Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Báo cáo "Một số vấn đề bảo hiểm thất nghiệp " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.01 KB, 4 trang )



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 3/2004 35




ThS. Trần Thuý Lâm *
1 Tht nghip l hin tng kinh t xó
hi tn ti cỏc nc cú ch chớnh tr,
trỡnh phỏt trin kinh t xó hi khỏc nhau.
Trong nn kinh t th trng, tht nghip
c biu l mt cỏch rừ nột nht v c
tha nhn l hin tng kinh t xó hi.
Trc õy, trong nn kinh t tp trung
bao cp, cỏch tip cn v gii thớch v vn
tht nghip cú nhng im khỏc so vi
hin nay. Xut phỏt t quan nim: Mi cụng
dõn u cú quyn cú vic lm, cú ngha v
phi lm vic v Nh nc s bo m y
ch lm vic cho ngi lao ng. Vỡ
vy, Nh nc ng ra can thip vo cỏc
quỏ trỡnh bo m khụng cú tht nghip
trong ch ngha xó hi. Nhiu bin phỏp
phỏp lớ ó c t ra, trong ú cú vic
khụng tha nhn quyn t do kinh doanh,
th trng lao ng, cnh tranh, phỏ sn
trong ch xó hi ch ngha. Chớnh vỡ
vy m trờn bỡnh din phỏp lớ v ụi khi
trờn thc t, vn vic lm ó c gii


quyt, nn tht nghip b xoỏ b, thut ng
tht nghipc coi nh mt cỏi gỡ ú xa
l, khụng c tha nhn l hin tng
kinh t - xó hi tt yu.
Chuyn sang nn kinh t th trng,
cựng vi s i mi chớnh sỏch kinh t, c
ch qun lớ v s dng lao ng ó cú s
thay i mnh m. T ch Nh nc qun lớ
v s dng lao ng theo ch biờn ch
nay chuyn sang ch hp ng, ngi
lao ng v ngi s dng lao ng c t
do thit lp v chm dt quan h lao ng.
Cỏc doanh nghip lm n thua l cng
khụng cũn c Nh nc bao cp cú th b
dn n gii th hoc phỏ sn. iu ú kt
hp vi s gia tng ca dõn s ó dn n
hin tng nhiu ngi lao ng khụng cú
vic lm. Tht nghip ó v ang tr thnh
vn bc xỳc ũi hi chỳng ta phi gii
quyt c v lớ lun v thc tin.
Vy tht nghip l gỡ? Mt ngi nh
th no c coi l tht nghip. Theo Lut
v h tr lao ng (Lut bo him vic lm)
ca Cng ho liờn bang c ngy
25/6/1969 thỡ tht nghip c hiu l
ngi lao ng tm thi khụng cú quan h
vic lm hoc ch thc hin cụng vic ngn
hn. Cũn theo Lut v tr cp ch vic ca
Trung Quc nm 1995 thỡ tht nghip l
hin tng ngi ang lm vic b mt vic

lm vỡ nhng lớ do khỏc nhau.
Vit Nam di gúc phỏp lớ, thut
ng tht nghip ln u tiờn c cp
Sc lnh s 29/SL ngy 12/3/1947 (iu
76) v sau ú l Ngh nh s 233/HBT
ngy 22/6/1990 ca Hi ng b trng ban
hnh quy ch lao ng i vi cỏc xớ nghip
* Ging viờn Khoa phỏp lut kinh t
Trng i hc lut H Ni


nghiªn cøu - trao ®æi
36
T¹p c
hÝ luËt häc sè 3/2004

có vốn đầu tư nước ngoài (khoản 1 Điều 46).
Tuy nhiên, trong 2 văn bản pháp lí này mới
chỉ đưa ra thuật ngữ thất nghiệp mà chưa
đưa ra khái niệm và tiêu chí cụ thể để xác
định như thế nào là thất nghiệp và tiêu
chuẩn để xác định một người là người thất
nghiệp. Bộ luật lao động (đã được sửa đổi,
bổ sung) cũng có đề cập thuật ngữ thất
nghiệp (Điều 140) song cũng không đưa ra
khái niệm và cho đến nay cũng chưa có văn
bản nào giải thích về vấn đề này. Chính vì
vậy trên thực tế ở mỗi góc độ khác nhau lại
có những quan niệm khác nhau về thất
nghiệp. Dưới góc độ của nhà nghiên cứu thì

thất nghiệp là hiện tượng mà người có sức
lao động muốn đi làm việc đã đăng kí tại cơ
quan có thẩm quyền nhưng vẫn chưa có
việc làm.
(1)
Còn dưới góc độ của nhà thống
kê dân số và việc làm thì người chưa có
việc làm (người thất nghiệp) là những người
có nhu cầu lao động nhưng không có việc
làm trên 1 tháng và 12 tháng trước thời
điểm điều tra làm việc dưới 6 tháng.
(2)
Tuy
nhiên, theo chúng tôi để có thể đưa ra khái
niệm về thất nghiệp cần xuất phát từ khái
niệm việc làm. Bởi việc làm và thất nghiệp
là hai vấn đề có tính trái ngược nhau, người
có việc làm là người không thất nghiệp và
ngược lại người thất nghiệp là người không
có việc làm. Việc làm theo Điều 13 của
BLLĐ được hiểu là mọi hoạt động lao động
tạo ra thu nhập và không bị pháp luật cấm.
Điều đó có nghĩa việc làm luôn gắn với thu
nhập và những hoạt động tuy không bị pháp
luật cấm nhưng không mang lại thu nhập
cũng vẫn không được coi là việc làm. Vì
vậy, thiết nghĩ thất nghiệp phải được hiểu là
tình trạng trong đó người có sức lao động,
trong độ tuổi lao động không có việc làm và
đang cần tìm một việc làm có trả công.

Như vậy, thất nghiệp là hiện tượng kinh
tế xã hội, nó chỉ trạng thái chung của người
không có việc làm và khi một người rơi vào
tình trạng trên thì được coi là thất nghiệp.
Điều đó có nghĩa tất cả những người đã đi
làm việc mà mất việc hoặc hết việc làm và
những người chưa đi làm bao giờ còn trong
độ tuổi lao động đang có nhu cầu làm việc
đều được thừa nhận là người thất nghiệp.
Còn những người trong độ tuổi lao động, có
sức lao động nhưng không làm việc, không
có nhu cầu làm việc đều không được coi là
người thất nghiệp.
2. Vì thất nghiệp là hiện tượng kinh tế
xã hội tất yếu của nền kinh tế thị trường, nó
lại gây ra những hậu quả xấu về kinh tế - xã
hội, tác động tiêu cực đến bản thân người
lao động và cả nền kinh tế nên chính phủ
các nước đã luôn tìm ra các biện pháp thích
hợp để bảo vệ người lao động khi bị thất
nghiệp, trong đó bảo hiểm thất nghiệp được
coi là một trong những biện pháp hữu hiệu
được nhiều quốc gia sử dụng. Chế độ bảo
hiểm thất nghiệp ra đời đầu tiên từ nguồn
tài chính của quỹ công đoàn để trợ cấp cho
đoàn viên. Dần dần một số chủ doanh
nghiệp vì lợi ích của chính họ (để ổn định
đội ngũ công nhân lành nghề) đã lập quỹ trợ
cấp cho người thôi việc, nghỉ việc tạm thời.
Sau đó ở một số thành phố, chính quyền đã



nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2004 37

đứng ra thiết lập hình thức bảo hiểm này.
Về sau do nhận thấy tầm quan trọng của
bảo hiểm thất nghiệp nên chính phủ các
nước đã thiết lập hình thức bảo hiểm này
trên phạm vi của quốc gia. Đến nay bảo
hiểm thất nghiệp đã được thiết lập ở hầu hết
các nước phát triển như Anh, Hà Lan, Tây
Ban Nha, Đức, Mĩ, Ý
Ở Việt Nam, bảo hiểm thất nghiệp cũng
đã được chính thức ghi nhận trong BLLĐ
đã được sửa đổi, bổ sung. Điều 140 của
BLLĐ quy định: “Chính phủ quy định cụ
thể việc đào tạo lại đối với người lao động
thất nghiệp, tỉ lệ đóng bảo hiểm thất
nghiệp, điều kiện và mức trợ cấp thất
nghiệp, việc thành lập và quản lí sử dụng
quỹ bảo hiểm thất nghiệp”. Bảo hiểm thất
nghiệp thực chất là chế độ bảo hiểm xã hội
nên có thể hiểu bảo hiểm thất nghiệp là sự
trợ giúp cho người thất nghiệp nhằm đảm
bảo đời sống cho họ trong thời gian không
có việc làm từ nguồn quỹ được hình thành
từ sự đóng góp của các bên và sự hỗ trợ của
Nhà nước.
Bảo hiểm thất nghiệp cũng như các chế

độ bảo hiểm xã hội khác là nhằm bù đắp
những rủi ro không lường trước được cho
những người tham gia bảo hiểm. Song giữa
bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm xã hội lại
có một số điểm khác nhau cơ bản. Đó là:
+ Về đối tượng: Đối tượng của bảo
hiểm thất nghiệp hẹp hơn so với BHXH,
chủ yếu là người lao động trong độ tuổi lao
động có sức lao động nhưng bị mất việc làm
và có nhu cầu làm việc, trong khi đó đối
tượng của BHXH là mọi người lao động.
+ Về mục đích: Bên cạnh việc trả trợ
cấp cho người tham gia bảo hiểm như
BHXH, bảo hiểm thất nghiệp còn có nhiệm
vụ đưa người thất nghiệp trở lại làm việc.
+ Hơn nữa, tuy cùng xuất phát từ quan
hệ lao động nhưng bảo hiểm thất nghiệp
chủ yếu thuộc lĩnh vực việc làm. Do vậy,
bảo hiểm thất nghiệp có quan hệ chặt chẽ
với chương trình việc làm quốc gia. Vì vậy,
nước thất nghiệp được thiết lập theo hệ
thống độc lập riêng rẽ như Ba Lan và một
số nước châu Âu nhưng một số nước khác
lại coi bảo hiểm thất nghiệp như chế độ
BHXH nằm trong hệ thống BHXH như
Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha.
3. Việt Nam tuy đã có quy định về bảo
hiểm thất nghiệp, coi đó là một trong những
chế độ của BHXH song cho đến nay vẫn
chưa có cơ chế cụ thể về vấn đề này. Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của BLLĐ vừa
qua cũng mới chỉ dừng lại ở việc thừa nhận
chứ chưa có sự quy định cụ thể. Tuy nhiên,
Trong thời gian qua, Nhà nước cũng đã ban
hành và thực hiện một số chính sách và giải
pháp tình thế nhằm trợ giúp người lao động
mất việc do sắp xếp lại lao động, giải quyết
lao động dôi dư như Quyết định số
227/HĐBT ngày 29/12/1987, Quyết định số
315/HĐBT ngày 1/9/1990, 176/HĐBT ngày
9/10/1989, Quyết định số 111/HĐBT ngày
12/4/1991 Hiện nay, vấn đề này được
thực hiện qua cơ chế trợ cấp mất việc làm
và trợ cấp thôi việc. Trợ cấp mất việc làm
được trả cho người lao động bị thôi việc


nghiªn cøu - trao ®æi
38
T¹p c
hÝ luËt häc sè 3/2004

trong trường hợp doanh nghiệp có sự
thay đổi về cơ cấu công nghệ, trong
trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia tách
doanh nghiệp, chuyển quyền sở hữu,
quyền quản lí hoặc quyền sử dụng tài sản
của doanh nghiệp. Mỗi năm làm việc
được tính bằng 1 tháng lương. Mức trợ
cấp tối thiểu bằng 2 tháng lương. Còn trợ

cấp thôi việc được trả cho người lao động
khi chấm dứt hợp đồng. Mỗi năm làm việc
được tính bằng 1/2 tháng lương.
Những khoản trợ cấp này tuy ít ỏi
nhưng dù sao cũng giúp cho người lao động
khắc phục được một phần khó khăn khi
không có việc làm trong thời gian tìm kiếm
việc làm mới. Song cũng cần phải thấy rằng
các khoản trợ cấp này chưa phải là trợ cấp
thất nghiệp bởi nó chỉ được trả một lần cho
người lao động mà mức trả lại phụ thuộc
vào số năm làm việc và mức tiền lương của
họ, kinh phí trả lại do người sử dụng bảo
đảm không mang tính chất xã hội. Hơn nữa,
mức trợ cấp này còn quá ít nên ngay cả việc
duy trì và tồn tại trong thời gian tìm kiếm
việc làm mới đối với người lao động cũng
là điều rất khó chứ chưa nói gì đến việc
hỗ trợ người lao động quay trở lại làm
việc (như học nghề mới, nâng cao tay
nghề cho phù hợp với thị trường). Thất
nghiệp là hiện tượng kinh tế - xã hội phức
tạp, là trách nhiệm của toàn xã hội chứ
không phải của riêng người sử dụng lao
động, người lao động, hay Nhà nước. Lịch
sử giải quyết lao động dôi dư ở Việt Nam
cũng như thực tiễn thực hiện bảo hiểm
thất nghiệp của một số nước phát triển đã
cho ta thấy rất rõ điều này. Vì vậy, Việt
Nam cần phải sớm triển khai xây dựng

chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
4. Bảo hiểm thất nghiệp là vấn đề hết
sức phức tạp. Trong bối cảnh hiện nay của
Việt Nam, thiết nghĩ không nên cầu toàn,
chờ đợi đến khi có được đầy đủ các điều
kiện mà nên triển khai dần từng bước trên
cơ sở học tập kinh nghiệm của một số nước
và điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam. Bảo hiểm thất nghiệp nằm trong hệ
thống của bảo hiểm xã hội nên việc đóng
góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp cũng cần
phải được hình thành trên cơ sở đóng góp
của cả người lao động, người sử dụng lao
động và ngoài ra còn có sự hỗ trợ của Nhà
nước. Tuy nhiên, vì bảo hiểm thất nghiệp có
một số điểm khác so với bảo hiểm xã hội
(như đã phân tích ở trên) nên quỹ bảo hiểm
thất nghiệp cần có cơ chế quản lí riêng. Hơn
nữa, khi xây dựng cơ chế bảo hiểm thất
nghiệp cũng cần phải chú ý đến các biện
pháp để đưa người thất nghiệp trở lại thị
trường lao động như đào tạo, đào tạo lại,
môi giới, tư vấn việc làm và nghề nghiệp,
khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp
nhận người thất nghiệp, cho vay ưu đãi để
người thất nghiệp tự tạo việc làm cho
mình. Có như vậy, bảo hiểm thất nghiệp
mới thể hiện được đầy đủ các chức năng
cũng như vai trò của mình và phát huy tác
dụng trên thực tế./.


(1). Xem: PTS. Lê Minh - "Kỉ yếu hội thảo khoa học"
năm 1988.
(2). Theo cuộc tổng điều tra dân số 1/4/1989.

×