹ thuật lẫn đầu tư vật
chất để công tác chuyển giao kỹ thuật tới người nông dân đạt hiệu quả
cao nhất. bên cạnh đó, cần có chính sách qui hoạch hợp lý về cây, con
giống và tạo được các thị trường nông sản hàng hóa có giá trị trên khắp
khu vực nông thôn. Đối với vùng sâu, vùng xa Nhà nước nên có chính
sách thu mua hợp lý, tránh tình trạng thay đổi cây trồng, vật nuôi một
cách tự phát, ảnh hưởng trực tiêp tới đời sống của người lao động. Đặc
biệt, đối với thị trường cây công nghiệp và cây ăn quả thất thường như
cà phê, hồ tiêu, vải, … Thay đổi các loại cây trồng không nằm trong qui
hoạch sẽ làm tổn thất vốn liếng đầu tư, vừa làm thị trường bất ổn và gây
méo mó về giá cả.
Kinh tế Việt nam phát triển theo hướng kinh tế thị trường, các sản
phẩm đưa ra đều phải có khả năng cạnh tranh thì mới có chỗ đứng trong
thị trường. Sản phẩm nông nghiệp không phải là ngoại lệ, nó cần được
nâng cao chất lượng và gia tăng giá trị của sản phẩm, bên cạnh đó các
TT hàng hóa, TT đất đai, TT vốn, TT lao động và TT tín dụng cần phát
triển đồng bộ. Các thị trường này một mặt phải hoà nhập với thị trường
trong nước, mặt khác phải hướng vào xuất khẩu để hoà nhập với thị
trường ngoài nước (đặc biệt là thị trường hàng hoá). Thiếu một trong
các thị trường này kinh tế nông thôn phát triển sẽ kém hiệu quả, ảnh
hưởng tới chuyển dịch cơ cấu lao động.
CNH nông thôn là chủ trương xây dựng nông thôn Việt nam phát
triển bền vững và thu hẹp khoảng cách khác biệt giữa nông thôn-thành
thị. Vì vậy, phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn lao động nông thôn, tạo
cơ hội để người lao động tiếp cận được thị trường và có việc làm bền
vững, tăng thu nhập cũng là một trong các cách góp phần làm cho nông
thôn ngày càng đổi mới và phát triển.
12