Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

luận văn:Dựa vào các lí thuyết kinh tế và đầu tư, giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (908.07 KB, 67 trang )

GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
1
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI: “Dựa vào các lí thuyết kinh tế
và đầu tư, giải thích vai trò của đầu tư
đối với tăng trưởng và phát triển kinh
tế.”













GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
2
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A


LỜI MỞ ĐẦU

Trong lịch sử các tư tưởng kinh tế, các nhà kinh tế học đã quan tâm
nghiên cứu những yếu tố tác động đến sự gia tăng sản lượng của nền kinh
tế. Từ các nhà kinh tế học cổ điển đến các nhà kinh tế học hiện đại đều
nhận thấy rằng đầu tư và tích luỹ vốn đầu tư là một trong những nhân tố
quan trọng trong sản xuất. Ngày nay, vai trò của đầu tư ngày càng được
khẳng định hơn khi nó góp phần đáng kể vào việc gia tăng năng lực sản
xuất, cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và chuyển giao công nghệ, từ đó tạo đà cho sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế một cách mạnh mẽ.
Nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua có những bước phát triển
vượt bậc, tăng trưởng khá cao và ổn định, mức sống người dân được cải
thiện rõ rệt, chất lượng cuộc sống được nâng cao…Để có được những
thành tựu ấn tượng đó phải kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của đầu tư.
Với những chính sách nhằm thu hút và sử dụng có hiệu qủa vốn đầu tư
trong và ngoài nước, Việt Nam đang nâng cao uy tín, vị thế của mình trên
trường quốc tế. Hiện nay Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của
tổ chức thương mại thế giới WTO, đang trở thành điểm hấp dẫn đầu tư của
Châu Á trong con mắt của cộng đồng đầu tư thế giới.
Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn rất nhiều bất cập trong việc sử dụng
vốn đầu tư để tạo đà cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, các mục tiêu
kinh tế xã hội đưa ra chưa thực sự đạt kết quả như mong muốn.
Để làm rõ vai trò của đầu tư vói tăng trưởng, phát triển kinh tế, đồng
thời tìm ra những mặt còn hạn chế trong việc phát huy vai trò của đầu tư,
nhóm chúng em chọn đề tài: Dựa vào các lí thuyết kinh tế và đầu tư, giải
thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS Từ Quang
Phương, chúng em đã cố gắng hoàn thành bài viết này. Do giới hạn về kinh
nghiệm, kiến thức, tài liệu, và tính phức tạp của đề tài, bài viết của chúng

em còn rất nhiều thiếu sót. Rất mong được sự góp ý thẳng thắn, nhiệt tình
của thầy cô và các bạn để bài viết của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
3
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ THUYẾT KINH TẾ VÀ ĐẦU TƯ
VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG,
PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. KHÁI NIỆM ĐẦU TƯ VÀ PHÂN LOẠI.
1. Khái niệm
Có nhiều khái niệm về đầu tư, ở mỗi góc độ ta có một khái niệm, một
cách hiểu về đầu tư, cụ thể như sau:
Trên góc độ tài chính: Đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để
chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và thu lời
Trên góc độ tiêu dùng: Đầu tư là sự hy sinh mức tiêu dùng hiện tại để
thu về một mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai.
Đầu tư là việc sử dụng vốn cùng các nguồn lực khác trong hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương
lai
Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đật được các kết quả
lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải chịu đựng
khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực phải hy sinh đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là
sức lao động và trí tuệ
Những kết quả sẽ đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính
( tiền vốn ), tài sản vật chất ( nhà máy, đường sá. bệnh viện, trường học ),
tài sản trí tuệ ( trình độ văn hoá, chuyên môn, quản lý, khoa học kỹ thuật )
và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn

trong nền sản xuất xã hội
2. Phân loại đầu tư
Hoạt động đầu tư được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Bốn tiêu thức phân loại đầu tư thường được sử dụng là:
2.1. Theo mối quan hệ của chủ đầu tư với đối tượng đầu tư:
Theo tiêu thức này đầu tư được chia làm hai loại là đầu tư trực tiếp
và đầu tư gián tiếp
* Đầu tư gián tiếp: Là hình thức đầu tư, trong đó người bỏ vốn không
trực tiếp tham gia điều hành quản lý quá trình thực hiện và vận hành các
kết quả đầu tư. Người có vốn thông qua các tổ chức trung gian để đầu tư
phát triển. Đó là việc các chính phủ thông qua các chương trình tài trợ
không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp cho các chính phủ của các
nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội; là việc các cá nhân, các tổ chức
mua các chứng chỉ có giá cổ phiếu, trái phiếu… để hưởng lợi tức ( gọi là
đầu tư tài chính ). Đầu tư gián tiếp là phương thức huy động vốn cho đầu tư
phát triển.
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
4
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
* Đầu tư trực tiếp: Là hình thức đầu tư, trong đó người bỏ vốn trực
tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả
đầu tư. Loại đầu tư này tạo nên những năng lực sản xuất phục vụ mới ( cả
về lượng và chất ). Đây là loại đầu tư để tái sản xuất mở rộng, là biện pháp
chủ yếu để tăng thêm việc làm cho người lao động, là tiền đề để thực hiện
đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch. Đầu tư trực tiếp được thực hiện bởi
người trong nước và cả người nước ngoài, được thực hiện ở nước sở tại và
cả nước ngoài. Do vậy,việc cân đối giữa hai luồng vốn đầu tư ra và vào và
việc coi trọng cả hai luồng vốn này là hết sức cần thiết.
Chính sự điều tiết của bản thân thị trường và các chính sách khuyến

khích đầu tư của Nhà nước sẽ hướng việc sử dụng vốn của các nhà đầu tư
theo định hướng của nhà nứơc, từ đó tạo nên được một cơ cấu đầu tư phục
vụ cho việc hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý.
2.2 Theo bản chất của đầu tư
Theo bản chất của đầu tư, đầu tư được chia làm hai loại: đầu tư tài
chính và đầu tư phát triển.
Đầu tư tài chính: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho
người vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước ( gửi
tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành.
Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới của nền kinh tế mà chỉ làm
tăng tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư.
Đầu tư phát triển: Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là
việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng
thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất ( nhà xưởng, thiết bị ) và tài sản trí
tuệ( tri thức, kỹ năng ), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì
mục tiêu phát triển
Đầu tư phát triển là loại đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới của nền
kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ. Hình thức đầu tư này đóng
vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển của nền linh tế mỗi
quốc gia.
2.3 Theo nguồn vốn
Đầu tư dưới góc độ nguồn vốn được phân thành hai loại : nguồn vốn
đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Nguồn vốn đầu tư trong nước: Là phần tích luỹ của nội bộ nền kinh tế
bao gồm tiết kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh
nghiệp và tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất
của xã hội.
Nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn đầu tư nhà nước và
nguồn vốn của dân cư và tư nhân.

GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
5
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích luỹ của cá
nhân , các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có
thể huy động và quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Các nguồn vốn nước ngoài chính :
Tài trợ phát triển chính thức ( ODF ) : Nguồn này gồm Viện trợ phát
triển chính thức ( ODA ) và các hình thức tài trợ khác
Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
2.4 Theo cấp quản lý
Theo tiêu thức này thì đầu tư được chia thành đầu tư theo các dự án
quan trọng quốc gia , dự án nhóm A, B, C
Dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định, dự án nhóm A do
Thủ tướng chính phủ quyết định, nhóm B, C do bộ trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương quyết định.
II. KHÁI NIỆM TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Khái niệm
Ngày nay các quốc gia độc lập, có chủ quyền đều đề ra những mục
tiêu phấn đấu cho sự tiến bộ của quốc gia mình. Tuy có những khía cạnh
khác nhau nhất định trong quan niệm nhưng nói chung, sự tiến bộ trong
một giai đoạn nào đó của một nước thường được đánh giá trên hai mặt: sự
gia tăng về kinh tế và sự biến đổi về mặt xã hội. Trên thực tế người ta
thường dùng hai thuật ngữ: tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế để
phản ánh sự tiến bộ đó.
Hai thuật ngữ tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế nhiều lúc được

sử dụng thay thế cho nhau trong một nội dung của một phạm vi nhất định
nào đó. Song giữa chúng có sự khác nhau cơ bản.
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự tăng thêm hay là sự gia tăng về
qui mô sản lượng của một nền kinh tế trong một thời kỳ nhẩt định ( thường
là một năm ).
Tăng trưởng kinh tế là tỷ lệ tăng sản lượng thực tế, là kết quả của hoạt
động sản xuất, kinh doanh dịch vụ của nền kinh tế tạo ra.
Sự tăng trưởng kinh tế được so sánh với các năm gốc kế tiếp nhau gọi
là tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện bằng hai cách. Cách thứ nhất thể
hiện việc mở rộng sản lượng quốc gia của một nước( sự tăng lên của Tổng
sản phẩm quốc dân, tổng sản phẩm quốc nội ). Cách thứ hai thể hiện sự
tăng trưởng mức sống của một quốc gia ( sự tăng lên của Tổng sản phẩm
quốc dân trên đầu người, tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người )
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
6
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Khác với tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế bao hàm nhiều ý nghĩa
rộng hơn.
Phát triển kinh tế là một qúa trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh
tế trong một thời gian nhất định
Phát triển kinh tế bao gồm tăng về qui mô sản lượng ( tăng trưởng
kinh tế ), sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế và sự tiến bộ về xã hội.
Khái niệm trên về kinh tế phát triển bao hàm các vấn đề cơ bản như
sau:
Thứ nhất là mức độ gia tăng mở rộng sản lượng quốc gia và sự tăng
mức sản xuất, mức sống của quốc gia trong một thời gian nhất định.
Thứ hai là mức độ biến đổi cơ cấu kinh tế của quốc gia. Trong đó
quan trọng nhất là tỷ lệ ngành công nghiệp trong tổng sản lượng quốc dân.

Mức độ tỷ trọng ngành công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân càng
cao thể hiện mức phát triển càng cao.
Thứ ba là sự tiến bộ về cơ cấu xã hội, đời sống xã hội, mức độ gia
tăng thu nhập thực tế của người dân, mức độ công bằng xã hội của quốc
gia.
Các quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế thường phải trải qua
các giai đoạn bắt đầu tốc độ tăng trưởng nhanh. Sau đó chững lại, dân số
tăng làm thay đổi cơ cấu tuổi dân cư trong nước. Các xu hướng tiêu dùng
trong nước cũng thay đổi hẳn. Số tiền thu nhập không tiêu dùng hết vào
nhu cầu thiết yếu mà có xu hướng tiến lên sử dụng các hàng hoá lâu bền,
các dịch vụ và nghỉ ngơi. Then chốt của sự phát triểtn kinh tế ở đây là
người dân nước đó phải là thành viên chủ yếu của sự thay đổi cơ cấu.
2. Một số chỉ tiêu đánh giá
2.1. Một số thước đo của sự tăng trưởng
2.1.1. Tổng sản phẩm quốc nội ( GDP)
Theo David Begg, Stanley Fisher, Rudiger Dornbusch, tổng sản phẩm
quốc nội đo lường sản lượng được sản xuất ra bởi các yếu tố sản xuất nằm
trong nền kinh tế quốc nội bất kể ai là chủ sở hữu các yếu tố đó.
Nói cách khác, tổng sản phẩm quốc nội là tổng giá trị sản phẩm vật
chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế trên phạm vi lãnh
thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời kỳ nhất định ( thường là một
năm ).
Để tính GDP, có ba cách tiếp cận cơ bản : từ sản xuất, tiêu dùng và
phân phối.
Về phương diện sản xuất, GDP được xác định bằng toàn bộ giá trị gia
tăng của các ngành, các khu vực sản xuất dịch vụ trong cả nước.
VA= GO – IC
Trong đó:
VA là giá trị gia tăng của toàn bộ nền kinh tế
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương

Nhóm 2
7
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
GO là tổng giá trị sản xuất
IC la chi phí trung gian
Về phương diện tiêu dùng, GDP biểu hiện bằng toàn bộ hàng hoá dịch
vụ cuối cùng tính theo giá hiện hành của thị trường được tạo ra trong lãnh
thổ quốc gia hàng năm.
GDP ( tiêu dùng ) = C + G + I + ( X- M )
Trong đó:
C: Các khoản tiêu dùng của hộ gia đình
G: Các khoản chi tiêu của chính phủ
I: Tổng đầu tư cho sản xuất của các doanh nghiệp
X –M: Xuất khẩu ròng trong năm
Do tính GDP theo giá hiện hành của thị trường, nó đã bao
gồm thuế gián thu ( Te ), cho nên GDP tính theo giá thị trường sẽ chênh
lệch với GDP tính theo chi phí các yếu tố sản xuất một lượng giá trị, đó là
thuế gián thu
GDP ( sản xuất ) = GDP ( tiêu dùng ) – Te
Về phương diện thu nhập, GDP là toàn bộ giá trị mà các hộ gia đình,
các doanh nghiệp và các tổ chức Nhà nước thu được từ giá trị gia tăng.
GDP ( thu nhập ) = Cp + Ip + T
Trong đó :
Cp: Các khoản các hộ giađình được quyền tiêu dùng
Sp: Các khoản các doanh nghiệp tiết kiệm dùng để đầu tư ( Sp = Ip )
T: Chi tiêu của Nhà nước từ nguồn thuế.
Các cách tiếp cận trên sẽ cho GDP kết qủa bằng nhau. Nhưng thực tế
có những chênh lệch nhất định do sai sót từ các thông số, thống kê hoặc
tính toán.
2.1.2. Tổng thu nhập quốc dân ( GNI )

Đây là thước đo xuất hiện trong bảng SNA ( hệ thống tài sản quốc gia )
năm 1993 thay cho thước đo GNP. Về nội dung thì GNI & GNP là giống
nhau, tuy vậy khi sử dụng GNI là muốn nói theo cách tiếp cận từ thu nhập
chứ không phải nói theo góc độ sản phẩm sản xuất như GNP.
GNI là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do
công dân của một nước tạo nên trong một khoảng thời gian nhất định (
thường là một năm ).
Chỉ tiêu này bao gồm các khoản hình thành thu nhập và phân phối lại
thu nhập lần đầu có tính đến cả các khoản nhận từ nước ngoài về và chuyển
ra nước ngoài.
Như vậy, GNI hình thành từ GDP tiếp cận theo góc độ thu nhập và
được điều chỉnh theo con số chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài.
GNI = GDP + chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
8
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Trong đó:
Chênh lệch thu nhập = Thu nhập lợi tức - Chi trả lợi tức
nhân tố với nhân tố từ nhân tố ra
nước ngoài nước ngoài nước ngoài
Sự khác nhau giữa GDP & GNI là ở phần chênh lệch thu nhập nhân tố
với nước ngoài. Ở các nước đang phát triển thi GNI thường nhỏ hơn GDP
vì thông thường phần chênh lệch này mang giá trị âm.
2.1.3. Thu nhập bình quân đầu người
Với ý nghĩa phản ánh thu nhập, chỉ tiêu GDP & GNI còn được sử
dụng để đánh giá mức thu nhập bình quân trên đầu người của mỗi quốc gia
( GDP/ người, GNI/ người ).
Chỉ tiêu này phản ánh tăng trưởng kinh tế có tính đến sự thay đổi dân
số. Qui mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người là những chỉ báo

quan trọng phản ánh và là tiền đề để nâng cao mức sống dân cư nói chung.
2.2. Các chỉ số về cơ cấu kinh tế
2.2.1. Chỉ số cơ cấu ngành
Chỉ số cơ cấu ngành là chỉ số phản ánh tỷ lệ của các ngành nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong GDP.
Trong quá trình phát triển, cơ cấu ngành kinh tế của mỗi quốc gia đều
có sự chuyển đổi, và quy luật của sự phát triển là tỷ lệ ngành công nghiệp
và dịch vụ trong GDP càng cao thì tỷ lệ ngành nông nghiệp trong GDP
càng giảm. Tỷ lệ ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP càng cao thể
hiện nền kinh tế càng phát triển
2.2.2. Chỉ số cơ cấu xuất nhập khẩu
Chỉ tiêu này được biểu hiện bằng các tỷ lệ:
Tỷ lệ giá trị xuất khẩu / GDP.
Tỷ lệ giá trị xuất khẩu / giá trị nhập khẩu
Tỷ lệ giá trị hàng công nghiệp trong xuất khẩu
Tỷ lệ giá trị máy móc và nguyên vật liệu trong tổng giá trị nhập khẩu
Một nền kinh tế phát triển thường có mức xuất khẩu ròng trong GDP (
thu nhập ròng X – M ) và các tỷ lệ trên ngày càng cao
2.2.3. Chỉ số tiết kiệm - đầu tư
Tỷ lệ tiết kiệm - đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân ( GNP ) hay
trong tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ) thể hiện khả năng về tăng trưởng và
phát triển kinh tế của quốc gia.
Trên thế giới mỗi nước có một tỷ lệ tiết kiệm và một lượng kim ngạch
dự trữ khác nhau. những nước có tỷ lệ đầu tư cao ( từ 20- 30% GDP )
thường là các nước có mức tăng trưởng cao.
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
9
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
2.3. Đánh giá sự phát triển xã hội

Các chỉ số về xã hội biểu hiện sự tiến bộ xã hội do tăng trưởng kinh tế
và tiến bộ của con người.
2.3.1. Mức tăng dân số hàng năm
Mức tăng dân số liên quan đến thu nhập bình quân trên đầu người của
nền kinh tế quốc gia. Sự tăng dân số cao, sự bùng nổ dân số của các nước
kém phát triển làm cho các nước này ngày càng nghèo đói thêm.
Mức tăng dân số hàng năm còn liên quan đến mật độ dân số đó là :
Tổng dân số quốc gia / tổng diện tích quốc gia
Tổng dân số quốc gia / tổng diện tích đất canh tác
Mức tăng dân số càng nhỏ các thể hiện mức phát triển của quốc gia
càng cao.
2.3.2. Số calo bình quân trên đầu người
Số calo bình quân trên đầu người ( calo / người / ngày ) là chỉ tiêu thể
hiện mức sống, mức nhu cầu về lương thực, thực phẩm của con người được
qui đổi thành đơn vị năng lực cần thiết cho con người là calo
Mức thu nhập bình quân trên đầu người tăng lên thì số calo bình quân
trên đầu ngời cũng tăng lên
Chỉ tiêu này chỉ có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển, thể hiện
một nền kinh tế giả quyết được nhu cầu cơ bản về lương thực, thực phẩm ở
mức nào ? Còn đối với các nước đã phát triển vì mức sống cao nên chỉ tiêu
này không còn ý nghĩa nữa.
2.3.3. Chỉ số cơ cấu nông thôn và thành thị
Quy luật nền kinh tế - xã hội của quốc gia càng phát triển thì dân số và
lao động ở thành thị ngày càng tăng lên và ở nông thôn ngày càng giảm đi.
Tỷ lệ dân số sống ở thành thị tăng lên theo mức thu nhập bình quân
đầu người tăng lên.
Sự tăng dân số và lao động ở thành thị nói lên sự văn minh trong đời
sống của nhân dân, sự phát triển kinh tê- xã hội của một nước
2.3.4. Chỉ số phát triển con người ( HDI )
Chỉ tiêu này kết hợp ba yếu tố là tuổi thọ bình quân được phản ánh

bằng số năm sống, trình độ giáo dục được đo bằng cách kết hợp tỷ lệ người
lớn biết chữ và tỷ lệ đi học đúng độ tuổi, mức thu nhập bình quân trên đầu
người tính theo sức mua tương đương . HDI được tính theo phương pháp
chỉ số và nhận giá trị trong khoang 0 và 1. Quốc gia nào có HDI càng gần 1
thì được đánh giá là càng phát triển cao.

GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
10
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
III. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN
KINH TẾ QUA CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VÀ ĐẦU TƯ
1. Đầu tư tác động đến tổng cung của nền kinh tế.
1.1. Lí thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái cổ điển.
Trong lịch sử các tư tưởng kinh tế, đầu tư và tích luỹ vốn cho đầu tư
ngày càng được xem là một nhân tố quan trọng cho sản xuất, cho việc gia
tăng năng lực sản xuất và cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế, từ đó tạo đà
cho sự tăng trưởng.
Từ các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith trong cuốn “Của cải
của các dân tộc” đã cho rằng vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu của số
lao động hữu dụng và hiệu quả. Việc tích tụ vốn đầu tư sẽ cho phép dân số
và lực lượng lao động gia tăng, cung cấp những người lao động với trang
thiết bị tốt hơn và quan trọng hơn là có thể tạo ra phân công lao động một
cách rộng rãi hơn. Chỉ có như vậy mới làm tăng tổng sản lượng toàn xã hội
và sản lượng bình quân mỗi lao động, tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh
tế.
Còn theo David Ricardo ông cho rằng nông nghiệp là ngành kinh tế
quan trọng nhất, các yếu tố cơ bản của sự tăng trưởng là đất đai, lao động,
và vốn. Trong ba yếu tố kể trên thì đất đai là yếu tố quan trọng nhất, song
đất đai cũng chính là giới hạn của sự tăng trưởng. Vì khi sản xuất nông

nghiệp gia tăng trên những đất đai kém màu mỡ hơn thì giá lương thực,
thực phẩm sẽ tăng lên. Mà lương thực, thực phẩm lại là bộ phận quan trọng
nhất để đảm bảo đời sống của gia đình công nhân. Do đó tiền lương danh
nghĩa của công nhân cũng phải tăng theo tương ứng, lợi nhuận của các nhà
tư bản có xu hướng giảm. Cứ tiếp tục như vậy cho đến khi lợi nhuận hạ
thấp không thể bù đắp được rủi ro trong kinh doanh làm cho nền kinh tế trở
nên bế tắc: địa tô ở mức cao, tiền công ở mức tối thiểu, lợi nhuận ở gần
mức không, tích luỹ tư bản ngừng lại. Vì thế để làm giảm sự giới hạn đó
theo ông cần thiết phải đầu tư vốn nhiều vào ngành công nghiệp, rồi xuất
khẩu hàng công nghiệp để mua lương thực rẻ hơn từ nước ngoài vào, hoặc
đầu tư cho ngành công nghiệp thúc đẩy phát triển công nghiệp để tác động
vào nông nghiệp. Lí thuyết của ông thể hiện vai trò của đầu tư trong việc
tăng trưởng các ngành nông nghiêp dẫn đến làm giảm giới hạn tăng trưởng
chung.
1.2. Quan điểm tăng trưởng kinh tế của K.Marx
Theo Marx các yếu tố tác động đến quá trình tái sản xuất là đất đai,lao
động, vốn và tiến bộ kĩ thuật. Ông cho rằng giữa cung và cầu thị trường
luôn có khoảng cách, để giải quyết khoảng cách này cần thiết phải có tích
luỹ sản xuất, tích luỹ hàng hóa, đây cũng là hoạt động đầu tư hàng tồn trữ.
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
11
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Ông cũng cho rằng khủng hoảng kinh tế là điều không thể tránh khỏi,
sau khi khủng hoảng nền kinh tế trở nên tiêu điều, để thoát khỏi tình trạng
này các nhà tư bản phải tiến hành đổi mới tư bản cố định với quy mô lớn
làm cho nền kinh tế tiến tới hưng thịnh. Để đổi mới tư bản cố định thì việc
quan trọng nhất là các nhà tư bản phải có hoạt động đầu tư đổi mới công
nghệ. Đây cũng chính là vai trò của đầu tư trong việc tăng trưởng kinh tế.
1.3.Lí thuyết tân cổ điển về đầu tư.

Trong mô hình tân cổ điển các nhà kinh tế học bác bỏ quan điểm cổ
điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỉ lệ
nhất định về lao động và vốn. Họ cho rằng vốn có thể thay thế được nhân
công, và trong quá trình sản xuất có thể gia tăng vốn cho một đơn vị lao
động để tạo sự phát triển kinh tế theo chiều sâu.
Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự
tăng trưởng thông qua hàm sản xuất.Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa
sự tăng lên của đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào: vốn, lao
động, tài nguyên và khoa học-công nghệ.
Y=f(K,L,R,T)
Trong đó:
Y: đầu ra
K: vốn sản xuất
L: lao động
R: nguồn tài nguyên thiên nhiên
T: khoa học công nghệ
Một dạng của kiểu phân tích này là hàm Cobb-Douglas, hàm này có
dạng
Y=T.K
α
.L
β
.R
γ
Ở đây α, β, γ là các số luỹ thừa phản ánh tỉ lệ cận biên của các yếu tố
đầu vào

(α + β + γ =1)
Sau khi biến đổi Cobb-Douglas thiết lập được mối quan hệ theo tốc độ
tăng trưởng của các biến số.

g = t + αk + βl + γr
Trong đó:
g: tốc độ tăng trưởng của GDP
k,l,r: tốc đột tăng trưởng của các yếu tố đầu vào
t: tác động của khoa học công nghệ
Qua đó ta thấy rằng sự tăng trưởng của yếu tố vốn cũng như yếu
tố đầu tư cũng góp phần vào tăng trưởng kinh tế nói chung.
1.4. Mô hình Harrod-Domar
Mô hình Harrod-Domor giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng
trưởng kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư.
Để xây dựng mô hình các tác giả đưa ra hai giả định
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
12
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế đối với cung lao động
Sản xuất tỉ lệ với khối lượng máy móc
Nếu gọi:
Y là sản lượng năm t
g = ∆Y/Y
t
là tốc độ tăng trưởng kinh tế
∆Y là sản lượng gia tăng trong kỳ
S là tổng tiết kiệm trong năm
s = S/Y
t
là tỉ lệ tiết kiệm/GDP
ICOR tỉ lệ gia tăng của vốn so với sản lượng
Từ công thức ICOR= ∆K/∆Y
Nếu ∆K = I ta có ICOR = I/∆Y

Mặt khác I = S = s*Y. thay vào công thức tính ICOR ta có
ICOR = ∆K/∆Y=s*Y/∆Y => ∆Y=s*Y/ICOR
Phương trình phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế
g = ∆Y/Y = s*Y/ICOR : Y
Cuối cùng ta có g = s/ICOR
Như vậy theo Harrod-Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng
kinh tế. Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỷ lệ tích luỹ
để đầu tư trong GDP là s với hệ số ICOR không đổi. Mô hình thể hiện S là
nguồn gốc của I, đầu tư làm gia tăng vốn sản xuất (∆K), gia tăng vốn sản
xuất sẽ trực tiếp làm gia tăng ∆Y, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế.
2. Mô hình của Keynes: Đầu tư là nhân tố kích thích tổng cầu của nền
kinh tế.
Các học thuyết kinh tế trước trường phái Keynes thường chủ yếu quan
tâm đến yếu tố cung, đồng nhất sự tăng cung với tăng trưởng kinh tế và cho
rằng nền kinh tế không có khủng hoảng. Tuy nhiên, vào những năm 30 của
thế kỉ 20, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp diễn ra thường xuyên và học
thuyết của trường phái Keynes ra đời đã đánh dấu sự phát triển mới về kinh
tế. Lí thuyết này nhấn mạnh đến yếu tố cầu và coi tổng cầu là nguyên nhân
của sự tăng trưởng cũng như suy thoái kinh tế. Theo Keynes cầu tiêu dùng
giảm dần dẫn đến hàng hoá ế thừa, kinh tế trì trệ, sản xuất không bán được,
các nhà sản xuất bi quan về nền kinh tế sẽ thu hẹp quy mô sản xuất hoặc
nếu không sẽ bị phá sản. Chính điều này sẽ khiến thất nghiệp xảy ra, tệ nạn
xã hội bùng phát. Như vậy sụt giảm cầu là nguyên nhân của khủng hoảng
kinh tế. Để thúc đẩy kinh tế phát triển cần kích thích tổng cầu, tổng cầu
tăng làm cho tổng cung tăng, nền kinh tế đạt tới trạng thái cân bằng mới ở
mức sản lượng cao hơn mức sản lượng ban đầu.
Một trong những lí thuyết nổi tiếng của Keynes về đầu tư là lí thuyết
số nhân đầu tư. Theo ông mỗi sự gia tăng về vốn đầu tư đều kéo theo sự gia
tăng nhu cầu bổ sung về nhân công và nhu cầu về tư liệu sản xuất. Do vậy
làm tăng việc làm và tăng nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế. Tất cả các

điều đó làm tăng thu nhập của nền kinh tế và đến lượt mình tăng thu nhập
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
13
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
lại làm gia tăng đầu tư mới. Quá trình này thể hiện thông qua một đại lượng
gọi là số nhân đầu tư. Số nhân đầu tư thể hiện qua tác động dây chuyền:
tăng đầu tư làm tăng thu nhập, tăng thu nhập làm tăng đầu tư mới, tăng đầu
tư mới làm tăng thu nhập mới. Qua quá trình hoạt động này, số nhân đầu tư
làm phóng đại thu nhậplên.
Số nhân đầu tư thể hiện mối quan hệ giữa mức gia tăng thu
nhập và mức gia tăng đầu tư. Số nhân này xác định sự gia tăng đầu tư sẽ
làm cho thu nhập tăng lên như thế nào. Nếu kí hiệu dY là mức gia tăng thu
nhập, dI là mức gia tăng đầu tư và m là số nhân đầu tư thì:
m = dY/dI
vì S = I nên
m = dY/dS = dY/(dY-dC) = 1/(1-dC/dY) = 1/(1-c)
Trong đó c là khuynh hướng tiêu dùng cận biên. Chẳng hạn khuynh
hướng tiêu dùng cận biên của xã hội là 0.75 thì theo nguyên lí số nhân, từ 1
tỉ đồng đầu tư có thể có mức thu nhập là 4 tỉ đồng. Rõ ràng đầu tư làm tăng
thu nhập, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Cũng theo Keynes, hiệu quả cận biên của vốn đầu tư phụ thuộc vào tỉ
suất thu lời dự kiến của số tiền đầu tư mới chứ không phải so với phí tổn
nguyên thuỷ của nó. Như vậy, cùng với sự tăng lên của vốn đầu tư thì hiệu
quả cận biên của mỗi đồng vốn gia tăng bị giảm sút. Bởi vì, đầu tư làm tăng
thêm khối lượng hàng hoá cung ứng trên thị trường, làm giảm giá của các
hàng hoá sản xuất thêm, và tăng cung ứng hàng hoá sẽ làm chi phí vốn đầu
tư tăng từ đó làm giảm hiệu qủa sử dụng vốn. Mặt khác sự khuyến khích
đầu tư lại phụ thuộc vào lãi suất. Người ta sẽ tiếp tục đầu tư chừng nào hiệu
quả cận biên của vốn lớn hơn lãi suất huy động vốn. Khi nào hiệu quả cận

biên của vốn bằng hoặc thấp hơn lãi suất huy động vốn thì người ta không
đầu tư nữa. Vì vậy để kích thích đầu tư cần tìm biện pháp tăng hiệu qủa cận
biên của vốn hoặc (và) giảm lãi suất.
Keynes cũng đã chỉ ra vai trò của chính phủ và đầu tư trong việc kích
thích tổng cầu: AD = C + G + I
Trong đó:
AD là tổng cầu
C là tiêu dùng
G là chi tiêu chính phủ
I là đầu tư
Qua đẳng thức trên ta thấy đầu tư và chính phủ đều có vai trò hết sức
quan trọng đối với tổng cầu. Đầu tư làm tăng tổng cầu và ngược lại. Chi
tiêu chính phủ cũng góp phần làm tăng tổng cầu. Nhà nước sử dụng ngân
sách của nhà nước để kích thích đầu tư của khu vực tư nhân và nhà nước.
Như vậy đầu tư thông qua các chính sách của chính phủ để kích cầu, kích
thích sản xuất phát triển.
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
14
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
3.Đầu tư tạo sự phát triển cho các ngành kinh tế mũi nhọn từ đó tạo ra
sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Trong các tiêu thức đánh giá phát triển, cơ cấu kinh tế được xem như
là tiêu thức phản ánh sự thay đổi về chất, là dấu hiệu đánh giá, so sánh các
giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế biểu hiện dưới nhiều
dạng khác nhau trong đó quan trọng nhất là cơ cấu ngành vì nó phản ánh sự
phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Trạng thái cơ cấu ngành là dấu hiệu phản ánh trình độ phát triển kinh
tế của mỗi quốc gia. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành là một quá trình
diễn ra liên tục và gắn liền với sự phát triển kinh tế. Ngược lại nhịp độ phát

triển, tính chất bền vững của quá trình tăng trưởng lại phụ thuộc vào khả
năng chuyển dịch cơ cấu ngành linh hoạt, phù hợp với những điều kiện bên
trong, bên ngoài và các lợi thế tương đối của nền kinh tế.
3.1. Mô hình các giai đoạn phát triển của W.Rostow
Trong cuốn “các giai đoạn phát triển kinh tế”, nhà lịch sử kinh tế Mỹ
Walter Rostow đã đưa ra mô hình về quá trình phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia . Ông chia quá trình phát triển thành 5 giai đoạn và ứng với mỗi
giai đoạn cần có sự đầu tư hợp lí để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển
dịch cơ cấu ngành.
Giai đoạn xã hội truyền thống: sản xuất nông nghiệp giữ vai trò chủ
đạo trong hoạt động kinh tế, năng suất lao động thấp nhìn chung nền kinh
tế chưa có những biến đổi mạnh
Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: ngành công nghiệp bắt đầu phát triển,
nhu cầu đầu tư tăng lên đã thúc đẩy hoạt động của ngân hàng và sự ra đời
của các tổ chức huy động vốn
Giai đoạn cất cánh: đây là giai đoạn trung tâm trong sự phân tích các
giai đoạn phát triển của Rostow. Những yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự cất
cánh là: huy động được nguồn vốn đầu tư cần thiết, tỉ lệ tiết kiệm và đầu tư
tăng từ 5% đến 10% trong thu nhập quốc dân thuần tuý. Ngoài vốn đầu tư
trong nước nguồn vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa cực kì quan trọng. Khi
huy động được nguồn vốn cần thiết sẽ tạo điều kiện để phát triển khoa học
kĩ thuật. Từ đó tác động mạnh vào nông nghiệp và công nghiệp, công
nghiệp giữ vai trò đầu tầu, có tốc độ tăng trưởng nhanh, đem lại lợi nhuận
lớn, lợi nhuận lại được tái đầu tư phát triển sản xuất, thông qua nhu cầu thu
hút công nhân, kích thích phát triển khu vực đô thị và các lĩnh vực dịch vụ.
Có thể nói đầu tư đóng vai trò phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn, lôi
kéo các ngành khác phát triển, cơ cấu ngành kinh tế của giai đoạn này là
công nghiệp – nông nghiệp - dịch vụ.
Giai đoạn trưởng thành: Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là tỉ lệ
đầu tư tăng liên tục, lên tới 20% thu nhập quốc dân thuần tuý. Nếu có được

tỉ lệ đầu tư như vậy thì mới có điều kiện để ứng dụng khoa học kĩ thuật trên
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
15
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
toàn bộ các mặt hoạt động của nền kinh tế, nhiều ngành công nghiệp mới
hiện đại phát triển, nông nghiệp được cơ giới hoá, đạt năng suất lao động
cao, nhu cầu xuất nhập khẩu tăng mạnh, sự phát triển kinh tế trong nước
hoà đồng vào thị trường quốc tế. Cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn này
là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
Giai đoạn tiêu dùng cao: giai đoạn này thu nhập bình quân đầu người
cao, dân cư giàu có dẫn đến sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng hàng hoá dịch
vụ, cơ cấu lao động thay đổi theo hướng tăng tỉ lệ lao động có tay nghề cao,
phúc lợi xã hội tốt. Cơ cấu ngành giai đoạn này là dịch vụ - công nghiêp.
Để đạt được đến giai đoạn này thì ở từng giai đoạn việc sử dụng vốn
đầu tư đúng hướng là vô cùng quan trọng.
3.2. Mô hình hai khu vực của Arthus Lewis
Mô hình thể hiện mối quan hệ chặt chẽ và rõ ràng giữa sự gia tăng vốn
đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quan điểm cho rằng tích tụ vốn
cho đầu tư là chìa khoá sự tăng trưởng kinh tế được thể hiện trong các
chiến lược và chính sách phát triển tại nhiều quốc gia.(Pakistan và Ấn Độ
đều sử dụng kế hoạch 5năm trong những năm đầu thập kỉ 60. Trong đó
nhấn mạnh đến nhu cầu vốn trong giai đoạn khởi đầu qúa trình công nghiệp
hoá, ở đây việc sử dụng một lượng vốn lớn từ nước ngoài là có thể chấp
nhận được).
Mô hình Arthus Lewis tiếp tục kế thừa quan điểm của các nhà kinh tế
học cổ điển nhấn mạnh đến sự tăng trưởng tư bản của vốn để tăng lợi
nhuận và tích luỹ. Trong mô hình kinh tế nhị nguyên, ông cho rằng vấn đề
quan trọng trong lý thuyết phát triển kinh tế là hiểu được quá trình mà nền
kinh tế trước đây chỉ tích luỹ và đầu tư từ 4% hay 5% thu nhập quốc gia

hay thậm chí ít hơn, chuyển sang nền kinh tế mà mức tích luỹ tự nguyện là
khoảng 12%-15% thu nhập quốc dân hay hơn.
Theo Lewis tất cả các quốc gia mà hiện nay đã tương đối phát triển đã
từng có thời kì gia tăng mạnh mẽ về vốn trong đó tỉ lệ đầu tư thuần của các
nền kinh tế này tăng từ mức 5% đến mức 12% hay hơn. Quá trình đó chúng
ta gọi là cách mạng công nghiệp. Quá trình này sẽ tác động nền kinh tế
chuyển sang cơ cấu tăng dần tỉ trọng trong công nghiệp, tăng thu nhâp, tăng
trưởng kinh tế mạnh mẽ.
Ví dụ, Ấn Độ trong những năm đầu thập kỉ 50, mức đầu tư thuần của
các nước này chỉ là 4% hay 5% thu nhập quốc gia, còn thu nhập đầu người
ở mức rất thấp, cho đến những năm 60 mức đầu tư ròng đạt được là 12%
thì đời sống dân cư của nước này bắt đầu có cải thiện đáng kể.
Nghiên cứu sự phát triển của nhiều nước đang phát triển trong nhiều
năm qua cho thấy rằng các quốc gia phát triển hàng đầu trong số các nước
đó là những nước có tỉ lệ tích luỹ vốn cao nhất còn những nước kém phát
triển là những nước có tỉ lệ đầu tư thấp nhất.
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
16
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
3.3. Mô hình hai khu vực của Oshima.
Với quan điểm hướng tới một nền kinh tế phát triển, Oshima đã đưa ra
hướng quan tâm đầu tư phát triển nền kinh tế theo 3 giai đoạn với những
mục tiêu và nội dung phát triển khác nhau.
Giai đoạn bắt đầu của quá trình tăng trưởng: tạo việc làm cho thời
gian nhàn rỗi theo hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp. Theo
ông do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, nhất là ở các nước Châu Á gió
mùa là mang tính thời vụ nhỏ lẻ, lao động thất nghiệp mang tính thời vụ
càng trầm trọng khi sản xuất nông nghiệp mang nặng tính độc canh, phân
tán. Biện pháp hợp lí nhất để giải quyết lao động thất nghiệplà đầu tư để đa

dạng hoá sản xuất nông nghiệp, xen canh tăng vụ, mở rộng chăn nuôi. Đầu
tư cho phân bón, thuốc trừ sâu, cải cách ruộng đất để nông dân phát huy
cao độ nỗ lực của mình. Những biện pháp này đòi hỏi hướng đầu tư hợplí,
ban đầu vốn đầu tư cho nông nghiệp không quá lớn, phù hợp với các nước
đang phát triển. Khi chủng loại nông sản sản xuất ra ngày càng nhiều với
quy mô lớn nhu cầu cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp
tăng cao và xuất hiện yêu cầu chế biến nông sản với quy mô lớn nhằm tăng
cường tính chất hàng hoá trong sản xuất nông nghiệp, tức là đặt ra vấn đề
phát triển ngành công nghiệp và thương mại dịch vụ, khi đó nền kinh tế
chuyển sang giai đoạn hai.
Giai đoạn hai: hướng tới có việc làm đầy đủ bằng cách đầu tư phát
triển đồng thời cả nông nghiệp và công nghiệp. Xuất phát từ mục tiêu
hướng tới giải quyết đầy đủ việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
Oshima cho rằng cần đầu tư phát triển các ngành nông nghiệp, công
nghiệp, và cả dịch vụ theo chiều rộng. Khi nông nghiệp đã phát triển thì
việc mở rộng thị trường công nghiệp, tạo yêu cầu tăng thêm quy mô sản
xuất công nghiệp cũng như nhu cầu về các hoạt động dịch vụ ngày càng
lớn. Qúa trình này diễn ra liên tục trong nhiều năm sẽ kéo theo sự thay đổi
cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỉ trọng trong nông nghiệp và tăng dần tỉ
trọng trong các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Giai đoạn sau khi có việc làm đầy đủ: thực hiện phát triển các ngành
kinh tế theo chiều sâu. Quan điểm của ông trong giai đoạn này là phải đầu
tư phát triển theo chiều sâu trên toàn bộ các ngành của nền kinh tế. Một
mặt trong nông nghiệp hướng tới sử dụng máy móc thiết bị theo hướng áp
dụng phương pháp công nghệ sinh học nhằm tăng sản lượng. Mặt khác khu
vực công nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng thay thế sản phẩm nhập
khẩu và hướng về xuất khẩu với sự chuyển dịch dần về cơ cấu sản xuất sản
phẩm. Sự quá độ từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp được hoàn
thành và nền kinh tế chuyển sang giai đoạn tiếp theo, đó là sự quá độ từ
công nghiệp sang dịch vụ. Giai đoạn ba kết thúc tức là nền kinh tế đã phát

triển đến giai đoạn phát triển cao nhất
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
17
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Rõ ràng rằng theo quan điểm của Oshima trong từng giai đoạn phát
triển đều cần đến sự đầu tư và phân bổ vốn đầu tư hợp lí để đạt được mục
tiêu tăng trưởng bền vững.
4. Đầu tư được coi là cú huých từ bên ngoài giúp các nước đang phát
triển thoát khỏi vòng luẩn quẩn của đói nghèo.
Những năm đầu của thập kỉ 50 thế kỉ XX, nhà kinh tế học Ragnar
Nurkse đã đưa ra học thuyết nhấn mạnh đến vai trò của đầu tư và vốn đầu
tư đến phát triển nền kinh tế. Nurkse cho rằng việc thiếu vốn đầu tư là một
nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo đói. Ông đã chỉ ra cái vòng luẩn quẩn
của sự nghèo đói
Về phía cung: một quốc gia có thu nhập thấp sẽ có khả năng tích luỹ
thấp, tích luỹ thấp dẫn đến thiếu vốn đầu tư, thiếu vốn đầu tư dẫn đến năng
lực sản xuất bị hạn chế, cung không thể cao, năng lực sản xuất thấp dẫn đến
thu nhập sẽ thấp.
Về phía cầu: thu nhập thấp làm cho sức mua thấp, sức mua thấp làm
cho động lực gia tăng đầu tư bị hạn chế, đầu tư bị hạn chế dẫn đến năng lực
sản xuất thấp và từ đó cũng sẽ lại dẫn đến thu nhập thấp.
Quan điểm này của ông cũng giống với quan điểm của nhà kinh tế học
Samuelson, Samuelson cũng đưa ra mô hình về cái vòng luẩn quẩn của sự
đòi nghèo


Vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo

Thực tế cho thấy các nước nghèo hiện nay trên thế giới hầu hết chịu

cảnh nghèo đói một phần do những nguyên nhân trên. Tức là sự nghèo đói
tại các quốc gia này một phần là do thiếu vốn đầu tư và sự đầu tư thích
đáng, có hiệu quả. Nguyên nhân của tình trạng đầu tư hạn chế tại các nước
này là do hoặc vì thiếu động lực thúc đẩy đầu tư hoặc là khả năng tích luỹ
của nền kinh tế quá nhỏ.
Điều này cho thấy rằng, để phát triển và thực hiện xoá đói giảm nghèo
thành công thì phải làm sao phá vỡ được cái vòng luẩn quẩn trên. Một
trong những biện pháp để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn đó là xuất phát từ khía
cạnh đầu tư. Nền kinh tế phải tạo được sự chuyển biến tăng mức tích luỹ từ
mức thấp lên mức trung bình và mức cao để tăng quy mô đầu tư từ đó tăng
Thu nhập thấp
Năng suất thấp Tỉ lệ tích luỹ thấp
Trình độ kĩ thuật thấp
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
18
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
năng lực sản xuất và cuối cùng là gia tăng thu nhập, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
5.Đầu tư đúng hướng cho phép khai thác lợi thế tuyệt đối và tương đối,
thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển.
5.1. Quan điểm của Adam Smith
Khi nghiên cứu mô hình kinh tế cổ điển chúng ta đã biết rằng các nhà
kinh tế cổ điển coi đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Khi nhu cầu lương
thực tăng lên phải sản xuất trên những đất đai cằn cỗi, không đảm bảo được
lợi nhuận cho các nhà tư bản thì họ sẽ không sản xuất nữa. Các nhà kinh tế
cổ điển gọi đó là bức tranh đen tối của tăng trưởng. Trong điều kiện đó
Adam Smith cho rằng phải đầu tư khai thác những sản phẩm mà có chi phí
sản xuất thấp hơn, rồi đem đi xuất khẩu, và tích luỹ vốn để mua những sản
phẩm có chi phí sản xuất cao hơn ở nước mình nhưng thấp hơn ở nước

khác. Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối với nước sản xuất sản
phẩm có chi phí thấp sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn khi bán sản phẩm
trên thị trường quốc tế. Còn đối với nước sản xuất sản phẩm với chi phí cao
sẽ có được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản
xuất không đem lại lợi nhuận, người ta gọi là bù đắp được sự yếu kém về
khả năng sản xuất trong nước.
Ngày nay đối với các quốc gia đang phát triển việc khai thác lợi thế
tuyệt đối có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuất một số loại
sản phẩm đặc biệt là tư liệu sản xuất với chi phí có thể chấp nhận được.
Việc không đủ vốn đầu tư làm các quốc gia này không thể sản xuất ra máy
móc thiết bị đòi hỏi công nghệ cao, nhiều vốn, ngược lại không đủ khả
năng sản xuất ra máy móc thiết bị là nguyên nhân dẫn đến đầu tư thấp. Như
vậy nếu không đầu tư đúng hướng vào sản xuất sản phẩm mà mình có lợi
thế thì không thể thoát ra được cái vòng luẩn quẩn đó.
5.2 Lí thuyết của Ricarđo và Heckscher-Ohlin.
Phát triển lí thuyết lợi thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương
Ricardo đã nghiên cứu lợi thế này dưới góc độ chi phí so sánh để sản xuất
ra sản phẩm.
Ví dụ, xem xét khả năng trao đổi sản phẩm giữa Việt Nam và Nga đối
với hai sản phẩm thép và quần áo:
Chi phí sản xuất

S
ản phẩm


Chi phí s
ản xuất (ng
ày công lao đ
ộng)


Việt Nam

Nga
Thép (1đơn v
ị)


25




15


Quần áo(1đơnvị) 5 4
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
19
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A

Xét theo chi phí sản xuất thì Việt Nam sản xuất thép hay quần áo đều
có chi phí cao hơn Nga, lợi thế tuyệt đối chỉ ra rằng Việt Nam không có
khả năng xuất khẩu sản phẩm nào sang Nga. Song nếu chúng ta xét theo
chi phí so sánh thì lại có cách nhìn khác:
Chi phí so sánh

Theo chi phí so sánh thì thấy rằng chi phí sản xuất thép của Việt Nam
cao hơn Nga: để sản xuất ra một đơn vị thép ở Việt Nam cần 5 đơn vị quần

áo trong khi ở Nga chỉ cần 4 đơn vị. Nhưng ngược lại chi phí sản xuất quần
áo của Việt Nam lại thấp hơn của Nga: để sản xuất ra một đơn vị quần áo ở
Việt Nam cần 1/5 đơn vị thép, trong khi ở Nga cần 1/4 đơn vị. Như vậy
Nga xuất khẩu thép sang Việt Nam, Việt Nam xuất khẩu quần áo sang Nga,
việc trao đổi này đưa lại lợi ích cho cả hai nước. Nó làm cho khả năng tiêu
dùng vượt khỏi đường giới hạn, nâng cao mức sống và thu nhập thực tế của
một nước.
Phát triển lí thuyết của Ricardo hai nhà kinh tế học Thuỵ Điển là Eli
Heckscher và Bertil Ohlin đã cho rằng mức độ sẵn có của các yếu tố sản
xuất ở các quốc gia khác nhau và mức sử dụng yếu tố để sản xuất sản phẩm
là những nhân tố quan trọng quyết định sự khác biệt về chi phí so sánh.
Quay lại ví dụ ta thấy rằng Việt Nam là nước tương đối sẵn có về lao động
nên tập trung vào ngành diệt may là ngành cần nhiều lao động, còn Nga
tương đối sẵn có về vốn nên sẽ sản xuất và xuất khẩu thép là mặt hàng cần
nhiều vốn. Lí thuyết Heckscher Ohlin đã giải thích sự có được lợi ích trong
thương mại quốc tế nếu đầu tư vào những mặt hàng mà sử dụng nhiều yếu
tố sẵn có trong nước, nó cho phép bất kì nước nào cũng có thể tăng thu
nhập của mình thông qua ngoại thương.










Sản phẩm


Chi phí so sánh
Việt Nam Nga

Thép(1đơnvị) 5 4

Quần áo(1đơnvị) 1/5 1/4
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
20
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ
ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
I. TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM QUA
1.Tổng quan về kinh tế
Sau hơn 20 năm, với chính sách đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có
một bước chuyển đổi cơ bản từ một nền kinh tế tập trung thành một nền
kinh tế thị trường đầy đủ. Trong suốt thời kỳ này, nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng tương đối nhanh. Mặc dù Việt Nam vẫn còn một khoảng cách
khá xa so với các nước giầu có, song với sự đầu tư nước ngoài ngày càng
tăng và các yếu tố thuận lợi khác trong nước đang giúp cho nền kinh tế Việt
Nam từng bước đi lên.
Sau đây là số liệu về tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam theo giá
so sánh năm 1994 do Tổng cục Thống kê công bố:

Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996
GDP

109,2


113,1

120,0

125,6

132,0

193,6

151,8

164,1

178,5

195,6

213,8

Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
GDP

231,3

244,7

256,2


273,6

292,5

313,2

336,2

362,4

393,
0

425,2



Năm 1986, Đại hội lần thứ 6 Đảng cộng sản Việt Nam chính thức từ
bỏ hình thức kinh tế kế hoạch hoá Mác xít và bắt đầu đi theo các khuynh
hướng kinh tế thị trường coi đó là một phần trong kế hoạch cải cách kinh tế
tổng thể, được gọi là "Đổi mới". Đổi mới, theo nhiều hình thức, tương tự
với mô hình Trung Quốc, và đã mang lại nhiều thành công. Một mặt, Việt
nam đạt mức tăng trưởng GDP ở mức khoảng 8% một năm trong giai đoạn
1990 tới 1997, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế châu Á cuối năm
1997 cho nên tốc độ tăng trưởng của Việt Nam bắt đầu giảm từ năm 1997
đến năm 1999, đến năm 2000 tốc độ tăng trưởng đạt 6,75%, cao hơn so với
chỉ tiêu Quốc hội đề ra là 5,5-6,5% và đặc biệt là đã chặn được đà giảm sút
kinh tế mấy năm vừa qua, và tốc độ tăng trưởng GDP trung bình trong giai
đoạn 2000-2006 là 7,5 % /1 năm.
Trong bối cảnh khó khăn nhiều hơn thuận lợi, song dưới sự lãnh đạo

của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, sự điều hành sát sao của Chính phủ, các
ngành, các địa phương, các doanh nghiệp và hàng chục triệu hộ sản xuất
kinh doanh cá thể trong cả nước đã có nhiều cố gắng, khắc phục khó khăn,
phát huy thuận lợi để phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh dịch vụ. Nhờ
đó kinh tế cả nước trong năm 2007 tiếp tục phát triển toàn diện và hầu hết
các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
21
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến
bộ là thành tựu nổi bật nhất, cơ bản nhất của nền kinh tế Việt Nam năm
2007. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,48%, đạt kế hoạch đề ra (8,0 -
8,5%), cao hơn năm 2006 (8,17%) và là mức cao nhất trong vòng 11 năm
gần đây. Với tốc độ này, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về tốc độ tăng GDP
năm 2007 của các nước châu Á sau Trung Quốc (11,3%) và Ấn Độ
(khoảng 9%) và cao nhất trong các nước ASEAN (6,1%). Tốc độ tăng
trưởng GDP cả 3 khu vực kinh tế chủ yếu đều đạt mức khá: Khu vực nông
- lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,0%/ so với mức 3,32% cùng kỳ 2006, khu
vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,33% (riêng công nghiệp tăng
10,32%)/ so với mức 10,4% và 10,32% cùng kỳ và khu vực dịch vụ tăng
8,5%/ so với mức 8,29% của năm 2006. (tính theo giá so sánh năm 1994).
Bảng - Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm từ 1997-2007 (%)
Năm

1997

1998

1999


2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

GDP 8,15 5,76 4,77 6,79 6,89 7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,48
NLTS 4,33 3,53 5,53 4,63 2,89 4,17 3,62 4,36 4,02 3,3 3,0
CNXD

12,62 8,33 7,68 10,07 10,39 9,48 10,48 10,22 10,69 10,37 10,4
DV 7,14 5,08 2,25 5,32 6,10 6,54 6,45 7,26 8,48 8,29 8,5

(Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2006,tr 69)
Nếu không có thiên tai, dịch bệnh lớn như vừa trải qua, tốc độ tăng
GDP chắc chắn còn cao hơn 8,5%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích
cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng dịch vụ và giảm tỷ
trọng khu vực nông nghiệp (khu vực nông nghiệp chiếm 20%; công nghiệp
và xây dựng chiếm 41,5%, dịch vụ 38,1%. Giá trị sản xuất công nghiệp

năm 2007 đạt 574 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với năm 2006; trong đó,
khu vực ngoài quốc doanh tăng 20,9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
tăng 18,2% và khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10,3%.
Khu vực dịch vụ phát triển khá. Thương mại nội địa phát triển mạnh.
Nhiều hình thức kinh doanh góp phần cải thiện cơ cấu thị trường dần theo
hướng đa dạng, văn minh kết hợp với hiện đại hóa. Khách du lịch quốc tế
đến Việt Nam năm 2007 đạt 4,171 triệu lượt khách, tăng 16,4% so với năm
2006. Lượng khách du lịch nội địa năm 2007 ước đạt 18,5 triệu lượt khách,
tăng 8,82% so với năm 2006. Số lượng khách du lịch Việt Nam đi du lịch
nước ngoài khá lớn, đặc biệt là ở các thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh và
một số địa phương có mức sống của dân cư cao. Các ngành vận tải hàng
hóa, mạng lưới và dịch vụ bưu chính, viễn thông, internet trong nước và
quốc tế, các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm… đều phát triển khá so
với năm 2006.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt trên 40 tỉ USD, vượt 3,4% kế
hoạch và tăng 21,5% so với năm trước. Đây cũng là một trong những chỉ số
ấn tượng nhất về giữ vững nhịp phát triển trong năm qua.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, trong khi thu ngân sách vượt kế hoạch
thì bội chi ngân sách vẫn được khống chế dưới 5% GDP. Bên cạnh đó, do
thặng dư lớn trong cán cân thanh toán quốc tế nên tạo được cơ sở để ổn
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
22
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
định tỷ giá và giá trị đồng Việt Nam so với ngoại tệ. Không những thế, dự
trữ ngoại tệ cũng tăng lên đáp ứng được các nhu cầu bình ổn thị trường
ngoại tệ. Các chỉ số nợ của Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia ở
mức an toàn cho phép.
Không chỉ có nguồn vốn ngân sách nhà nước tăng lên mà nguồn vốn
huy động từ xã hội cho đầu tư phát triển cũng rất khả quan, khoảng 462,2

nghìn tỷ đồng, bằng 40,5% GDP, tăng 15,9% so với năm 2006; trong đó
nguồn vốn từ khu vực dân cư và tư nhân chiếm 34,4% tổng vốn đầu tư toàn
xã hội, tăng 19,5% so với năm 2006.
2. Một số vấn đề xã hội
Cùng với tăng trưởng kinh tế là sự phát triển xã hội, phát triển con
người. Chỉ số phát triển con người (HDI) do UNDP mới công bố cho thấy,
HDI của Việt Nam đạt 3 điểm vượt trội.
HDI liên tục tăng qua các năm (1995 đạt 0,560, năm 2000 đạt 0,688,
năm 2003 đạt 0,704, năm 2004 đạt 0,709, năm 2005 đạt 0,733, khả năng
2007 vượt 0,750).
Thứ bậc về HDI của Việt Nam tăng khá. Trong 10 nước ở khu vực,
nếu năm 1995 còn đứng thứ 7 thì nay đứng thứ 6. Trong 41 nước và vùng
lãnh thổ ở châu Á (có số liệu so sánh), năm 1995 đứng thứ 31, năm 2000
đứng thứ 27 và năm 2005 đứng thứ 23. Trong 177 nước và vùng lãnh thổ
trên thế giới, nếu năm 1995 đứng thứ 122 thì năm 2000 đứng thứ 109 và
năm 2005 đứng thứ 105.
Thứ hạng về HDI đứng thứ 105 nhưng về chỉ số tuổi thọ đứng thứ 56,
về chỉ số giáo dục đứng thứ 101, cao hơn thứ bậc về chỉ số GDP bình quân
đầu người (đứng thứ 123). HDI của Việt Nam còn cao hơn hàng chục nước
và GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam.
Năm 2007 nhìn chung đời sống của dân cư tiếp tục ổn định và từng
bước được cải thiện. Đời sống cán bộ, công chức, viên chức và người lao
động hưởng lương đã được cải thiện, qua 1 năm thực hiện Nghị định
94/2006/NĐ-CP và Nghị định 03/2006/NĐ-CP về việc điều chỉnh mức
lương tối thiểu chung. Thu nhập bình quân một tháng của một lao động
trong khu vực Nhà nước đạt 2064,2 nghìn đồng, trong đó lao động do
Trung ương quản lý 2522,6 nghìn đồng và lao động do địa phương quản lý
1764,0 nghìn đồng. Tuy nhiên, mức thu nhập giữa các ngành, các loại hình
doanh nghiệp, các địa phương không đồng đều.
Mặc dù chịu tác động của nhiều yếu tố như giá tiêu dùng liên tục tăng,

sản xuất nông nghiệp ở một số vùng chịu ảnh hưởng nặng nề của bão lũ,
nhưng đời sống của đại đa số dân cư ở nông thôn vẫn giữ được mức ổn
định, do giá nông sản, thực phẩm tăng đã khuyến khích nông dân sản xuất
hàng hóa, tăng thêm thu nhập. Tỷ lệ hộ nghèo của cả nước đã giảm từ
15,47% năm 2006 xuống còn 14,75% năm 2007 vượt kế hoạch đề ra
(16%).
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
23
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Vị trí quốc tế của Việt Nam gia tăng với việc chính thức trở thành
thành viên WTO, được bầu làm Ủy viên không thường trực của Hội đồng
Bảo an Liên Hiệp Quốc,
II. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TÁC ĐỘNG VÀO TĂNG TRƯỞNG VÀ
PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM
1. Dựa vào vai trò của đầu tư tác động lên tổng cầu
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ
nền kinh tế. Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư chiếm khoảng 24
đến 25 % trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Sự tăng
lên của đầu tư làm cầu các yếu tố liên quan tăng, sản xuất các ngành này
phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời
sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội… tạo điều kiện cho sự tăng trưởng
kinh tế. Năm 2007 là năm chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của đầu tư
phát triển. Khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 theo giá
thực tế đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% tổng sản phẩm trong nước
(đạt kế hoạch đề ra 40% GDP) và tăng 15,8% so với năm 2006, trong đó
vốn khu vực Nhà nước 200 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,3% tổng vốn và tăng
8,1%; vốn khu vực ngoài Nhà nước 187,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,7% và
tăng 24,8%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 74,1 nghìn tỷ đồng, chiếm
16% và tăng 17,1%.

Trong vốn nhà nước, vốn đầu tư từ ngân sánh nhà nước (gồm vốn dự
án và chương trình mục tiêu) thực hiện 97 nghìn tỷ đồng, bằng 101,6% kế
hoạch năm, trong đó vốn do địa phương quản lý 64,4 nghìn tỷ đồng, bằng
107,2%, vốn trung ương quản lý đạt thấp hơn so với dự toán, chỉ bằng
92,2%; vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 40,3 nghìn tỷ đồng,
đạt kế hoạch năm và vốn của các doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức
nhà nước khác khoảng 62,7 nghìn tỷ. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp
tục tăng khá, ước tính năm 2007 đạt 20,3 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm
2006 và vượt 56,3% kế hoạch cả năm, trong đó vốn cấp phép mới là 17,86
tỷ USD.
Sự phát triển mạnh mẽ của đầu tư cũng có nhiều tác động tích cực
trong việc duy trì ổn định và phát triển kinh tế. Năm 2007 Việt Nam giải
quyết được việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động, tăng dần tỷ trọng trọng
lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, giảm đáng kể tỉ lệ thất nghiệp. Ở đầu ra,
tăng trưởng cao đạt được ở kênh tiêu thụ trong nước và kênh xuất khẩu.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng khá so với năm trước,
nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì vẫn còn tăng 13,5%, cao gấp gần 1,6 lần tốc
độ tăng trưởng GDP. Dung lượng thị trường ở Việt Nam đạt quy mô khá,
một phần do dân số đông (đứng thứ 13 thế giới), hàng năm vẫn tăng trên 1
triệu người; một phần do thu nhập bình quân đầu người tăng, nhu cầu tiêu
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
24
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
dùng tăng lên cả về số lượng, mẫu mã, chủng loại, một phần quan trọng
hơn là do tỷ lệ mua bán thông qua thị trường tăng nhanh.
2. Dựa vào vai trò của đầu tư tác động lên tổng cung.
Khi những kết quả đầu tư phát huy tác dụng thì tổng cung trong dài
hạn tăng lên. Sản lượng tăng làm giá giảm dẫn đến tiêu dùng tăng. Từ đó
kích thích sản xuất, tăng tích lũy phát triển kinh tế. Ở Việt Nam đầu tư vào

cơ sở hạ tầng, vật chất máy móc, trang thiết bị ngày càng được nâng cao
làm cho sản xuất không ngừng mở rộng tạo thu nhập cho người tiêu dùng.
Dưới góc độ mô hình của Ricardo:Ông cho rằng đất đai là yếu tố quan
trọng nhất và là giới hạn của tăng trưởng .Khi sản xuất nông nghiệp gia
tăng trên những đất đai kém màu mỡ làm cho giá lương thực thực phẩm
tăng lên tương ứng, lợi nhuận của nhà tư bản do đó mà giảm,dẫn đến sản
xuất trì trệ. Từ đó ông đề ra phương pháp giải quyết bằng cách xuất khẩu
hàng công nghiệp để mua lương thực rẻ từ nước ngoài hoặc phát triển công
nghiệp để tác động vào nông nghiệp.
Việt Nam là nước có dân số đông, đất nông nghiệp ngày càng giảm về
số lượng lẫn chất lượng. Từ thực tế đó, Việt Nam đã đầu tư sang công
nghiệp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện
đại hóa. Trong những năm và cả giai đoạn trước mắt Đảng ta đã xác định
cơ cấu và phương hướng phát triển công nghiệp tập trung vào những nội
dung sau :
- Công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh chiếm lĩnh thị
trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Một số ngành công nghiệp chế
biến nông, lâm, thủy sản, công nghiệp may mặc, da dày, điện tử, tin học,
một số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng có ưu thế. Hiện nay tỷ trọng của
ngành này chiềm khoảng 80% trong giá trị gia tăng công nghiệp và 76%
trong giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp, 53% trong tổng giá trị xuất khẩu
cả nước .
- Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng: dầu khí luyện
kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng …
- Phát triển mạnh các ngành công nghiệp công nghệ cao nhất là công
nghệ thông tin, viễn thông điện tử, tự động hóa. Công nghiệp điện tử tin
học trở thành nghành mũi nhọn, công nghiệp sản xuất phần mềm tin học
thành ngành kinh tế có tốc độ phát triển vượt trội . Phát triển những ngành
này vừa để đáp ứng nhu cầu hiện đại của nền kinh tế, vừa để tăng nhanh giá
trị xuất khẩu mà nguồn nhân lực nước ta có khả năng vươn lên.

- Phát triển cơ sở quốc phòng cần thiết. Kết hợp công nghiệp công
nghiệp quốc phòng với công nghiệp dân dụng.
- Quy hoạch phân bổ có hiệu qủa các khu công nghiệp, khu chế xuất,
xây dựng các khu công nghệ cao thành cụm khu công nghệ lớn, khu kinh tế
mở đồng thời phát triển rộng các cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ, nhất là
công nghiệp ở nông thôn.
GVHD: PGS.TS. Từ Quang Phương
Nhóm 2
25
Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
Dưới phương hướng phát triển công nghiệp như trên sản xuất công
nghiệp năm 2007 tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, nhất là khu vực
ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Giá trị sản xuất công
nghiệp năm 2007 theo giá so sánh 1994 tăng 17,1% so với năm 2006, bao
gồm khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 10,3% (Trung ương quản lý tăng
13,3%, địa phương quản lý tăng 3%); khu vực ngoài Nhà nước, tăng 20,9%;
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,2%. Nguyên nhân khu vực doanh
nghiệp Nhà nước tăng thấp là do chúng ta đang tiếp tục thực hiện chủ trương
sắp xếp và cổ phần hoá nên số doanh nghiệp khu vực này giảm. Khu vực
ngoài Nhà nước vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong ba khu
vực, chủ yếu do Luật doanh nghiệp mới đã tạo điều kiện cho khu vực kinh tế
tư nhân phát triển.
Công nghiệp chế biến chiếm 87,6% giá trị sản xuất toàn ngành, tăng
19,1%; sản xuất, phân phối điện, ga và nước chiếm tỷ trọng 5,6%, tăng
12,8%; công nghiệp khai thác mỏ chiếm 6,8%, giảm 1,1% so với năm
trước, chủ yếu do khai thác dầu thô giảm.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2007 tăng cao so với năm
2006 là: Máy công cụ tăng 69,8%; ô tô tăng 52,8%; điều hòa nhiệt độ tăng
51,9%; động cơ điện tăng 24,3%; xe máy các loại tăng 23,9%; máy giặt tăng
21,3%; bia tăng 19,2%; quạt điện tăng 18,6%. Bên cạnh đó, có một số sản

phẩm tăng không cao, thậm chí còn bị giảm như: Thủy sản chế biến tăng
12,6%; xi măng tăng 11,8%; than sạch tăng 11,5%; thép cán tăng 10,8%; dầu
thô giảm 7,8%; khí hoá lỏng giảm 10,2%.
Những địa phương có quy mô sản xuất công nghiệp trên địa bàn lớn,
năm nay vẫn đạt tốc độ tăng giá trị sản xuất cao hơn mức tăng chung 17,1%
của toàn ngành như: Vĩnh Phúc tăng 41,4%; Bình Dương tăng 25,3%; Hà
Tây tăng 25,1%; Cần Thơ tăng 23,4%; Đồng Nai tăng 22,4%; Hà Nội tăng
21,4%; Đà Nẵng tăng 19,7%; Hải Phòng tăng 18,2%. Riêng thành phố Hồ
Chí Minh chỉ tăng 13,8% và Bà Rịa-Vũng Tàu giảm 1,2%.
Lĩnh vực nông nghiệp được hỗ trợ đầu tư để thúc đẩy nông nghiệp
phát triển. Để công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, Nhà nước đã điều
chỉnh quy hoạch và nâng cấp hệ thống thủy lợi, chú trọng điện khí hóa, cơ
giới hóa nông thôn, áp dụng các tiến bộ khoa học- kỹ thuật vào sản xuất,
thu hoạch, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp .Vì
thế, giá trị sản xuất của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2007
theo giá so sánh 1994 đạt gần 200 nghìn tỷ đồng, tăng 4,6% so với năm
2006, trong đó nông nghiệp tăng 2,9%; lâm nghiệp tăng 1% và thuỷ sản
tăng 11%. Do ảnh hưởng của mưa bão, lũ ở nhiều địa phương và dịch bệnh
trên cây trồng, vật nuôi; chi phí đầu vào tăng, nhất là chi phí cho chăn nuôi
nên giá trị tăng thêm của khu vực này chỉ tăng 3,41% so với năm trước,
gồm có nông nghiệp tăng 2,34%; lâm nghiệp tăng 1,1% và thủy sản tăng
10,38%. Tình hình sản xuất của các ngành cụ thể như sau:

×