Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo " Về xác định phạm vi những vụ kiện được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.16 KB, 5 trang )



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 43


Ths. Lê Thị Bích Thọ *
ự do thoả thuận là một trong những
nguyên tắc quan trọng trong giao kết
hợp đồng. Điều này có nghĩa là các bên
đợc phép lựa chọn hình thức thích hợp khi
giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, để bảo đảm
an toàn pháp lí trong các giao dịch hợp
đồng giữa các bên cũng nh để bảo vệ trật
tự pháp luật và lợi ích công cộng, đối với
một số loại hợp đồng pháp luật đòi hỏi chủ
thể giao kết hợp đồng phải tuân theo những
hình thức nhất định, nếu không chúng sẽ
vô hiệu. Trong phạm vi bài viết này chúng
tôi trình bày vấn đề hình thức hợp đồng
kinh tế và ảnh hởng của nó đến hiệu lực
của hợp đồng.
1. Hình thức hợp đồng - một trong
các điều kiện hiệu lực hợp đồng
Hình thức của hợp đồng là cách thức
thể hiện ý chí ra bên ngoài dới hình thức
nhất định của các chủ thể hợp đồng. Thông
qua cách thức biểu hiện này, ngời ta có
thể biết đợc nội dung của giao dịch đ
xác lập. Hình thức của hợp đồng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng. Nó


là chứng cứ xác nhận các quan hệ đ, đang
tồn tại giữa các bên, từ đó xác định trách
nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm xảy
ra. Hình thức của hợp đồng có thể là lời
nói, văn bản hoặc các hành vi cụ thể.
Trong trờng hợp pháp luật có quy định
giao dịch phải đợc thể hiện bằng hình
thức văn bản hoặc phải đợc công chứng,
chứng thực, đăng kí, xin phép thì các bên
phải tuân thủ quy định về hình thức khi
giao kết hợp đồng.
Tóm lại, hình thức hợp đồng đợc hiểu
là hình thức thể hiện nội dung của hợp
đồng (cái ghi nhận sự thể hiện ý chí của
các bên) và những thủ tục mà pháp luật
quy định bắt buộc các bên giao kết hợp
đồng phải tuân thủ khi giao kết một số loại
hợp đồng nhất định nh phải có xác nhận
của công chứng, chứng thực, đăng kí hoặc
xin phép
Việc đa ra hình thức bắt buộc đối với
một số loại giao dịch là nhằm mục đích lu
ý các bên thận trọng hơn khi giao kết và
nhằm đảm bảo tính rõ ràng của việc tồn tại
giao dịch dân sự, quyền và nghĩa vụ cũng
nh đặc điểm của quan hệ pháp luật.
Một trong các vấn đề mà các nhà khoa
học pháp lí cũng nh các nhà lập pháp
quan tâm đó là hình thức hợp đồng có ảnh
hởng đến hiệu lực của hợp đồng nh thế

nào. Về vấn đề này pháp luật của các nớc
có những quan điểm và cách tiếp cận khác
nhau.
Với nhiều nớc trên thế giới, trong
T

* Trờng đại học luật thành phố Hồ Chí Minh



nghiên cứu - trao đổi
44 - Tạp chí luật học

trờng hợp pháp luật có quy định bắt buộc
đối với một số hợp đồng phải đợc thể hiện
bằng hình thức nhất định, nếu vi phạm
hình thức luật định, hợp đồng đ giao kết
sẽ vô hiệu. Vi phạm các quy định bắt buộc
về hình thức sẽ ảnh hởng trực tiếp đến
pháp luật và trật tự công. Vì vậy, chừng
nào ý chí thống nhất của các bên cha
đợc thể hiện bằng những hình thức nhất
định theo quy định của pháp luật thì chừng
đó cha có hợp đồng. Pháp luật một số
nớc coi sự vi phạm về hình thức là vi
phạm lợi ích công cộng nên hợp đồng vô
hiệu tuyệt đối. Nh pháp luật của Đức đ
đa ra các đòi hỏi đầu tiên là phải tuân thủ
nghiêm ngặt điều kiện về hình thức để
nhằm bảo vệ những ngời không có kinh

nghiệm đối mặt với những tình huống bất
ngờ cũng nh để hạn chế phơng pháp
chứng cứ. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng
nếu pháp luật quy định hợp đồng phải đợc
thiết lập bởi những hình thức nhất định là
vô hiệu tuyệt đối sẽ tạo nên khoảng cách
nhất định giữa sự thống nhất ý chí thực và
hiệu lực của hợp đồng.
ở một số nớc theo hệ thống luật Anh
- Mỹ (common law) ngời ta quan niệm
hình thức văn bản là bắt buộc đối với các
hợp đồng có giá trị. Ví dụ: ở Anh, úc thì
hợp đồng bắt buộc phải đợc lập thành văn
bản khi hợp đồng có giá trị từ trên 10 bảng
Anh trở lên.
(1)
Quy định này xuất phát từ
hệ thống luật án lệ coi các văn bản hợp
đồng có giá trị bắt buộc và có tính chất nh
luật đối với các bên và đó là căn cứ cơ bản
để cơ quan có thẩm quyền xem xét giải
quyết tranh chấp. Thực tế hợp đồng ở các
nớc này đợc soạn thảo rất chặt chẽ.
ở một số nớc theo hệ thống luật lục
địa (continental law) nh Pháp, Thụy Sĩ
coi tự do kí kết hợp đồng là nguyên tắc cơ
bản. ở các nớc này sự thỏa thuận thể hiện
ý chí chung của các bên đ là đủ điều kiện
để hình thành nên hợp đồng cho dù chúng
đợc thể hiện dới bất cứ hình thức nào.

Nguyên tắc này coi trọng chữ tín, nghĩa
là khi đ cam kết điều gì thì phải thực hiện.
Trên thực tế nó đ giúp loại bỏ các trờng
hợp hợp đồng bị vô hiệu vì có vi phạm về
hình thức.
Do không coi hình thức là điều kiện
xác định hiệu lực của hợp đồng mà pháp
luật Pháp có sự phân biệt giữa giao dịch
không có hiệu lực với giao dịch do không
tuân thủ theo thủ tục nhất định mà trên
thực tế dù hợp đồng có hiệu lực song lại
không thể chứng minh đợc hoặc không đủ
chứng cứ để chứng minh trớc tòa án về sự
tồn tại của hợp đồng khi có tranh chấp.
Tuy nhiên, sự phân biệt giữa giao dịch
không có hiệu lực và giao dịch có hiệu lực
nhng không thể chứng minh đợc trên
thực tế là không lớn bởi nếu giao dịch có
hiệu lực nhng không thể chứng minh
đợc một cách dễ dàng thì rất khó khăn để
xác định sự tồn tại của nó, nó chỉ có thể
đợc xác định khi có sự thừa nhận của các
chủ thể mà thôi. Vì vậy, trên thực tế để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các
chủ thể thờng kí kết hợp đồng bằng văn
bản dù pháp luật có đòi hỏi hay không.
Pháp luật tôn trọng quyền tự do lựa chọn


nghiên cứu - trao đổi

Tạp chí luật học - 45

của các bên giao kết hợp đồng. Ngay cả
đối với một số loại hợp đồng mà pháp luật
đòi hỏi phải tuân thủ hình thức văn bản,
nếu hợp đồng không đợc kí kết bằng văn
bản cũng không bị coi là vô hiệu. Bởi vì, ở
Pháp, các quy định đòi hỏi hình thức nhằm
hớng tới vấn đề chứng cứ hơn là hiệu lực
của hợp đồng. Việc không tuân thủ hình
thức sẽ không làm mất hiệu lực của giao
dịch mà chỉ làm cho việc chứng minh nó
khó khăn hơn, bởi trong những trờng hợp
nh vậy, các bên không đợc đa ra nhân
chứng để chứng minh.
(2)

Hệ thống pháp luật của Đức lại hoàn
toàn khác. Mặc dù, hình thức của giao dịch
cũng có chức năng chứng cứ nhng vi
phạm điều kiện về hình thức sẽ đa đến sự
vô hiệu của hợp đồng. Sự giải thích duy
nhất đối với việc trói buộc một chế tài
mạnh nh vậy là do nhà làm luật quan tâm
tới việc bảo vệ các bên trớc những tình
huống bất ngờ. Do đó, Đức đ đa vào
phần chung của Bộ luật dân sự nguyên tắc
giao dịch pháp luật không đợc thực hiện
bằng hình thức hợp pháp, trên nguyên tắc
bị vô hiệu hoặc không có giá trị.

(3)
Điều
này đợc lí giải là các đòi hỏi hình thức
đợc dự liệu trớc tiên để bảo vệ những
ngời không có kinh nghiệm trớc sự bất
ngờ cũng nh hạn chế phơng pháp chứng
cứ. Pháp luật dân sự Việt Nam cũng có cách
tiếp cận nh vậy về hình thức hợp đồng.
Tuy có những quan điểm khác nhau về
ảnh hởng của hình thức đến hiệu lực của
hợp đồng nói chung song tất cả các hệ
thống đều nhìn nhận sự cần thiết phải bảo
vệ đối với giao dịch bảo đảm. Do đó, tất cả
các hệ thống luật đều đa ra các đòi hỏi về
hình thức đối với giao dịch bảo đảm. Đối
với giao dịch loại này không những pháp
luật yêu cầu phải thể hiện bằng văn bản mà
còn đòi hỏi phải có xác nhận của cơ quan
có thẩm quyền nh phải có xác nhận của
công chứng hoặc cơ quan nhà nớc có
thẩm quyền. Thậm chí ở một số nớc còn
đòi hỏi phải đợc viết bằng tay.
Đối với các giao dịch thơng mại,
khuynh hớng của các nớc thuộc hệ
thống luật châu âu là hớng tới sự không
bắt buộc về hình thức. Khuynh hớng này
đ đợc thể hiện rất rõ trong nguyên tắc
hợp đồng thơng mại quốc tế, theo đó
không có sự bắt buộc về hình thức của
hợp đồng.

(4)

Ngợc lại, ở mỹ, Bộ luật thơng mại
đòi hỏi hợp đồng mua bán hàng hoá phải
thể hiện bằng văn bản nếu giá cả vợt
quá con số xác định và hớng tới mục
đích tất cả các giao dịch đợc thể hiện
bằng văn bản.
(5)

Nh vậy, không có hệ thống pháp luật
nào có thể miễn trừ hoàn toàn các đòi hỏi
về hình thức. Song việc có thừa nhận hình
thức là điều kiện hiệu lực của hợp đồng
hay không lại phụ thuộc cách tiếp cận vấn
đề của pháp luật từng nớc.
2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn
áp dụng vấn đề này ở Việt Nam
Khoa học pháp lí cũng nh pháp luật
thực định ở Việt Nam đề cập hình thức của
hợp đồng khác nhau trong các lĩnh vực dân
sự, kinh tế, thơng mại. Bộ luật dân sự
thừa nhận việc tự do lựa chọn hình thức


nghiên cứu - trao đổi
46 - Tạp chí luật học

giao kết hợp đồng trừ trờng hợp pháp luật
có quy định về hình thức cụ thể đối với

một số loại hợp đồng dân sự. Trong trờng
hợp này, nếu vi phạm quy định pháp luật
về hình thức, hợp đồng sẽ vô hiệu. Luật
thơng mại lại có quy định tơng đối
thoáng đối với hình thức hợp đồng, đó là
hợp đồng có thể thực hiện bằng lời nói,
bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể
(6)

và không đa ra bất cứ yêu cầu bắt buộc
nào về hình thức. Trong khi đó pháp luật
về hợp đồng kinh tế lại đa ra quy định về
hình thức khá chặt chẽ. Theo quy định của
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì hợp đồng
kinh tế phải đợc thể hiện bằng hình thức
văn bản hoặc tài liệu giao dịch. Văn bản ở
đây đợc hiểu là bản hợp đồng và tài liệu
giao dịch bao gồm đơn đặt hàng, đơn chào
hàng, công văn, điện báo. Từ thực tiễn giải
quyết tranh chấp về hợp đồng kinh tế, Tòa
án nhân dân tối cao hớng dẫn mở rộng
thêm hình thức của hợp đồng kinh tế là
fax. Trong khi quan điểm chung thể hiện
trong cả Bộ luật dân sự và Luật thơng mại
đều là không hạn chế hình thức của hợp
đồng (trừ một số loại hợp đồng đòi hỏi
phải đợc kí kết bằng văn bản hoặc phải
tuân thủ một số thủ tục nhất định theo các
quy định cụ thể của pháp luật). Tuy nhiên,
dù quy định theo cách nào thì hình thức

của hợp đồng kinh tế cũng vẫn chỉ đợc
giới hạn bởi các tài liệu viết.
Bộ luật dân sự Việt Nam coi hình thức
là một trong các điều kiện hiệu lực của hợp
đồng. Trong trờng hợp vi phạm hình thức
theo quy định của pháp luật sẽ đa đến sự
vô hiệu của hợp đồng. Pháp lệnh hợp đồng
kinh tế lại có cách tiếp cận khác. Hình thức
của hợp đồng kinh tế tuy bị hạn chế bởi
pháp luật song lại không đợc xác định là
điều kiện hiệu lực của hợp đồng mà đợc
coi là đặc trng của hợp đồng kinh tế. Nếu
nội dung của hợp đồng không đợc thể
hiện bằng hình thức mà pháp luật quy
định (văn bản, tài liệu giao dịch) thì
giao dịch đó không đợc xác định là hợp
đồng kinh tế.
Với cách tiếp cận của Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế về hình thức hợp đồng sẽ nảy
sinh một số vấn đề cần đợc xem xét nh
sau: Một là, dù đợc kí kết dới bất cứ
hình thức nào (văn bản, tài liệu giao dịch
hay telex, th điện tử ) thì chúng cũng đều
là văn bản. Quy định nh trên mới chỉ
quan tâm đến một khía cạnh của vấn đề là
để bảo vệ những chủ thể không có kinh
nghiệm trớc sự bất ngờ song lại cha
quan tâm đến đặc trng của các quan hệ
kinh tế, đó là tính thờng xuyên, ổn định,
nhanh chóng và hiệu quả nên cần đợc thể

hiện linh hoạt dới những hình thức linh
hoạt, trừ một số loại hợp đồng cụ thể. Hơn
nữa, việc giới hạn hình thức của hợp đồng
kinh tế chỉ ở văn bản, tài liệu giao dịch đ
tạo nên sự không thống nhất của pháp luật
về hình thức hợp đồng trong các lĩnh vực
dân sự, kinh tế - thơng mại. Vì vậy,
không nhất thiết phải giới hạn hình thức
của hợp đồng kinh tế chỉ ở các tài liệu viết.
Hai là, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế khi quy
định về hình thức của hợp đồng mới chỉ đề
cập hình thức thể hiện nội dung hợp đồng
mà cha quan tâm đến các yêu cầu về mặt
thủ tục khi giao kết hợp đồng nh công
chứng, chứng thực đăng kí hoặc cho phép.


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 47

Về vấn đề này Bộ luật dân sự có cách tiếp
cận hợp lí hơn. Theo Bộ luật dân sự thì
hình thức của hợp đồng không chỉ dừng ở
các hình thức thể hiện hợp đồng nh cách
hiểu của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế mà
còn thể hiện bằng việc chứng nhận của
công chứng nhà nớc, đăng kí, chứng thực
của cơ quan có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật. Đối với các trờng hợp này
nếu pháp luật quy định bắt buộc thì hợp

đồng vô hiệu. Ba là, Pháp lệnh hợp đồng
kinh tế cha làm rõ đợc hình thức của hợp
đồng là điều kiện xác định hiệu lực của
hợp đồng hay là đặc trng của hợp đồng
kinh tế. Theo cách tiếp cận của Điều 1
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì có thể hiểu
hình thức hợp đồng kinh tế đợc coi là một
trong các đặc trng của hợp đồng kinh tế,
mọi thỏa thuận bằng miệng dù mang đầy
đủ tính chất của hợp đồng kinh tế cũng
không đợc xem là hợp đồng kinh tế.
Chính cách tiếp cận nh trên của Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế đ đa đến bất hợp lí, đó
là giao dịch có bản chất của giao dịch kinh
tế song vì không đảm bảo yêu cầu về mặt
hình thức đ trở thành quan hệ dân sự. Bốn
là, trờng hợp các bên giao kết hợp đồng
không tuân thủ điều kiện về hình thức, vẫn
tiếp tục thực hiện thỏa thuận và thừa nhận
sự thoả thuận thì giải quyết ra sao? Trong
trờng hợp này pháp luật có thừa nhận sự
thỏa thuận của các bên không? Đây là
vấn đề mà Pháp lệnh hợp đồng kinh tế
còn bỏ ngỏ.
Để kết thúc bài viết của mình, chúng
tôi có một số đề xuất sau:
Một là, cần có cái nhìn thoáng hơn
và thống nhất trong quy định về hình thức
hợp đồng kinh tế với quy định của Bộ luật
dân sự và Luật thơng mại

Hai là, cần có quy định về hình thức
hợp đồng kinh tế đầy đủ hơn và phân biệt rõ
hai hình thức hợp đồng, đó là hình thức thể
hiện nội dung hợp đồng và thủ tục mà ngời
kí phải tuân thủ để từ đó xác định hậu quả
đối với chúng. Đối với trờng hợp thứ nhất
hợp đồng có thể vô hiệu song ở trờng hợp
thứ hai hợp đồng vô hiệu tuyệt đối.
Ba là, cần xác định rõ hình thức hợp đồng
kinh tế là một trong các điều kiện xác định
hiệu lực của hợp đồng kinh tế chứ không phải
là đặc trng của hợp đồng kinh tế so với các
loại hợp đồng khác (hợp đồng dân sự, hợp
đồng trong hoạt động thơng mại).
Bốn là, cần quy định thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng trong trờng hợp hình
thức hợp đồng đợc khắc phục.
Năm là, về kĩ thuật lập pháp cần có sự
thay đổi trong cách thể hiện các quy định
về hình thức hợp đồng theo hớng chung
chứ không theo cách quy định chi tiết, liệt
kê các hình thức cụ thể của hợp đồng nh
quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế,
quy định nh trên vừa thiếu bao quát, gò
bó, vừa không mang tính dự báo. Theo
chúng tôi vấn đề này Bộ luật dân sự và
Luật thơng mại có cách tiếp cận thích hợp
hơn để có thể tham khảo./.

(1). Sales of goods act 1876.

(2).Xem: Điều 1341 Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp.
(3).Xem: Điều 125 Bộ luật dân sự Cộng hòa Liên
bang Đức.
(4).Xem: Điều 1.2, Unidroit, Nguyên tắc hợp đồng
thơng mại Quốc tế, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh
1999.
(5). Zweigert, Comparative Law.
(6).Xem: Khoản 2, Điều 49 Luật thơng mại.

×