Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.5 KB, 77 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2004, Bộ luật tố tụng dân sự đầu tiên ra đời đã đánh dấu một bước
chuyển lớn trong lịch sử pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, khẳng định sự nỗ
lực của Việt Nam trong việc đổi mới, hội nhập. Với hệ thống những nguyên tắc
cơ bản trong hoạt động tố tụng; trình tự, thủ tục khởi kiện, xét xử; sự tham gia tố
tụng dân sự của các chủ thể…được BLTTDS quy định đều nhằm mục đích giải
quyết các vụ việc dân sự được chính xác, công bằng và đúng pháp luật. Nhưng
hoạt động xét xử là hoạt động của thẩm phán, là hoạt động của những con người
cụ thể nên không tránh khỏi sai sót khiến những phán quyết của Toà án không
đúng với sự thật khách quan hoặc trái pháp luật. Những sai sót này có thể xuất
phát từ yếu tố chủ quan hoặc yếu tố khách quan nên dẫn đến việc có những bản
án, quyết định dân sự đã trải qua hai cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, thậm chí
qua nhiều vòng xét xử lặp đi, lặp lại mà vẫn không đúng pháp luật. Do đó, để
khắc phục và sửa chữa những sai lầm, thiếu sót đó cần có một thủ tục xét lại bản
án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật.
Hiện nay, tình hình khiếu nại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực
pháp luật của người dân đang tăng. Công tác giải quyết đơn khiếu nại của Toà án
các cấp cũng gặp nhiều vấn đề phức tạp, quá tải; nhiều vụ án kéo dài nên chưa
đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và gây dư luận bức xúc.
Hơn nữa, sau hơn 5 năm thi hành BLTTDS đã cho thấy một số quy định
về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế như: vấn
đề khiếu nại, phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực mà có sai sót; thẩm
quyền giám đốc thẩm, tái thẩm; quyền hạn của Hội đồng giám đốc thẩm, tái
thẩm…Chính những quy định chưa rõ ràng và đầy đủ trong BLTTDS đã gây ra
những vướng mắc và giảm hiệu quả công tác xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của ngành Toà án.
1
Mặt khác, xuất phát từ yêu cầu của Cải cách Tư pháp, Bộ Chính trị đã ban
hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược Cải cách Tư
pháp đến năm 2020” nhằm “cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo


hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ” và “hoàn thiện các
thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch,
tôn trọng và bảo vệ quyền con người” đòi hỏi các nhà lập pháp phải nghiên cứu
sửa đổi, hoàn thiện các quy định về thủ tục còn chưa rõ ràng dẫn tới những cách
hiểu và áp dụng không thống nhất trên thực tế.
Vì những lý dó trên, học viên đã chọn đề tài “ Thủ tục xét lại bản án,
quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành” làm nội dung nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài, trước đó đã có một số công trình nghiên cứu đến vấn
đề này, hoặc có liên quan sau:
- Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam của Ngô Anh Dũng, Luận văn thạc sỹ Luật
học năm 1996. Đề tài này đã nghiên cứu thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự
đã có hiệu lực pháp luật theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và
đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện thủ tục xét lại bản án, quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, luận văn được thực hiện từ
năm 1996, khi BLTTDS năm 2004 chưa ra đời.
- Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân
sự, của Dương Thị Thanh Mai, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2000. Trong tác
phẩm này, tác giả đã giải quyết một số vấn đề như: khái niệm, sự hình thành thủ
tục giám đốc thẩm, thực trạng giải quyết án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm
và đưa ra một số kiến nghị như: quy định theo hướng cấp xét xử cao nhất theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là Uỷ ban thẩm phán TANDTC, còn Hội đồng
thẩm phán TANDTC là cơ quan tổng kết và hướng dẫn việc xét xử. Tuy nhiên,
2
tác phẩm được viết trên cơ sở của PL TTGQCVADS nên nhiều vấn đề tác giả đề
cập đã được giải quyết khi BLTTDS ra đời.
- Thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam do Tiến sĩ Trần
Văn Trung làm chủ nhiệm đề tài, Đề tài khoa học cấp bộ của Viện khoa học

kiểm sát- Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 2003. Đây là đề tài nghiên cứu
chuyên sâu về giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự trong bối cảnh chưa có
BLTTDS.
- Mố số suy nghĩ về cơ chế xét xử vụ án dân sự, của tiến sĩ Lê Thu Hà, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia năm 2003. Tác giả đã nghiên cứu tổng thể các cấp
xét xử của Toà án các cấp bao gồm: sơ thẩm, phúc thẩm và thủ tục xét lại bản án,
quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu
của đề tài rộng nên tác giả chưa đưa ra các giải pháp toàn diện đối với thủ tục
giám đốc thẩm và tái thẩm.
- Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Viết Nam, của Đào Xuân Tiến, Luận án tiến sĩ
Luật học năm 2009. Tác giả đã đưa ra khái niệm về thủ tục xét lại bản án, quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự, phân tích
pháp luật tố tụng kinh tế, dân sự và thực trạng áp dụng thủ tục xét lại bản án,
quyết định về kinh tế, dân sự của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Đồng thời,
luận án cũng đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện thủ tục xét lại bản án,
quyết định về kinh tế, dân sự của Toà án như: tổ chức bộ phận giúp việc Hội
đồng thẩm phán TANDTC; thống nhất thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái
thẩm…Tuy nhiên, các kiến nghị mà tác giả đưa ra chưa mang tính giải pháp tổng
thể mà chủ yếu là một số kiến nghị mang tính chất hình thức, thủ tục.
- Giám đốc thẩm dân sự- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Mai Ngọc
Dương, Luận án tiến sĩ Luật học năm 2010. Luận án giải quyết một số vấn đề lý
luận về giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự như: bản chất, khái niệm, đặc điểm
pháp lý, ý nghĩa của giám đốc thẩm và nêu lên thực trạng công tác giám đốc
3
thẩm của ngành Toà án. Từ đó, tác giả đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật tố tụng dân sự về phần quy định giám đốc thẩm. Tuy nhiên, luận án
chưa đưa ra được sự so sánh giữa thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu, các bài viết đăng trên các tạp
chí của các tác giả như: Nguyễn Quang Lộc, Nguyễn Quang Tiến, Trần Anh

Tuấn, Đinh Văn Quế… được đăng trên các tạp chí Toà án nhân dân, Nhà nước
và pháp luật, tạp chí Luật học.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu hệ thống những quy định
của pháp luật về thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp
luật theo BLTTDS, nhận diện những mặt tích cực, những mặt tồn tại trong thực
tiễn công tác xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của ngành
TAND nhằm hoàn thiệp các quy định của pháp luật về thủ tục này.
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết
những vấn đề cụ thể sau:
- Giải quyết một số vấn đề lý luận về thủ tục xét lại bản án, quyết định dân
sự đã có hiệu lực pháp luật như: khái niệm, đặc điểm pháp lý, ý nghĩa, quá trình
hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thủ tục xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
- Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật về thủ tục xét lại bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, trong đó phân tích những điểm giống và
khác nhau giữa giám đốc thẩm với tái thẩm, những mặt hạn chế, tồn tại trong
thực tiễn áp dụng của ngành TAND.
Để có thể hướng tới mục đích trên, luận văn nghiên cứu trong phạm vi các
quy định trong BLTTDS 2004 về thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có
hiệu lực pháp luật; Thực tiễn công tác giám đốc thẩm, tái thẩm trên cả nước từ
năm 2004 đến 2010 của ngành Toà án và đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật tố tụng dân sự về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
4
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
Triết học Mác- Lênin về Nhà nước pháp quyền; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật; học việc cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
khác như: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp đối chiếu so sánh,
phương pháp thống kê và phương pháp lịch sử.

5. Những đóng góp của luận văn
Luận văn đã tập trung nghiên cứu làm rõ bản chất của thủ tục xét lại bản
án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật, trong đó có các vấn đề như: khái
niệm, đặc điểm pháp lý, ý nghĩa pháp lý. Trong luận văn, chúng tôi đã đưa ra
khái niệm mới về thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp
luật, cũng như khái niệm về giám đốc thẩm dân sự, tái thẩm dân sự. Luận văn
cũng giúp người đọc hình dung được thực tiễn công tác giám đốc thẩm, tái thẩm
của ngành Toà án trong những năm qua, những mặt còn tồn tại, nguyên nhân
và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giám đốc
thẩm, tái thẩm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC XÉT LẠI BẢN ÁN, QUYẾT
ĐỊNH DÂN SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu
lực pháp luật
Theo thuyết tam quyền phân lập của Montesquiơ thì trong Nhà nước có ba
loại quyền lực: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; ba quyền
này được trao cho ba hệ thống cơ quan tương ứng là: cơ quan lập pháp, cơ quan
hành pháp và cơ quan tư pháp. Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều quốc gia tổ
chức bộ máy nhà nước theo mô hình này. Trong đó quyền tư pháp được trao cho
hệ thống toà án.
Có thể nói, Toà án có vị trí và vai trò đặc biệt, là biểu hiện tập trung nhất
của quyền tư pháp vì Toà án thực hiện chức năng xét xử, nơi mà kết quả của hoạt
động điều tra, công tố, bào chữa được kiểm tra, xem xét một cách công khai
thông qua thủ tục tố tụng luật định để đưa ra những phán quyết có tính chất

quyền lực nhà nước, phản ánh đầy đủ, sâu sắc nhất chính sách pháp luật của một
quốc gia.
Toà án là cơ cơ quan xét xử của Nhà nước. Hoạt động xét xử của Toà án
là “hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán
quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết định
pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác
nhau”[31, tr.264].
Khi tiến hành xét xử, với tư cách là chủ thể áp dụng pháp luật, Toà án
không được xét xử tuỳ tiện mà phải dựa trên cơ sở những quy định của pháp
luật, cả về luật nội dung và luật tố tụng nên hoạt động xét xử của Toà án đòi hỏi
sự vô tư, khách quan, công minh và đúng pháp luật. Khi xét xử, Toà án là chủ
thể có quyền xem xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật của các chủ thể khác, ra
bản án, quyết định phán xét hành vi của các chủ thể đó. Các bản án và quyết định
6
này được Toà án tuyên nhân danh Nhà nước, thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà
nước đối với vụ án, quyết định những vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền
lợi, nghĩa vụ của công dân và những chủ thể khác. Các bản án, quyết định của
Toà án có hiệu lực pháp luật là phán quyết cuối cùng. Vì vậy, hoạt động xét xử
cũng như việc ra phán quyết của Toà án có vai trò vô cùng quan trọng và đòi hỏi
tuân thủ pháp luật một cách chặt chẽ trong một trình tự tố tụng hợp lý.
Hiện nay, để đảm bảo tính chính xác trong hoạt động xét xử, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ổn định trật tự xã hội thì đa số các nước
trên thế giới đều thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Theo nguyên tắc này, pháp
luật các nước quy định sau khi xét xử sơ thẩm, bản án, quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật và chưa được đưa ra thi hành. Các bên đương sự có quyền
kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị để xem xét lại theo thủ tục phúc
thẩm. Toà án cấp trên sẽ xem xét cả về tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản
án, quyết định sơ thẩm đồng thời xét xử lại vụ án về nội dung. Như vậy, ngoài
chức năng xét xử, phúc thẩm cũng là một hình thức kiểm tra việc xét xử của
ngành Toà án. Bằng việc quy định nguyên tắc hai hoặc ba cấp xét xử đều nhằm

mục đích đảm bảo cho việc xét xử được đúng pháp luật, khắc phục được những
sai lầm trong việc xét xử.
Mặc dù đã có cơ chế để đảm bảo tình hợp pháp của các bản án hoặc quyết
định trước khi có hiệu lực pháp luật thông qua thủ tục phúc thẩm nhưng những
bản án hoặc quyết định này vẫn có thể không hợp pháp. Thực tiễn xét xử của
ngành Toà án đã chứng minh một thực tế rằng: không phải vụ án nào Toà án
cũng xử đúng, công bằng; kể cả những vụ án đã qua hai cấp xét xử tức là xét xử
cả sơ thẩm, phúc thẩm và đã có hiệu lực nhưng vẫn có những sai sót. Nguyên
nhân có thể do lý do khách quan như cả cơ quan xét xử và đương sự đều không
thể biết được những tình tiết phát sinh làm thay đổi nội dung vụ án, hoặc vì
những lý do chủ quan, sự cố tình làm trái quy định pháp luật của cơ quan xét xử,
những tiêu cực khi xét xử hoặc do trình độ thẩm phán còn hạn chế…Nếu một
bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nói chung hay bản án,
7
quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật nói riêng khi có những sai lầm mà
vẫn được thi hành thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự. Do đó, cần có một cơ chế để kiểm tra, giám đốc việc xét xử của
Toà án để nhằm phát hiện những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
song có sai lầm.
Hiện nay, pháp luật tố tụng của các quốc gia trên thế giới quy định cũng
rất khác nhau về vấn đề xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật. Có những quốc gia không đặt vấn đề xem xét lại các bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật như Philippines; có một số nước trước đây có quy định
nhưng hiện tại đã bỏ như Tây úc; một số nước vẫn duy trì thủ tục này trong các
luật tố tụng như: các nước theo hệ thống pháp luật Civil law, Trung Quốc, Việt
Nam. Việc có quy định thủ tục xét lại bản án, quyết định có hiệu lực hay không
cũng ảnh hưởng trực tiếp tới mô hình tổ chức hệ thống Toà án của các nước.
Nhiều quốc gia đặt thêm một Toà án ở trên Toà thượng thẩm có nhiệm vụ xem
xét những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới đã xử
đúng hay sai.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật như thế nào để đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan Nhà
nước, của các tổ chức và cá nhân bị xâm phạm. Không phải bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật nào cũng trở thành đối tượng của việc xét lại này mà chỉ
khi có những căn cứ nhất định do pháp luật tố tụng của quốc gia đó quy định thì
mới phát sinh thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật. Hơn nữa, để ổn định các mối quan hệ xã hội, pháp luật Việt Nam cũng như
pháp luật các nước quy định rất chặt chẽ về thủ tục xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật
Từ những điều phân tích trên, chúng ta có thể hiểu: Thủ tục xét lại bản án,
quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật là thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự
do Toà án có thẩm quyền thực hiện để xét lại bản án, quyết định của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật khi có những căn cứ kháng nghị do pháp luật quy định.
8
Từ quan niệm trên, có thể thấy rằng:
- Thứ nhất: Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật là một thủ tục tố tụng đặc biệt.
Pháp luật nước ta quy định nguyên tắc hai cấp xét xử mà thủ tục xét lại
bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật không phải là một
cấp xét xử nên nó là một thủ tục tố tụng mang tính đặc biệt khác với thủ tục
sơ thẩm, phúc thẩm.
Tính chất của thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật là “xét lại” khác với “xét xử” trong thủ tục sơ thẩm hay “xét xử lại”
trong thủ tục phúc thẩm.
Đối tượng của việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là
“bản án, quyết định” của Toà án mà không phải là vụ án. Đây cũng là điểm khác
biệt so với đối tượng xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Theo quy định của
pháp luật, đối tượng xét xử sơ thẩm là các vụ án dân sự. Trong đó, ở các giai
đoạn xét xử sơ thẩm, dựa trên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu
cầu độc lập của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Toà án chỉ xét xử

trong phạm vi yêu cầu đó trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Còn đối
tượng xét xử phúc thẩm là các vụ án dân sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Còn việc xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật không hướng tới đối tượng xét xử là vụ án dân sự
mà chỉ xem xét các bản án, quyết định của Toà án. Đây là một đặc điểm quan
trọng thể hiện thủ tục này không phải là cấp xét xử thứ ba mà là một thủ tục
đặc biệt.
Bên cạnh đó, đối tượng của thủ tục này là bản án, quyết định của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật. Theo quy định của pháp luật, các bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật phải được thi hành trên thực tế. Tuy nhiên, có nhiều trường
hợp bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bản án, quyết định đó có
những vi phạm pháp luật nghiêm trọng dẫn tới không đảm bảo được quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, không bảo đảm công bằng xã hội. Vì vậy, thủ tục
9
này đặt ra để giúp Toà án sửa chữa chính những sai lầm đó. Đây là một thủ tục
đặc biệt trong tố tụng tư pháp.
- Thứ hai, thủ tục đặc biệt để xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật không phải là một cấp xét xử.
Cấp xét xử là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện quan điểm của Nhà nước
về việc xét xử các vụ án nhằm đảm bảo tính chính xác, khách quan trong phán
quyết của Toà án, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân. Các quốc gia khác
nhau thì quy định khác nhau, có thể quy định nguyên tắc hai cấp xét xử hoặc ba
cấp xét xử. Cấp xét xử không chỉ quy định đơn thuần về thủ tục tố tụng mà
còn liên quan đến cách thức tổ chức tố tụng và tổ chức hệ thống Toà án để
thực hiện việc xét xử lại vụ án.
Ở nước ta, ngay từ Luật tổ chức TAND đầu tiên năm 1960 đã quy định
Toà án thực hành chế độ hai cấp xét xử đó là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm.
Song song với việc quy định nguyên tắc hai cấp xét xử, luật cũng quy định thẩm
quyền của Toà án các cấp trong việc xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Cấp xét xử sơ
thẩm và phúc thẩm phải đảm bảo các thủ tục tố tụng do pháp luật quy định: đảm

bảo đầy đủ các cơ sở pháp lý và tổ chức xét xử sơ thẩm vụ án một cách khách
quan, toàn diện, chính xác, mọi vấn đề đều được cấp sơ thẩm giải quyết; đảm
bảo tối đa quyền kháng cáo của đương sự…Phúc thẩm là một cấp xét xử vì chỉ
có Toà án cấp trên trực tiếp mới có thẩm quyền xét xử phúc thẩm đối với những
vụ án bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định. Phiên toà phúc thẩm
được tổ chức giống như phiên toà sơ thẩm. Trong khi đó, thủ tục xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật chỉ được tiến hành khi có kháng nghị của
những người có thẩm quyền. Như hiện nay thì TANDTC có thẩm quyền xét xử
phúc thẩm, và cả thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm chính những bản án, quyết
định đã xét xử phúc thẩm đó.
Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhằm khắc
phục, sửa chữa những sai sót trong những phán quyết của Tòa án nên nó được
coi là cơ chế tự kiểm tra của bản thân nội bộ hệ thống tư pháp.
10
Tại các quốc gia có quy định về thủ tục xét lại các bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật có những cách phân chia khác nhau trong thủ tục này:
- Có quốc gia quy định chỉ có một thủ tục để xét lại đối với bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật kể cả vấn đề áp dụng pháp luật và cả vấn đề
tình tiết mới như Mỹ, hay Đức [18].
- Một số nước phân biệt thành hai thủ tục khác nhau: thủ tục xét lại các
bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có vi phạm pháp luật trong
việc xử lý vụ án và thủ tục xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật khi phát hiện tình tiết mới như Pháp [20], Nhật Bản [40], Hàn Quốc [18].
- Có nước chỉ quy định thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật khi có vi phạm pháp luật trong xét xử mà không có thủ tục xét lại khi
có tình tiết mới như Đan Mạch. Ngược lại, có nước chỉ xét lại bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật khi xuất hiện tình tiết mới như Na Uy [17].
Tại các quốc gia có quy định về thủ tục xét lại các bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật khi có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án thì tên
gọi thủ tục này cũng khác nhau. Có nước dùng thuật ngữ giám đốc thẩm do thủ

tục này là một hình thức giám sát và đôn đốc của Toà án cấp trên với Toà án cấp
dưới, có nước dùng thuật ngữ kháng án đặc biệt do hình thức kháng án để làm
phát sinh thủ tục này không phải là hình thức kháng án thông thường [19].
Ở Việt Nam, thủ tục xét lại bản án quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật bao gồm hai thủ tục: thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
1.1.2. Khái niệm giám đốc thẩm dân sự
Có nhiều quan niệm “Giám đốc thẩm”: dưới góc độ ngôn ngữ học, theo
Từ điển Pháp- Việt “cassation” là danh từ có nghĩa là “sự phá án” [47]; theo từ
điển Anh- Việt “cassation” cũng là danh từ có nghĩa là “sự huỷ bỏ” [48]; theo Từ
điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì không có giải nghĩa về cụm từ
“giám đốc thẩm” mà phải ghép “giám đốc” là “đôn đốc và giám sát” với
“thẩm” là “xét kỹ” [46].
11
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, các tác giả đã đưa ra những khái niệm
khác nhau về giám đốc thẩm:
Quan điểm thứ nhất: “Giám đốc thẩm dân sự là một giai đoạn tố tụng có
mục đích kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật” [49, tr.288]. Quan điểm này nhìn nhận giám đốc
thẩm là một giai đoạn tố tụng, cho rằng giám đốc thẩm là thủ tục để kiểm tra tính
hợp hiến, hợp pháp của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà
án. Quan điểm này không đề cập đến việc kháng nghị giám đốc thẩm như là một
căn cứ của giám đốc thẩm.
Quan điểm thứ hai: “Thủ tục giám đốc thẩm là một trình tự đặc biệt của
tố tụng tư pháp nhằm xét lại những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị vì có vi phạm ở mức độ nghiêm trọng trong việc giải quyết
vụ án” [8]. Quan điểm này nhìn nhận giám đốc thẩm như là một trình tự của tố
tụng tư pháp, cho rằng căn cứ của giám đốc thẩm là kháng nghị. Tuy nhiên điều
này cũng không hoàn toàn đúng. Vì kháng nghị giám đốc thẩm chỉ là sự biểu
hiện về mặt hình thức, thủ tục nên có có thể có quy định khác nhau ở các nước.
Thực tế rất ít nước quy định kháng nghị của người có thẩm quyền là căn cứ của

giám đốc thẩm, các nước như Cộng hoà Pháp, Nhật Bản, Trung Hoa đều quy
định việc kháng cáo giám đốc thẩm của đương sự là căn cứ để xét lại bản án,
quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm [19].
Quan điểm thứ ba: “Giám đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có sai lầm của
Toà án khi nhận định về những tình tiết, sự kiện của vụ án hoặc có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án” [10]. Quan điểm này cho rằng,
bên cạnh căn cứ vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án thì
những sai lầm của Toà án khi nhận định về những tình tiết, sự kiện của vụ án
cũng là căn cứ của kháng nghị giám đốc thẩm.
Quan điểm thứ tư: Theo Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của
trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra khái niệm: “Giám đốc thẩm dân sự là việc
12
xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án bị kháng nghị do
phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án” [30].
Với khái niệm trên thì đối tượng của việc xét lại theo trình tự giám đốc
thẩm là bất kỳ bản án, quyết định dân sự nào đã có hiệu lực pháp luật mà phát
hiện có sai lầm tức là có vi phạm pháp luật thì vụ án cần được xem xét lại để bảo
đảm việc xử lý vụ án được chính xác. Nên giám đốc thẩm là một thủ tục tố tụng
đặc biệt. Theo quy định của pháp luật, khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu
lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân tôn trọng, các
bên đương sự phải có nghĩa vụ. Cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành
bản án, quyết định của Toà án cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về nhiệm vụ thi hành đó. Do vậy, chỉ khi nào phát hiện có
vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án thì bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật mới được xem xét lại. Việc xem xét này chỉ được tiến hành khi có
kháng nghị của những người có thẩm quyền do pháp luật TTDS quy định.
Những sai lầm nghiêm trọng của Toà án đã ra bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật chính là những căn cứ để những người có thẩm quyền kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm.

Theo chúng tôi, để nhận diện được đầy đủ bản chất của giám đốc thẩm
dân sự thì cần làm sáng tỏ các vấn đề sau (đây cũng là những vấn đề tồn tại trong
thủ tục tái thẩm):
- Đối tượng của giám đốc thẩm
Đối tượng giám đốc thẩm dân sự là bản án hoặc quyết định của Toà án mà
không phải là các vụ án. Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm không xem xét,
đánh giá, kết luận những vấn đề, nội dung vụ án vì đó thuộc thẩm quyền của các
cấp xét xử sở thẩm và phúc thẩm. Đặc điểm này chỉ ra giám đốc thẩm không
phải là cấp xét xử thứ ba.
Những bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật thì không
bao giờ là đối tượng của giám đốc thẩm. Đây là điểm khác biệt giữa thủ tục giám
đốc thẩm với thủ tục phúc thẩm. Đối tượng của phúc thẩm là những bản án,
13
quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật. Đối tượng giám đốc thẩm là các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà theo đánh giá của người có thẩm
quyền kháng nghị phải có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
- Mục đích của giám đốc thẩm
Mục đích của giám đốc thẩm là nhằm đảm bảo hoạt động xét xử của Toà
án đúng pháp luật, đảm bảo tính hợp pháp của các bản án, quyết định của Toà
án, đảm bảo pháp chế trong hoạt động xét xử. Giám đốc thẩm là một hình thức
kiểm tra, giám đốc xét xử đặc biệt của Toà án. Về thực chất, Toà án có thẩm
quyền giám đốc thẩm không xử lại vụ việc mà chỉ đối chiếu bản án, quyết định
với quy định của pháp luật xem có phù hợp hay không.
- Cơ sở làm phát sinh giám đốc thẩm
Cơ sở pháp lý làm phát sinh thủ tục giám đốc thẩm là kháng nghị giám
đốc thẩm. Theo Luật TTDS Việt Nam thì cơ sở làm phát sinh thủ tục giám đốc
thẩm chỉ có kháng nghị của những người có thẩm quyền, mà không có kháng cáo
của đương sự. Do tính chất đặc biệt của giám đốc thẩm nên kháng nghị giám đốc
thẩm cũng khác với các loại kháng nghị khác là: kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm hay kháng nghị tái thẩm.

- Thẩm quyền giám đốc thẩm
Do đối tượng xét lại của giám đốc thẩm là các bản án hoặc quyết định đã
có hiệu lực pháp luật nên việc xét lại phải hết sức thận trọng. Nên việc tập trung
thẩm quyền giám đốc thẩm vào một cấp Toà án sẽ thể hiện được tính quyền lực
tối cao của Toà án cấp cao trong việc giám đốc hoạt động xét xử. Mặt khác việc
tập trung thẩm quyền giám đốc thẩm vào một cấp Toà án làm cho việc giám đốc
thẩm được hiệu quả hơn, đảm bảo tính thống nhất cao trong việc hướng dẫn áp
dụng pháp luật.
- Thủ tục giải quyết
Do không xét xử lại vụ án về nội dung mà chỉ xem xét tính hợp pháp của
bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật nên Toà án có thẩm quyền giám
đốc thẩm chỉ tiến hành xem xét việc áp dụng pháp luật của Toà án cấp dưới trên
14
cơ sở hồ sơ vụ án. Một số nguyên tắc cơ bản của TTDS không được áp dụng
trong hoạt động giám đốc thẩm như: nguyên tắc xét xử công khai, quyền quyết
định, tự định đoạt của đương sự. Vì vậy, hoạt động này không mang tính hành
chính như hoạt động giám đốc, kiểm tra khác mà mang tính chất là một thủ tục
tố tụng.
Qua những phân tích trên, chúng tôi đã đưa ra khái niệm giám đốc thẩm
trong TTDS như sau: Giám đốc thẩm dân sự là thủ tục tố tụng mà Toà án có
thẩm quyền xét lại những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật bị
kháng nghị vì có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động xét xử của Toà
án nhằm đảm bảo pháp luật được áp dụng đúng đắn và thống nhất.
1.1.3. Khái niệm tái thẩm dân sự
Theo Từ điển Tiếng Việt do giáo sư Hoàng Phê chủ biên và xuất bản năm
1992 có đưa ra khái niệm “Tái thẩm là xét lại một bản án đã xử”. Theo khái niêm
này thì tái thẩm được hiểu như một hoạt động của chủ thể, đó là Toà án. Hoạt
động này là hoạt động xét lại một bản án đã xử. Thủ tục phúc thẩm cũng là xét
lại một bản án đã xử, và thủ tục giám đốc thẩm cũng là việc xét lại một bản án đã
xử. Nên khái niệm như trên chưa giúp người đọc thấy được bản chất của thủ tục

tái thẩm và nội hàm của khái niệm“thủ tục tái thẩm” trong TTDS
Tác giả Đinh Văn Quế thì: “Tái thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới
được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định
mà Toà án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó” [9, tr 102]. Với
khái niệm này thì đã thấy được căn cứ kháng nghị tái thẩm là những tình tiết mới
phát hiện nhưng không đưa ra được quan điểm của tác giả về việc xác định thủ
tục tái thẩm là một giai đoạn tố tụng hay một thủ tục tố tụng đặc biệt.
Theo Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của trường Đại học Luật
Hà Nội đã đưa ra khái niệm: “Tái thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Toà án bị kháng nghị do mới phát hiện được tình tiết
15
quan trọng của vụ án mà Tòa án và các đương sự đã không biết được khi Toà án
giải quyết vụ án” [30, tr 335].
Với khái niệm này, thì đối tượng của việc xét lại theo thủ tục tái thẩm là
những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện được những tình
tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết vụ án nhưng lúc ra bản án,
quyết định các đương sự và Toà án đã không thể biết. Do mới phát hiện được
những tình tiết của vụ án mà trước đó các đương sự và Toà án đã không biết
được nên làm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án trở nên
không phù hợp với thực tế khách quan của vụ án, không đúng đắn.
Điều 304 BLTTDS quy định tính chất của tái thẩm, đồng thời cũng chính
là khái niệm pháp lý về tái thẩm: “Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện
có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án, các
đương sự không biết được khi Toà án ra bản án, quyết định đó”.
Để làm rõ bản chất của thủ tục tái thẩm, từ đó hình thành khái niệm tái
thẩm dưới góc độ tiếp cận là thủ tục TTDS thì cần xác định những dấu hiệu đặc
trưng sau:
- Căn cứ kháng nghị tái thẩm

Căn cứ kháng nghị tái thẩm là do phát hiện được những tình tiết mới quan
trọng làm thay đổi nội dung vụ án mà tại thời điểm giải quyết cả đương sự và
Toà án đều không biết được. Thực chất đó là những sai lầm trong việc chứng
minh xác định sự thật của vụ án. Những sai lầm do nguyên nhân khách quan ảnh
hưởng đến việc nhận thức của những người tiến hành tố tụng.
- Thời hạn kháng nghị tái thẩm
Do căn cứ kháng nghị tái thẩm là phát hiện tình tiết mới nên luật cho phép
bất cứ khi nào phát hiện tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án thì đều có thể
kháng nghị tái thẩm. Thời hạn kháng nghị tái thẩm không lấy mốc là ngày bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật như thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm.
16
Điều này giúp cho việc khắc phục sai sót trong các phán quyết của Toà án được
hiệu quả và kịp thời.
Qua đó, chúng tôi đưa ra khái niệm về tái thẩm trong TTDS như sau: Tái
thẩm trong TTDS là thủ tục tố tụng mà Toà án xét lại những bản án hoặc quyết
định dân sự đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị do mới phát hiện được tình
tiết mới quan trọng của vụ án mà Tòa án và các đương sự đã không biết được khi
Toà án giải quyết vụ án
1.2. Ý nghĩa của thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu
lực pháp luật
1.2.1. Ý nghĩa chính trị, xã hội
- Về mặt chính trị: Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực
pháp luật góp phần đáp ứng những đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền và là một
trong những cơ chế để đảm bảo việc kiểm tra, giám sát pháp luật.
Khi phát hiện những vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc những tình tiết
mới trong bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, Toà án có thẩm
quyền giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ huỷ bản án hoặc quyết định đó để xét xử lại
hoặc đình chỉ vụ án. Thông qua hoạt động của mình, các Toà án này đã góp phần
giáo dục ý thức pháp luật cho các cán bộ làm công tác xét xử. Nội dung các
quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ chỉ rõ những sai lầm về phương diện pháp

luật trong việc xét xử của Toà án các cấp, đồng thời hướng dẫn cách khắc phục
những sai sót đó. Những sai lầm này được nêu trong các hội nghị tổng kết ngành,
hội thảo về xét xử giúp cán bộ làm công tác xét xử nói chung có được nhận thức
đúng đắn và tôn trọng pháp luật hơn. Thông qua giám đốc thẩm, tái thẩm,
TANDTC sẽ hướng dẫn việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, thống nhất,
tránh việc nhận thức pháp luật sai lầm và áp dụng pháp luật một cách tuỳ tiện.
Không chỉ có ý nghĩa giáo dục ý thức pháp luật đối với cán bộ làm công tác xét
xử mà nó còn góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho những người có liên quan
đến vụ việc và người dân nói chung.
17
Vấn đề bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân
được coi là yêu cầu trung tâm của nội dung Nhà nước pháp quyền, thể hiện bản
chất tốt đẹp của Nhà nước ta. Toà án trong hoạt động của mình phải đảm bảo
việc xét xử được đúng đắn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Tuy Toà án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm không trực tiếp xét xử vụ án, không
trực tiếp khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm nhưng bằng
việc huỷ những bản án, quyết định sai, tạo cơ sở pháp lý để vụ án được phục hồi
và xét xử lại nên đã góp phần khắc phục những vi phạm quyền lợi hợp pháp của
nhân dân.
Giám đốc thẩm, tái thẩm có nhiệm vụ xét lại những bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật, vô hiệu các bản án, quyết định sai trái, đảm bảo việc xét
xử hợp pháp và hợp hiến. Với mục đích này, giám đốc thẩm, tái thẩm góp phần
đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế XHCN, đảm bảo tính thống nhất, ổn
định chặt chẽ của Nhà nước và pháp luật.
- Về mặt xã hội: Giám đốc thẩm, tái thẩm góp phần đảm bảo công bằng xã
hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Toà án, góp phần
đảm bảo uy tín của cơ quan tư pháp.
Việc đảm bảo pháp luật được giải thích và áp dụng thống nhất là điều kiện
quan trọng để hành vi của công dân được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật
thống nhất, đảm bảo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cho phép người dân được quyền phát hiện
những vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Toà án;
những bản án, quyết định này có thể bị huỷ nếu có căn cứ, trình tự tố tụng để giải
quyết vụ án sẽ được khôi phục lại. Những quy định đó sẽ giúp người dân tin
tưởng hơn pháp luật. Việc Toà án thừa nhận sai lầm trong hoạt động của mình
thông qua hoạt động giám đốc thẩm, tái thẩm góp phần củng cố lòng tin của dân
vào cơ quan tư pháp.
18
1.2.2. Ý nghĩa pháp lý
Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật có ý
nghĩa pháp lý to lớn. Các quyết định của Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm,
tái thẩm là cơ sở pháp lý để khẳng định tính đúng đắn của bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật; hoặc là cơ sở để hủy bỏ hiệu lực pháp luật của bản
án, quyết định đó hoặc khôi phục lại trình tự tố tụng đối với vụ án. Toà án có
thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm không trực tiếp khắc phục, sửa chữa những
vi phạm pháp luật, hay những thiết sót của Toà án cấp dưới nhưng đã tạo cơ sở
pháp lý để Toà án cấp dưới sửa chữa những vi phạm và khắc phục hậu quả. Từ
đó đảm bảo các nguyên tắc của pháp luật TTDS.
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm còn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt
động lập pháp. Trong khi tiến hành giám đốc thẩm, tái thẩm, Toà án có điều kiện
phát hiện những thiếu sót của pháp luật hiện hành, trên có sở đó đưa ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật. Khi xét xử, nếu thấy điều
luật áp dụng mâu thuẫn với Hiến pháp, không phù hợp với Hiến pháp thì Toà án
sẽ đề xuất những kiến nghị cụ thể để sửa đổi hoặc huỷ bỏ điều luật đó; nếu phát
hiện những trường hợp cụ thể chưa có điều luật để điều chỉnh thì tìm giải pháp
áp dụng tương tự và đề xuất bổ sung điều luật mới.
Để giám đốc thẩm, tái thẩm đạt được những ý nghĩa như trên thì công tác
giám đốc thẩm, tái thẩm phải thực sự hiệu quả. Việc này đòi hỏi nhiều yếu tố
như: yếu tố pháp lý, con người, thời gian…và việc đánh giá cũng phải toàn diện.
1.3. Lược sử những quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục xét lại bản

án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1989
Cách mạng Tháng 8/1945 thành công, ngay sau khi giành được chính
quyền, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số 13/SL
ngày 24/01/1946 về tổ chức Toà án và ngạch thẩm phán đã ghi nhận nguyên tắc
“Toà án thực hiện hai cấp xét xử”. Ngày 09/01/1946, Quốc hội ban hành Hiến
pháp đầu tiên tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và quản lý bộ máy nhà nước,
19
trong đó có ngành Toà án. Tuy nhiên, trong giai đoạn này chưa có văn bản pháp
luật nào quy định về thẩm quyền của Toà án trong việc xét lại bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Ngày 22/5/1950, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 85/SL mới có quy định
về thủ tục tiêu án. Tại Điều 17 Sắc lệnh quy định: “Toà án chỉ thủ tục một phần
hoặc toàn bộ thủ tục nếu xét thấy một hay nhiều hình thức ghi trong Luật tố tụng
hình hoặc hộ có hại cho việc thẩm cứu hoặc đến quyền lợi của đương sự.” Ngày
12/02/1958, Bộ Tư pháp đã ra Thông tư 321/VHH-CT yêu cầu các Toà án phải
nghiên cứu các đơn thư khiếu nại về các bản án đã xử chung thẩm. Ngày
13/01/1959, Bộ Tư pháp đã phối hợp với TANDTC ra Thông tư số 002/TT
quy định về thẩm quyền và thủ tục xét lại những vụ án hình sự đã có hiệu
lực pháp luật.
Ngày 31/12/1959, Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1959. Nhưng trong
Hiến pháp năm 1959 cũng chỉ mới quy định về thẩm quyền giám đốc thẩm của
Toà án mà chưa quy định về thẩm quyền và thủ tục tái thẩm: “Toà án nhân dân
tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Toà án
nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án nhân dân địa phương, Toà án
quận sự và Toà án đặc biệt” [22]. Luật tổ chức TAND năm 1960 đã quy định khá
đầy đủ các nguyên tắc trong việc xét xử, phân định thẩm quyền của Toà án các
cấp. Bên cạnh việc xét xử hai cấp như trước đây, Toà án đã áp dụng một thủ tục
xét xử mới đặc biệt, đó là thủ tục giám đốc thẩm. Điều 10 Luật tổ chức TAND
năm 1960 quy định: “Đối với các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã

có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có sai lầm thì Chánh án TANDTC đưa ra Uỷ
ban thẩm phán TANDTC xét định” [25]. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định
điều kiện để có giám đốc thẩm là phải có kháng nghị của người có thẩm quyền.
Một trong những văn bản pháp luật trong giai đoạn này có quy định về
giám đốc thẩm là Pháp lệnh ngày 23/3/1961 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy
định cụ thể về tổ chức của TANDTC và các TAND địa phương. Trong Pháp lệnh
này có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án TANDTC và một trong
20
những nhiệm vụ, quyền hạn đó là việc kháng nghị những bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của TAND các cấp nhưng phát hiện có sai lầm.
Ngoài các văn bản pháp luật nêu trên, thời kỳ này TANDTC đã ban hành
nhiều văn bản hướng dẫn về giám đốc việc xét xử các bản án, quyết định của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật; đó là: Thông tư số 2397/TC ngày 22/12/1961
hướng dẫn thi hành những quy định của Luật tổ chức TAND và Pháp lệnh ngày
23/3/1961 quy định về tổ chức TANDTC và tổ chức của các Toà án địa phương.
Hiến pháp năm 1980 quy định: “Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử
cao nhất nước CHXHCN Việt Nam. Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử
của Toà án nhân dân địa phương và các Toà án quận sự. Toà án nhân dân tối cao
giám đốc việc xét xử của Toà án đặc biệt trừ trường hợp Quốc hội hoặc Hội đồng
nhà nước quy định khác khi thành lập toà án đó”[23].
Cụ thể hoá quy định trên, Luật tổ chức TAND cũng được sửa đổi vào năm
1981 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức TAND năm 1988 quy định về việc
xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật: “Toà án nhân dân
tối cao hướng dẫn các Toà án địa phương và các Toà án quận sự áp dụng thống
nhất pháp luật và đường lối xét xử, giám đốc việc xét xử của các Toà án đó và
tổng kết kinh nghiệm xét xử. Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của
Toà án đặc biệt, trừ trường hợp Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước quy định khác
khi thành lập các Toà án đó”[26]. Trên cơ sở quy định chung này, Điều 23 đã cụ
thể hoá: “Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là tổ chức…xét xử cao
nhất theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm…Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm

những quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao”[26].
Như vậy, thủ tục tái thẩm lần đầu tiện được quy định trong Luật tổ chức
TAND năm 1981. Cũng theo quy định của luật thì Uỷ ban thẩm phán TANDTC
sẽ có thẩm quyền giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án và quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của các toà thuộc TANDTC; các toà chuyên trách sẽ có
quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
21
luật của các TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương
đương; TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có quyền giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các
TAND cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Theo đó, thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm cũng được quy
định khá rõ ràng: Chánh án TANDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND các cấp.
Thông tư số 01/TATC ngày 01/02/1982 của TANDTC về thủ tục giám đốc thẩm
dân sự ở TANDTC đã quy định rõ các trường hợp cần được kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm như: việc điều tra, thẩm vấn không đầy đủ, không khách
quan, chưa làm sáng tỏ được những tình tiết có ý nghĩa của vụ kiện; vi phạm
pháp luật tố tụng; kết luận trong bản án không phù hợp với những tình tiết thực
tế của vụ kiện mà Toà án xác định…Như vậy, có thể thấy các quy định về thủ
tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong giai đoạn này đã có
sự phát triển hơn nhưng mới chỉ dừng lại ở các quy định trọng các thông tư liên
tịch mang tính hướng dẫn.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến 2004
Đây là giai đoạn Nhà nước ta bước sang thời kỳ đổi mới, xoá bỏ nền kinh
tế bao cấp, xây dựng kinh tế phát triển theo hướng cơ chế thị trường định hướng
XHCN. Trên tinh thần Đại hội Đảng lần VI (ngày 12/01/1986) là tăng cường
quản lý bằng pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân, đáp ứng những
nhu cầu trước mắt của ngành Toà án, phù hợp với những khách quan của xã hội

trong giai đoạn phát triển đất nước. Ngày 29/11/1989, Hội đồng Nhà nước
CHXHCN Việt Nam đã ban hành PLTTGQCVADS. Tuy chỉ có 88 điều nhưng
Pháp lệnh đã giành hai chương để quy định về thủ tục xét lại bản án, quyết định
dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Trong đó, chương XII, từ Điều 71 đến Điều 77
quy định về thủ tục giám đốc thẩm; chương XIII, từ Điều 78 đến Điều 82 quy
định về thủ tục tái thẩm. Các vấn đề cơ bản như: căn cứ kháng nghị, người có
22
thẩm quyền kháng nghị, thời hạn kháng nghị, thẩm quyền của Hội đồng giám
đốc thẩm, tái thẩm…đều được quy định khá chi tiết trong Pháp lệnh.
Bên cạnh đó, thời kỳ này, Nhà nước ta cũng ban hành pháp luật quy định
về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án kinh tế và tranh chấp lao động tại
hai Pháp lệnh là: PLTTGQCVAKT ngày 16/3/1994 và PLTTGQCTCLĐ ngày
11/4/1996.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Ngày 15/6/2004, BLTTDS được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thì
hành từ ngày 01/01/2005. Sự ra đời của BLTTDS là bước tiến quan trọng trong
tiến trình phát triển của pháp luật TTDS nói chung, cũng như các quy định về thủ
tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật nói riêng.
Với thủ tục giám đốc thẩm, BLTTDS đã quy định cụ thể trong 22 Điều tại
chương XVIII, từ Điều 282 đến Điều 303. Hàng loạt các vấn đề về giám đốc
thẩm còn bất cập từ các văn bản pháp luật trước đã được BLTTDS sửa đổi, bổ
sung và cụ thể hoá như: điều khoản quy định về tính chất giám đốc thẩm; phát
hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét theo thủ tục giám
đốc thẩm; quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, thay đổi, bổ sung, rút quyết
định kháng nghị giám đốc thẩm; gửi quyết định giám đốc thẩm, thời hạn mở
phiên toà giám đốc thẩm; quyền hạn của Hội đồng giám đốc thẩm…
Với thủ tục tái thẩm, BLTTDS đã giành 7 điều quy định tại chương XIX,
từ Điều 304 đến Điều 310. Thủ tục tái thẩm được quy định chi tiết và đầy đủ hơn
so với PLTTGQCVADS năm 1989. Ngoài các quy định về thủ tục tái thẩm được
thực hiện như các quy định về thủ tục giám đốc thẩm thì BLTTDS đã có những

điều luật thể hiện rõ nét khác biệt của thủ tục tái thẩm so với giám đốc thẩm như:
tính chất của tái thẩm, thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, thẩm quyền của
Hội đồng tái thẩm.
Như vậy, với việc bổ sung, cụ thể hoá các điều khoản quy định về thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm đã làm cho thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã
có hiệu lực pháp luật được chặt chẽ hơn, bao quát và mang tính hiệu quả hơn.
23
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ
THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM
Theo quy định của BLTTDS hiện nay thì thủ tục xét lại bản án, quyết định
dân sự đã có hiệu lực pháp luật được quy định thành hai thủ tục riêng biệt là: thủ
tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Việc quy định riêng như vậy trong luật cũng đã
phản ánh được bên cạnh những điểm giống nhau giữa hai thủ tục này thì còn có
những điểm khác biệt ngay chính trong các quy định của pháp luật TTDS. Do
đó, trong chương này thông qua việc phân tích, đánh giá những quy định của
pháp luật TTDS về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ giúp chúng ta thấy được
những điểm giống và khác nhau giữa hai thủ tục này.
2.1. Giống nhau
2.1.1. Đối tượng kháng nghị
Đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đều là những
bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật.
Theo quy định tại Điều 188, Điều 279, Điều 30 BLTTDS thì các bản án,
quyết định là đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm gồm:
- Bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm hoặc đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị;
- Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;
- Quyết định của Toà án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
- Riêng đối với Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự chỉ
có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm mà không thể bị kháng nghị

theo thủ tục tái thẩm.
Như vậy, đối với các bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật thì dù có sai lầm, vi phạm pháp luật hay có tình tiết mới thì
cũng không phải là đối tượng của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm mà là đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
24
Đối với tất cả các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đều có thể bị
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu có những căn cứ do pháp
luật quy định. Tuy vậy, đối với quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng
thẩm phán TANDTC thì không bị kháng nghị lại nữa vì Hội đồng thẩm phán
TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam. Tuy nhiên,
có trường hợp quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC vẫn có những sai
sót gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự mà theo quy định của pháp luật hiện nay thì không có cơ chế để
khắc phục.
2.1.2. Chủ thể có quyền kháng nghị
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được tiến hành trên cơ sở kết quả của
công tác kiểm tra, giám đốc việc xét xử. Để đề cao trách nhiệm của những người
có thẩm quyền trong việc tổ chức kiểm sát, giám đốc việc xét xử, tránh việc
kháng nghị tràn lan làm mất tính ổn định của bản án, quyết định thì chỉ những
người có thẩm quyền mới có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật để yêu cầu Toà án xem xét lại bản án, quyết định này theo
thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Theo đó, chỉ có Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh,
Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC mới có quyền kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Cụ thể: Chánh án TANDTC, Viện trưởng
VKSNDTC có quyền kháng nghị những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Toà án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC;
Chánh án TAND cấp tỉnh và Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị
những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện.

Hiện nay, có ý kiến cho rằng: không nên quy định Chánh án TAND cấp
tỉnh và Chánh án TANDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vì
TANDTC và TAND cấp tỉnh không những vừa có thẩm quyền xét lại bản án,
quyết định của Toà án cấp dưới sau khi có kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm mà còn là cơ quan quản lý Toà án cấp dưới về mặt tổ chức, nếu quy định
25

×