Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

TIỂU LUẬN: TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO, PHƯƠNG CHÂM VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 139 trang )








TIỂU LUẬN:

TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO, PHƯƠNG CHÂM
VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CON ĐƯỜNG
ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM









Bài viết phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản nhằm góp phần làm rõ tư tưởng
chỉ đạo, phương châm, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới
ở Việt Nam. Trong đó, tập trung vào các nội dung chủ yếu sau: thứ nhất, kiên
định, đổi mới và phát triển là tư tưởng chủ đạo trong quá trình đổi mới ở Việt
Nam; thứ hai, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội, phát huy mọi nguồn lực nhằm
phát triển đất nước bền vững là phương châm cơ bản; thứ ba, luận giải những nội
dung cơ bản về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Công cuộc đổi mới của Việt Nam đã thu được những "thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử”. Điều này được minh chứng trên hai khía cạnh:


1. Đất nước đã vượt ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội vào những năm 70
của thế kỷ XX, tình hình chính trị – xã hội ổn định.
2. Sự tăng trưởng kinh tế khá nhanh với nhịp độ tương đối cao và ổn định trong
nhiều năm. Đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, đất nước không ngừng
tiến bộ.
Tuy nhiên, để có được những thành tựu ấy và để tiếp tục sự nghiệp đổi mới đất
nước trong thời gian tới. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang ngày càng làm
rõ hơn, hoàn thiện hơn những vấn đề lý luận cơ bản của sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam. Trong bài viết này, chúng tôi cố gắng phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản
nhằm góp phần làm rõ tư tưởng chỉ đạo, phương châm, con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
(*)

I. Kiên định, đổi mới, phát triển - tư tưởng chỉ đạo trong quá trình đổi mới ở
Việt Nam
Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội rơi vào khủng hoảng trầm trọng, Liên Xô và các
nước Đông Âu tiến hành cải tổ, Trung Quốc thực hiện cải cách mở cửa; ngược lại,
chủ nghĩa tư bản do có sự điều chỉnh nhất định, do tận dụng được những thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại nên đã có những sự tăng trưởng khá mạnh mẽ,
nhiều luồng tư tưởng đã cho rằng, chủ nghĩa xã hội không thể tồn tại, phát triển, từ
đó phủ nhận chủ nghĩa xã hội, lý tưởng hoá chủ nghĩa tư bản.


Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nhận thức đúng đắn rằng, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu thực
chất là sự sụp đổ của một mô hình về chủ nghĩa xã hội – mô hình kế hoạch hoá tập
trung, chứ không phải sự sụp đổ của lý luận chủ nghĩa xã hội do C.Mác và
Ph.Ăngghen khởi xướng. Phân tích tính khoa học của quan niệm duy vật về lịch
sử, học thuyết hình thái kinh tế – xã hội, bối cảnh thời đại, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đi đến khẳng định: Thời đại chúng ta vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa

tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Cũng từ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định
lại sự đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà cách mạng Việt Nam đã
lựa chọn, đề ra quyết tâm kiên định phát triển đất nước theo con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, việc kiên định con đường đã lựa chọn không có nghĩa là làm theo cách
cũ. Thông qua các thử nghiệm thực tế, đánh giá khách quan những sai lầm của mô
hình cũ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đi đến nhận định phải đổi mới tư duy về chủ
nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam mà về thực
chất, là nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của Việt Nam. Công cuộc đổi mới đất nước chính thức được khởi xướng từ Đại
hội VI, song đã có sự “suy ngẫm, tìm tòi” từ trước, mà điểm mốc là Hội nghị
Trung ương 6 khoá IV. Qua quá trình tìm tòi, xây dựng, đường lối đổi mới, về cơ
bản, đã hình thành tại Đại hội VI và thể hiện khá đầy đủ trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Đại hội VII.Cương
lĩnh đã thể hiện một cách nhìn tổng quát về chủ nghĩa xã hội và những phương
hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ mới. Mục
tiêu chung của chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra là “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, về con đường phát triển - đó là sự phát
triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Để đảm bảo giữ vững sự phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động, lấy tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản” và những nội dung
cơ bản khác, như về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, về đối ngoại, về quốc phòng –


an ninh, về giáo dục - đào tạo, về văn hoá, khoa học, giáo dục, v.v
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình khó khăn, phức tạp, do vậy, cùng với
những nội dung cơ bản đã được khởi xướng, Đảng Cộng sản Việt Nam thường
xuyên tìm tòi, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển. Chính vì vậy phát triển lý
luận về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam

trở thành công việc thường xuyên trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới ở
Việt Nam. Từ những nội dung cơ bản được nêu lên trong Đại hội VI, Đại hội VII
và Cương lĩnh, trải qua các kỳ Đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có sự bổ
sung, phát triển mới. Chẳng hạn, về nhiệm vụ trọng tâm của từng giai đoạn: từ chỗ
lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu (Đại hội V, tháng 3-1982) đến chỗ phải
lấy công nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, công
nghiệp nặng phát triển có chọn lọc (Hội nghị Trung ương, tháng 8-1986), rồi
đến đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp vào năm 2020 (Đại hội VIII, tháng 6 - 1986). Hoặc từ
mục tiêu chung mà Đại hội VII đã nêu, đến Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã khẳng định lại là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
(điểm mới là có thêm cụm từ “dân chủ”). Về cụm từ “phát triển bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa”, đến Đại hội IX được cụ thể thêm là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống
trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa…”. Về Nhà nước,
Đại hội VII giữa nhiệm kỳ (1/1994) khẳng định “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị,
đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật”, đến Đại hội VIII (6/1996) đã đặt ra yêu cầu phải xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Phát triển lý luận là công việc thường xuyên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính
vì vậy, tại Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành tổng kết lý luận qua
20 năm đổi mới để làm cơ sở cho việc phát triển lý luận trong thời kỳ mới. Những
nội dung tổng kết khá nhiều, song chúng ta có thể chú ý tới nhận định “chưa hình
thành được một khung lý luận vững chắc về thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa”(1). Từ đó đặt ra nhiều vấn đề lý luận cần phải quan tâm, trong


đó có vấn đề xây dựng lý luận phát triển cho thời gian tới. Đã có các cuộc hội
thảo, các công trình khoa học tập trung cho vấn đề này. Theo chúng tôi, việc xây
dựng một lý luận phát triển với thể chế kinh tế thị trường làm cơ sở là việc làm cần

thiết. Và, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng, lý luận phát triển ấy là sự phát
triển cụ thể hoá quan điểm phát triển bền vững mà Cương lĩnh đã đặt ra.
II. Giữ vững sự ổn định chính trị – xã hội, phát huy mọi nguồn lực nhằm phát
triển đất nước bền vững - phương châm cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt
Nam
1. Vấn đề giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong quá trình thực hiện công cuộc
đổi mới đất nước
Khi bắt tay vào việc thực hiện đường lối đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định rõ phương châm phải giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong quá trình đổi
mới. Để thực hiện phương châm này, Việt Nam chủ trương đổi mới kinh tế phải đi
trước một bước so với đổi mới xã hội, đổi mới chính trị. Đây được xem là quyết
sách hàng đầu. Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới đã chứng minh sự đúng đắncủa quan
điểm trên. Việc thực hiện phương châm ổn định chính trị – xã hội có ý nghĩa quyết
định đến thành công của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
(1)

Thứ nhất, với chủ trương trên, Việt Nam đã tránh được sự bất ổn về chính trị – xã
hội, dồn tâm huyết và các nguồn lực cho việc phát triển kinh tế – xã hội nói chung,
đổi mới cho việc tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế nói riêng
Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để khẳng định rằng, đối với Việt Nam, sự tăng trưởng
về kinh tế đang là mối quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Trong hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã có những thành tựu nổi
bật về tăng trưởng kinh tế. Điều này được thể hiện ở chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế
khá cao và liên tục. Chẳng hạn, ngay từ giai đoạn 1991 đến 1996, mức tăng trưởng
kinh tế cũng đã khá cao, riêng năm 1996 là 9,5%. Từ 1997 đến 2000, do ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính, mức tăng có suy giảm, năm 1999 chỉ còn 4,9%.
Giai đoạn từ 2001 đến nay, mức tăng trưởng cao dần và ổn định, năm sau cao hơn
năm trước, đạt chỉ tiêu trung bình là 7,51%, riêng năm 2005 là 8,43%.
Rõ ràng, sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua là khá cao. Sự tăng



trưởng kinh tế cao đã góp phần quan trọng làm thay đổi căn bản diện mạo kinh tế -
xã hội của Việt Nam, bộ mặt đất nước không ngừng đổi mới, đời sống nhân dân
được nâng cao. Đến năm 2005, tổng thu nhập quốc dân đạt 838 nghìn tỷ đồng
(tương đương 53 tỷ USD), thu nhập bình quân đầu người trên 10 triệu đồng (tương
đương 640 USD).
Cùng với mức tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế cũng được đổi mới, phát triển, tạo
điều kiện để Việt Nam tích cực chủ động tham gia hội nhập kinh tế thế giới và khu
vực, như tham gia AFTA năm 1995, APEC năm 1998 và năm 2006 tham gia
WTO; xuất nhập khẩu tăng nhanh, tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 200l - 2005 là
111 tỷ USD, tăng bình quân 17,5%/năm, năm 2005 bình quân đầu người đạt 300
USD/năm.
Sự tăng trưởng kinh tế đã thúc đẩy quá trình nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân; mức sống của người dân ngày càng được cải thiện rõ rệt. Thành công
nổi bật là từ chỗ thiếu lương thực, đến nay Việt Nam đã không những đảm bảo an
toàn lương thực ở mức cao, mà việc xuất khẩu lương thực ngày càng tăng mạnh
cùng với các mặt hàng khác, như cao su, may mặc, giày dép, hải sản Cùng với
mức sống của nhân dân được nâng cao, các lĩnh vực văn hóa, khoa học, giáo dục -
đào tạo cũng không ngừng phát triển.
Sau hơn 20 năm đổi mới, phải thừa nhận rằng, những sự thay đổi như vậy, một
phần là nhờ sự tăng trưởng kinh tế tạo ra. Mức tăng trưởng kinh tế nhanh đã tạo ra
những tiền đề vật chất cho sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Không có
tiền đề vật chất ấy, Việt Nam không thể có được sự phát triển như vừa qua. Đó là
điều cần phải khẳng định và việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn là
nhiệm vụ thường xuyên trong thời gian tới. Với những nước chậm phát triển như
Việt Nam, nhiệm vụ này cần phải được quan tâm đặc biệt.
Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng, để có được sự phát triển đất nước như thời
gian qua, bên cạnh việc đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế, Đảng và Nhà nước Việt
Nam cũng chú ý một cách sâu sắc đến vấn đề giữ vững sự ổn định chính trị – xã
hội. Và, theo chúng tôi, việc giải quyết tốt vấn đề ổn định chính trị - xã hội lại tác

động tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Không có sự ổn định chính


trị - xã hội khó có sự tăng trưởng kinh tế.
Có thể nói, sự tăng trưởng kinh tế và việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội có
quan hệ, tác động biện chứng lẫn nhau. Một mặt, tăng trưởng chẳng những tạo tiền
đề vật chất, mà còn tạo ra sức mạnh tinh thần để giữ được sự ổn định về chính trị -
xã hội. Có một thực tế khách quan là, những nước có sự tăng trưởng kinh tế tốt thì
sự ổn định xã hội cũng được duy trì tốt hơn ở những nước kinh tế tăng trưởng thấp
hoặc trì trệ. Ở một khía cạnh khác, có thể khẳng định rằng, sự ổn định về chính trị
- xã hội cũng tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều dễ nhận thấy là,
khi xã hội không ổn định thì không thể tăng trưởng kinh tế mạnh được, đặc biệt là
khi xảy ra xung đột (sắc tộc, tôn giáo, các cộng đồng ) hoặc có chiến tranh thì sự
tăng trưởng kinh tế sẽ rất chậm, thậm chí nền kinh tế có thể rơi vào trì trệ.
Thứ hai, việc giữ vững sự ổn định chính trị – xã hội là điều kiện cần để phát triển
đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc đổi mới đất nước,
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã rất chú ý đến việc giữ gìn ổn định chính trị - xã
hội. Chính đây là yếu tố quan trọng để thực hiện thành công con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn.
Việc lựa chọn con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản là yếu tố quyết định, vừa đảm bảo cho sự ổn định để phát
triển, vừa tránh được những hậu quả xã hội tiêu cực, kể cả sự xung đột đẫm máu,
như điều này đã diễn ra ở nhiều nước Đông Âu. Trên phương diện đối ngoại, nhờ
giữ vững ổn định chính trị – xã hội, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng có những
chính sách đúng đắn, nêu cao tính độc lập tự chủ, giữ vững môi trường hòa bình,
hữu nghị, nâng cao uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, tạo điều
kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế, phát triển đất nước.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, ổn định không có nghĩa là trì trệ. Ổn định bao gồm
cả đổi mới. Đây thực sự là ranh giới giữa ổn định để phát triển, tiến bộ với cầu
toàn, bảo thủ, trì trệ. Cũng chính vì vậy mà cùng với sự tăng trưởng về kinh tế,

Việt Nam cũng từng bước đổi mới về chính trị, xã hội để tạo ra môi trường thuận
lợi hơn cho sự tăng trưởng kinh tế, phát triển đất nước. Đổi mới trong ổn định, ổn
định để đổi mới - đó chính là chìa khóa giải quyết tốt quan hệ giữa tăng trưởng


kinh tế và ổn định chính trị - xã hội. Giải quyết tốt mối quan hệ này là điều kiện
cần thiết cho sự phát triển bền vững ở Việt Nam.
2. Về quan điểm phát triển bền vững
Cùng với phương châm giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội để tăng trưởng kinh
tế, Đảng Cộng sản Việt Nam còn chủ trương chú trọng chiến lược phát triển bền
vững. Điều này đã được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quan điểm phát triển bền vững có nội dung khá
phong phú. Trước hết, để phát triển bền vững, Việt Nam chủ trương cùng với sự
tăng trưởng về kinh tế, phải đảm bảo sự tiến bộ xã hội. Chúng ta có cơ sở để khẳng
định tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế không đồng nhất với nhau. Tăng
trưởng và phát triển có chỗ giống nhau, nhưng cũng có chỗ khác nhau. Cái giống
nhau giữa tăng trưởng và phát triển là cả hai đều nói lên sự dịch chuyển năng động,
vượt ra khỏi trạng thái trì trệ, dậm chân tại chỗ. Chỗ khác nhau là tăng trưởng chỉ
quan tâm tới chuyển dịch về lượng, còn phát triển lại quan tâm tới chất lượng của
sự chuyển dịch đó.
Như vậy, khái niệm phát triển kinh tế có nội hàm rộng hơn khái niệm tăng trưởng
kinh tế. Phát triển kinh tế bao hàm sự tăng trưởng, nhưng không phải mọi sự tăng
trưởng đều dẫn đến phát triển. Từ đó, Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế phải
là cơ sở vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội tạo ra sự tiến bộ xã hội và không
thể có sự phát triển kinh tế thuần tuý tách khỏi việc giải quyết các vấn đề xã hội.
Hơn nữa, nếu không giải quyết được các vấn đề xã hội thì phát triển cũng không
thể tiếp tục được. Phát triển là tăng trưởng theo hướng tiến bộ, là sự gia tăng sản
lượng của nền kinh tế, đồng thời tạo ra một cơ cấu kinh tế - xã hội tiến bộ hơn,
đảm bảo cho con người có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn cả trước mắt và lâu
dài. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, không có tăng trưởng thì cũng sẽ không có sự

phát triển, tăng trưởng là điều kiện, là tiền đề của sự phát triển. Do điều kiện của
mình, trong thời gian qua, ở Việt Nam, sự tăng trưởng về kinh tế đã được đặt lên
hàng đầu. Điều này nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng khó khăn trong đời
sống nhân dân và sớm đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế. Nhưng, nếu chỉ
chú ý đến tăng trưởng kinh tế mà không đặt nó trong bối cảnh chung của tiến bộ xã


hội thì lợi bất cập hại. Để phát triển bền vững, ngoài việc đẩy mạnh tăng trưởng
kinh tế, chúng ta phải quan tâm giải quyết tốt các vấn đề khác của đời sống xã hội
và bảo đảm sự ổn định xã hội, đảm bảo sự tiến bộ xã hội.
Thứ hai, để phát triển bền vững, Việt Nam chủ trương cùng với sự tăng trưởng
kinh tế phải giải quyết tốt vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái. Khởi đầu, con
người và xã hội tồn tại hài hòa với tự nhiên. Song, cùng với sự phát triển xã hội và
môi trường sinh thái cũng càng ngày càng suy giảm. Có thể thấy rằng, bước khởi
đầu trong sự suy thoái môi trường sinh thái là việc con người sáng tạo ra các công
cụ sản xuất bằng kim loại và bước vào kỷ nguyên xã hội văn minh - nền văn minh
nông nghiệp. Để sản xuất nông nghiệp phát triển, con người đã biến đất hoang
thành đất trồng trọt, tạo ra bước tiến về kinh tế, song nó cũng bắt đầu nảy sinh
những vấn đề về sinh thái. Bước ngoặt thực sự về sự suy thoái của môi trường sinh
thái là sự ra đời của máy hơi nước và xã hội chuyển sang nền văn minh công
nghiệp.
Trong nền văn minh công nghiệp, quá trình công nghiệp hóa với sự khai thác tài
nguyên thiên nhiên ồ ạt đã tạo ra bước tiến vượt bậc của sự tăng trưởng kinh tế.
Song, chính sự say sưa theo đuổi những mục tiêu kinh tế, lãng quên việc bảo vệ
môi trường đã làm cho môi trường sinh thái suy thoái trầm trọng, ảnh hưởng đến sự
tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Hiện nay, vấn đề môi trường không chỉ là
vấn đề của mỗi nước, mà còn là vấn đề toàn cầu. Cũng chính vì lẽ đó đã có nhiều tổ
chức quốc tế, nhiều hội nghị quốc tế được tổ chức liên quan đến vấn đề bảo vệ môi
trường sinh thái. Có thể nói rằng, vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái đang là vấn đề
sống còn của cả nhân loại. Cũng vì vậy, xét trên phạm vi toàn cầu, ngày nay, việc

tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với việc bảo vệ môi trường sinh thái.
Chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường sinh thái có quan hệ mật thiết với nhau trong phát triển. Lúc đầu, để phát
triển, sự tăng trưởng kinh tế được ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, do không chú ý
đến bảo vệ môi trường nên dần dần môi trường sinh thái đã suy thoái trầm trọng,
tác động xấu đến đời sống con người cũng như đến tăng trưởng kinh tế. Khi đó, để
phát triển thì bên cạnh việc tăng trưởng kinh tế, con người đồng thời phải tính đến


việc bảo vệ môi trường sinh thái.
Cũng phải thấy rằng, việc bảo vệ môi trường sinh thái không hề đơn giản. Nó đòi
hỏi những điều kiện vật chất nhất định. Trong giai đoạn hiện nay, có thể nói, tăng
trưởng kinh tế là yếu tố cơ bản để có được cơ sở vật chất, tạo điều kiện cho việc
bảo vệ môi trường sinh thái. Ngược lại, việc bảo vệ môi trường sinh thái tốt sẽ
đem lại cuộc sống tốt đẹp cho con người cũng như cho việc bảo vệ và tái sinh
nguồn tài nguyên, tạo ra những động lực cho sự tăng trưởng kinh tế, đảm bảo cho
sự phát triển. Rõ ràng, việc giải quyết tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo
vệ môi trường sinh thái cũng là yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển bền
vững.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về môi trường sinh thái cũng như việc đưa ra các
giải pháp để bảo vệ môi trường sinh thái cũng đã bước đầu được quan tâm. Có thể
nói, hiện nay, môi trường sinh thái Việt Nam có nhiều biểu hiện phức tạp. Mặc dù
Việt Nam mới bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, song
những vấn đề về môi trường sinh thái cũng đã có những biểu hiện suy thoái trầm
trọng: các nguồn tài nguyên dần cạn kiệt, rừng và đất nông nghiệp bị thu hẹp,
không khí bị ô nhiễm,
Trong những năm qua, sự tăng trưởng về kinh tế tương đối mạnh nhưng lại chưa
chú ý thích đáng đến việc bảo vệ môi trường sinh thái, tình trạng ô nhiễm môi
trường sống chưa được kiểm soát đã làm nảy sinh những nguy cơ lớn cho đời sống
của nhân dân, chẳng hạn việc xuất hiện các "làng ung thư” ở Vĩnh Phúc, việc cá chết

đồng loạt ở Đồng Nai, sự ô nhiễm ở các thành phố lớn, ở những vùng mới đô thị
hóa,… Đây thực sự là những hiểm họa.
Có thể nói, nếu không giải quyết tốt vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái, chắc chắn
trong thời gian không xa, nó sẽ có tác động xấu đến đời sống xã hội nói chung,
tăng trưởng kinh tế nói riêng.
Sự suy thoái môi trường sinh thái, một mặt, đe dọa đến đời sống của nhân dân;mặt
khác, làm cạn kiệt tài nguyên Cả hai khía cạnh trên đều tác động tiêu cực đến
tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế là để phát triển xã hội, để có tiến
bộ xã hội, tăng trưởng kinh tế là vì cuộc sống của nhân dân. Do vậy, không thể chỉ


chú ý đến tăng trưởng kinh tế mà không chú ý đến bảo vệ môi trường sinh thái.
Đây là mối quan hệ hai chiều, tăng trưởng kinh tế phải tạo điều kiện bảo vệ môi
trường sinh thái và bảo vệ tốt môi trường sinh thái là điều kiện để tăng trưởng
kinh tế. Giải quyết tốt mối quan hệ trên cũng là một trong những yếu tố đảm bảo
cho sự phát triển bền vững. Để tạo sự phát triển bền vững cho đất nước, giờ đây,
Việt Nam phải ý thức một cách rõ ràng là, bên cạnh những dự án tăng trưởng kinh
tế phải kèm theo những dự án bảo vệ môi trường sinh thái. Đó là yêu cầu bắt buộc
trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển đất nước của Việt Nam thời gian
tới.
Từ những sự phân tích trên, chúng ta có thể khẳng định rằng, để phát triển đất
nước bền vững, trước hết chúng ta phải đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Không đẩy
mạnh tăng trưởng kinh tế, sẽ không có sự phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh việc tăng
trưởng kinh tế, chúng ta cần chú ý thích đáng đến đảm bảo sự tiến bộ xã hội, đến
việc bảo vệ môi trường sinh thái (và những vấn đề khác nữa). Chỉ có giải quyết tốt
các mối quan hệ đó, chúng ta mới tạo lập được sự phát triển bền vững cho đất
nước.
Để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương
sử dụng mọi nguồn lực (nhân loại, dân tộc; nội lực, ngoại lực) miễn là nó không
đi ngược lại lợi ích đất nước, không ảnh hưởng đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa

xã hội. Chẳng hạn, Việt Nam chủ trương sử dụng các ưu điểm của kinh tế thị
trường, của nhà nước pháp quyền, các giá trị văn hoá truyền thống; hoặc xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ với việc chủ động tham gia hội nhập kinh tế thế giới;
phát huy đại đoàn kết dân tộc với hợp tác quốc tế; huy động vốn trong nước và
tranh thủ sự đầu tư từ bên ngoài, Đây là những vấn đề đã được đề cập trong các
văn kiện của Đảng, chính sách của Nhà nước cũng như được giới nghiên cứu lý
luận quan tâm sâu sắc.

III. Những nội dung cơ bản về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo, phương châm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những chủ trương cơ bản nhằm hiện thực hoá con
đường phát triển của xã hội Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước. Đó là:


1. Kiên định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Trong những năm trước đổi mới, nổi lên quan điểm cho rằng, chủ nghĩa xã hội và
kinh tế thị trường như nước và lửa, không thể tương dung. Người ta thường xem
kinh tế thị trường là nét đặc trưng cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, kinh tế có kế
hoạch mới là nét đặc trưng cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Những quan điểm cho
rằng chủ nghĩa xã hội cũng phải áp dụng kinh tế thị trường đều bị phê phán, lên án
là chạy theo luận điệu tuyên truyền của chủ nghĩa tư bản, là xa rời lý tưởng cộng
sản, bị quy là “xét lại”.
Cùng với công cuộc đổi mới, quan niệm như trên dần dần đã bị loại bỏ. Hiện nay,
các nghiên cứu lý luận đều cho rằng, kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn
minh nhân loại. Nó không chỉ được vận hành trong chủ nghĩa tư bản, mà còn hoàn
toàn phù hợp với chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để khẳng định kinh tế thị trường là một động lực mạnh
mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
cho chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy, ngay từ khi tiến hành công cuộc đổi mới,

Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, sử dụng nhiều hình thức sở hữu. Chủ trương này hình thành từ Đại hội VI và
được hoàn thiện dần qua các kỳ đại hội. Đến Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã chỉ rõ: “Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền sản xuất hàng
hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(2).
Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển lực
lượng sản xuất ở Việt Nam. Nó cũng đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng một nền
kinh tế độc lập tự chủ, vừa phù hợp với yêu cầu tham gia hội nhập kinh tế thế giới.
Hơn thế nữa, việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
kết quả tất yếu của quá trình xã hội hoá tư bản chủ nghĩa trong thời đại ngày nay, là
xu hướng phát triển của kinh tế thị trường hiện đại. Do vậy, Việt Nam đã khẳng
định sự cần thiết phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
xem đó là phương thức tất yếu trong suốt thời kỳ quá độ.


Như vậy, có thể nói, Việt Nam lựa chọn phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển khách quan của
xã hội hiện đại. Ngày nay, để phát triển, mọi nước phải vận dụng cơ chế và các quy
luật kinh tế thị trường nhằm phục vụ các mục tiêu và lợi ích xã hội của các chế độ
khác nhau. Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong khi phát triển kinh tế thị
trường, Việt Nam chủ trương:
-Phát triển kinh tế phải đảm bảo tiến bộ xã hội, công bằng xã hội.
-Phát triển kinh tế phải gắn với phát triển giáo dục - đào tạo, văn hoá và khoa học –
công nghệ.
-Phát triển kinh tế phải dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
-Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái.
2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời
kỳ quá độ

Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, chưa
trải qua công nghiệp hóa, lao động thủ công là phổ biến. Theo lý luận hình thái kinh
tế – xã hội thì mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một trình độ phát triển nhất định về
lực lượng sản xuất, tức cơ sở vật chất - kỹ thuật cho xã hội đó. Để có chủ nghĩa xã
hội, chúng ta phải có một cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại hơn hẳn chủ nghĩa tư
bản. Chính vì vậy, việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, phát triển lực
lượng sản xuất là nhiệm vụ hàng đầu đảm bảo cho sự thành công của chủ nghĩa xã
hội.
Để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội thì cái thiếu lớn nhất
của Việt Nam là nền đại công nghiệp. Chính vì vậy, việc thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là một đòi hỏi khách quan, tất yếu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Khác với quá trình công nghiệp hóa ở các nước tư bản trước
đây, trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam chính là phương thức quan trọng để phát triển
lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó
là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chính vì tầm quan trọng của công nghiệp hóa mà trong quá trình đổi mới, Việt Nam
luôn dành cho nó sự chú trọng đúng mức. Đại hội giữa nhiệm kỳ khoá VII đưa ra


chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại hội VIII đã đưa ra mục tiêu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ trương phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Ở Việt Nam, công nghiệp hóa, hiện đại hóa có những nét riêng, trong quá trình
công nghiệp hóa, tuỳ theo hoàn cảnh, điều kiện mà có thể đi thẳng vào hiện đại hóa.
Đúng như Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước
tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả
năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn
những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.

Phát huy nguồn nhân lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát
triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”(3).
3. Kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với việc xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp trong suốt thời kỳ quá độ
Trước thời kỳ đổi mới, với quan niệm cho rằng, mỗi bước tiến của quan hệ sản xuất
cũng là bước tiến của lực lượng sản xuất và do vậy, đã có lúc, Việt Nam chủ trương
xây dựng quan hệ sản xuất tiên tiến làm nền cho sự phát triển lực lượng sản xuất.
Từ đó, Việt Nam đã nhanh chóng xây dựng quan hệ sản xuất mới. Dùng “quan hệ
sản xuất tiên tiến để kéo lực lượng sản xuất lạc hậu tiến lên”. Đi vào đổi mới, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thấy rõ sự sai lầm của quan niệm này.
)

Từ khi tiến hành đổi mới tư duy, nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất ngày càng khoa học hơn. Theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội
thì xã hội vận hành, phát triển tuân theo quy luật khách quan: quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù
hợp thì nó sẽ tạo điều kiện thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; ngược lại, nó sẽ
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Như vậy, quan hệ sản xuất do trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Việc xoá bỏ sở hữu tư nhân đối với
tư liệu sản xuất phải lấy trình độ xã hội hoá rất cao của lực lượng sản xuất làm tiền
đề. Mọi chế độ sở hữu, mọi loại hình kinh tế đều có vai trò tích cực đối với sự phát
triển xã hội, khi chúng còn tạo điều kiện cho sự giải phóng lực lượng sản xuất, trong


đó yếu tố quan trọng nhất là người lao động. Có thể khẳng định rằng, mục tiêu cao
nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người, là thiết lập một xã hội mà ở đó,
“sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người” (C.Mác và Ph.Ăngghen). Xoá bỏ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất chỉ là
điều kiện để đạt mục tiêu đó. Cho nên, tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản

xuất mà xác lập quan hệ sản xuất phù hợp là một quan niệm đúng đắn.
(3

Ở Việt Nam hiện nay, lực lượng sản xuất còn ở trình độ phát triển thấp, nên chưa
thể xác lập ngay quan hệ sản xuất tiên tiến xã hội chủ nghĩa. Việc tồn tại nhiều
thành phần kinh tế với nhiều kiểu quan hệ sản xuất trên cơ sở nhiều hình thức sở
hữu là một tất yếu khách quan.
Để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thì tùy theo trình độ phát triển của nó,
chúng ta phải chủ động xác lập quan hệ sản xuất phù hợp; không để cho quan hệ sản
xuất “lạc hậu” hoặc “vượt trước” trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Song,
để nền kinh tế phát triển đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, trong quá
trình phát triển kinh tế thị trường, phải làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế
quốc dân; phân phối theo kết quả lao động phải là hình thức phân phối chủ yếu.
4. Kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới về chính trị và các mặt khác
của đời sống xã hội
Với phương châm giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong quá trình tiến hành đổi
mới, Việt Nam chủ trương đổi mới về kinh tế phải đi trước một bước. Quyết sách
này tỏ rõ sự đúng đắn của nó trong thực tiễn đổi mới thời gian qua. Tuy nhiên, theo
quy luật khách quan: cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kinh tế quyết
định chính trị, xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức đúng đắn rằng, cùng
với đổi mới kinh tế, đã đến lúc phải đổi mới toàn diện và đồng bộ các mặt của đời
sống xã hội. Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu và
phương hướng tổng quát 5 năm 2006 – 2010 là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới (chúng tôi nhấn mạnh-V.V.V.), huy động và sử dụng tốt mọi
nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hoá; thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan



hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính
trị – xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”(4).
Yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi phải thực hiện: Thứ nhất, đổi mới tư
duy lý luận về chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội phải theo kịp với đổi
mới tư duy lý luận về kinh tế. Chẳng hạn, phải đổi mới tư duy lý luận về hệ thống
chính trị, về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị; về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về thực hiện việc quản lý của
Nhà nước bằng pháp luật; về các tổ chức chính trị – xã hội,… Thứ hai, bên cạnh đổi
mới tư duy lý luận một cách toàn diện, cũng phải tiến hành đổi mới tư duy thực
tiễn để “lời nói đi đôi với việc làm”. Chẳng hạn, phải tiến hành cải cách bộ máy
hành chính, cải cách tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội,… Một
vấn đề bức xúc mà Việt Nam cần nhanh chóng tiến hành là phải xây dựngcơ chế
thực hiện cho việc triển khai đường lối của Đảng, các chính sách của Nhà nước vào
thực tiễn, cho việc triển khai các quan niệm lý luận (đúng đắn) vào thực tiễn. Chẳng
hạn, cơ chế thực hiện dân chủ ở các ngành, các cấp; cơ chế kết hợp giữa các nhánh
quyền lực (ở Việt Nam quyền lực nhà nước là thống nhất, song có sự phân công,
phối hợp giữa các nhánh quyền lực); cơ chế chống tham nhũng, v.v Đây là một
vấn đề hết sức quan trọng của việc gắn lý luận với thực tiễn, làm cho lý luận đi vào
thực tiễn, lý luận và thực tiễn song hành với nhau trong suốt quá trình đổi mới. /.

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Báo cáo tổng kết: Một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 -
2006). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.109.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.91.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.76.





VỌNG PHÁT TRIỂN(*)




TRÌNH ÂN PHÚ
(**)

HỒ LẠC MINH
(***)


Trên cơ sở định nghĩa lại chủ nghĩa Mác, trong bài này, các tác giả đã trình bày
một cách khái quát về những thành tựu mà giới nghiên cứu lý luận Trung Quốc đã
đạt được trong việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác trên bốn phương diện: nghiên cứu
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác; nghiên cứu lịch sử phát triển của chủ
nghĩa Mác; nghiên cứu việc Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác và nghiên cứu chủ
nghĩa Mác trên thế giới. Trong bài viết này, các tác giả còn đưa ra một số nhận
định về triển vọng và tương lai phát triển của việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác tại
Trung Quốc.
Chủ nghĩa Mác là một hệ thống lý luận do C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập và những
người kế tục không ngừng phát triển (giới định từ góc độ chủ thể sáng lập chủ
nghĩa Mác); là tư tưởng lý luận và hệ thống khoa học về những quy luật chung
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy (giới định từ nội hàm khoa học của chủ nghĩa
Mác); là tư tưởng chỉ đạo và hệ thống khoa học về giai cấp công nhân và chính
đảng của nó trong đấu tranh cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội và sự quá độ
lên xã hội cộng sản chủ nghĩa (giới định từ vai trò xã hội của chủ nghĩa Mác); là tư

tưởng xã hội và hệ thống khoa học về lý tưởng và những giá trị trọng yếu của con
người (giới định từ góc độ quan niệm giá trị).
Nhìn lại và tổng kết một cách khoa học những thành tựu phát triển của việc nghiên
cứu lý luận chủ nghĩa Mác 60 năm trở lại đây, phân tích triển vọng của sự phát
triển việc nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác trong tương lai có một ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với việc thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mang
đặc sắc Trung Quốc và chủ nghĩa xã hội thế giới vĩ đại.
(*)

1. Thành tựu chủ yếu của 60 năm nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác ở Trung
Quốc
60 năm qua, những nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác mới ở Trung Quốc đã trải


qua những bước phát triển đầy phức tạp. Dựa vào sự khác biệt về chủ đề nghiên
cứu, định hướng nghiên cứu, phương thức nghiên cứu và diện mạo tổng thể nghiên
cứu, nhìn chung, quá trình này có thể phân làm hai thời kỳ trước và sau cải cách
mở cửa, với bốn giai đoạn nghiên cứu chủ nghĩa Mác.
Từ năm 1949 tới năm 1965 là giai đoạn đặt nền móng bước đầu. Từ năm 1966 đến
năm 1978 là giai đoạn cứng nhắc và ngừng trệ. Từ 1978 – 1992 là giai đoạn phát
triển phục hưng. Từ năm 1993 tới nay là giai đoạn sáng tạo mới trong nghiên cứu
lý luận chủ nghĩa Mác.
60 năm đó, nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác đã đi qua một chặng đường không
bình thường và cũng đã đạt được những thành tựu không tầm thường, góp phần
phát huy mạnh mẽ vai trò nhận thức thế giới, truyền bá văn minh, sáng tạo lý luận,
phục vụ nhân quần, phục vụ xã hội, làm nên những đóng góp to lớn cho sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Dưới đây là những thành
tựu lý luận chủ yếu trên bốn phương diện.
1. Nghiên cứu những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác
Sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa mới được thành lập, việc biên dịch,

xuất bản, tuyên truyền, giới thiệu, nghiên cứu văn bản, so sánh và giải thích các tác
phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác, v.v. đều có những bước tiến đáng kể, thể hiện
một xu thế phát triển tốt đẹp. Từ năm 1953, khi Cục Biên dịch Trung ương được
thành lập tới năm 2005 khi Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác thuộc Học viện Khoa
học xã hội Trung Quốc ra đời, lực lượng nghiên cứu tác phẩm kinh điển của chủ
nghĩa Mác đã không ngừng tăng lên; từ việc giới thiệu, học tập những giải thích
của Liên Xô với tác phẩm kinh điển chủ nghĩa Mác tới việc tự biên dịch giải thích
văn bản và văn bản gốc các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác đã làm cho
phương pháp nghiên cứu tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác ngày càng khoa
học hơn; từ lối nghiên cứu khép kín chuyển sang phong cách tự chủ khoáng đạt đã
làm cho tính quốc tế và tính cởi mở của tầm nhìn nghiên cứu tác phẩm kinh điển
của chủ nghĩa Mác không ngừng được tăng cường; từ việc tuyên truyền, giới thiệu
một cách thô thiển tới việc tìm hiểu văn bản và liên hệ thực tế một cách có hệ
thống đã làm cho tính học thuật và tính hiện thực trong những thành quả nghiên


cứu tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác không ngừng được nâng cao.
2. Nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
Sự kết hợp những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với thực tiễn cụ thể của
Trung Quốc là nguyên tắc chỉ đạo căn bản cho công cuộc cách mạng, xây dựng và
cải cách ở Trung Quốc. Nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
luôn là lĩnh vực trọng yếu của nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác. Từ khi thành lập
nước, do chịu ảnh hưởng của giới nghiên cứu lý luận Xôviết, việc nghiên cứu
những nguyên lý cơ bản chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc luôn được tiến hành một
cách riêng biệt dựa trên ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác là triết học, kinh tế
chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Các học giả Trung Quốc đã tiến hành
nghiên cứu một cách sâu rộng đối với những vấn đề lý luận cơ bản xoay quanh ba
bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác này và do vậy, luôn có được những thành quả lý
luận có sức ảnh hưởng lớn, như chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng, những nguyên lý

của chủ nghĩa duy vật lịch sử, sách giáo khoa kinh tế chính trị, kinh tế chính trị
học (bộ phận chủ nghĩa tư bản), khái luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, những
nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa xã hội khoa học v.v
Từ cải cách mở cửa tới nay, đặc biệt từ năm 1985, sau khi Ủy ban Giáo dục Quốc
gia đề xuất việc giảng dạy môn “Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác” ở các
trường cao đẳng, về tổng thể, việc nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác ngày càng sôi nổi. Bước sang thế kỷ XXI, cùng với việc nghiên cứu
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, thực hiện công cuộc dựng xây đất
nước và với việc chính thức thành lập khoa học chuyên ngành về những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác, những nghiên cứu có hệ thống về các nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác mới ngày càng phong phú. Các học giả Trung Quốc đã tập trung
vào những vấn đề lớn, như “thế nào là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác; nhìn nhận như thế nào về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác”; đồng
thời, tiến hành bàn luận sâu về các vấn đề lý luận, như đặc điểm, nội dung, tính thứ
bậc của những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác và nguyên tắc chủ đạo cho
việc nhìn nhận những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác. Không chỉ thế, các


học giả Trung Quốc còn nghiên cứu một cách có hệ thống về các nguyên lý cấu
thành chủ nghĩa Mác, như nguyên lý vật chất quyết định ý thức; nguyên lý tồn tại
xã hội quyết định ý thức xã hội; nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và về sự phát
triển vĩnh viễn của thế giới khách quan; nguyên lý về quy luật diễn tiến và phát
triển của các hình thái kinh tế - xã hội từ cấp thấp tới cấp cao; học thuyết giá trị
thặng dư; nguyên lý về mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu của chủ nghĩa tư
bản; giả thuyết và những nguyên lý cơ bản trong kinh tế chính trị mácxít hiện đại,
nguyên lý về tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội và sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân; nguyên lý về đấu tranh giai cấp và cách mạng vô sản; học thuyết
về nhà nước và chuyên chính vô sản; vai trò của quần chúng nhân dân với tư cách
người sáng tạo lịch sử; chiến lược và sách lược của giai cấp vô sản; về chính đảng
vô sản và việc xây dựng chính đảng của giai cấp vô sản; về đặc trưng bản chất của

chủ nghĩa xã hội khoa học, về sự phát triển toàn diện con người trong chủ nghĩa
cộng sản, v.v Với việc nghiên cứu một cách có hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác
được cấu thành từ những nguyên lý này, trong những năm qua, các học giả Trung
Quốc đã đạt được một số thành quả lý luận có ảnh hưởng lớn, như cuốn “Khái
luận về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác”, v.v
3. Nghiên cứu lịch sử phát triển chủ nghĩa Mác
Sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập, việc nghiên cứu lịch
sử phát triển chủ nghĩa Mác cũng đã được tiến hành một cách tương đối riêng rẽ
trên ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác là triết học, kinh tế chính trị học và chủ
nghĩa xã hội khoa học. Để nghiên cứu một cách chỉnh thể lịch sử quá trình thai
nghén, hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác, trong những năm 80 của thế kỷ
XX, Hội nghị quy hoạch Triết học và Khoa học Xã hội toàn quốc đã coi việc
nghiên cứu và biên soạn lịch sử phát triển chủ nghĩa Mác là hạng mục nghiên cứu
khoa học trọng điểm của quốc gia; đồng thời, thúc đẩy việc nghiên cứu lịch sử
phát triển chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc. Việc làm này đã thu được nhiều thành tựu
nghiên cứu quan trọng. Chẳng hạn như, Viện Nghiên cứu lịch sử phát triển chủ
nghĩa Mác thuộc Đại học Nhân dân Bắc Kinh đã biên soạn được các cuốn: Lịch sử
tư tưởng Mác - Ăngghen, Lịch sử tư tưởng Lênin và Lịch sử phát triển chủ nghĩa


Mác (gồm 4 tập). Ngoài một loạt các tác phẩm mang tính thông sử, Trung Quốc
còn xuất bản những tác phẩm nghiên cứu mang tính chất chuyên sâu về lịch sử,
như Lịch sử triết học Mác (gồm 8 tập), Lịch sử kinh tế chính trị học mácxít (gồm
5 tập),30 năm đổi mới việc Trung Quốc hóa lý luận chủ nghĩa Mác, v.v Ngoài ra,
những thành tựu nghiên cứu về lịch sử phát triển chủ nghĩa Mác của một số học
giả nước ngoài cũng đã được dịch và xuất bản bằng tiếng Trung.
Cùng với việc nghiên cứu và phát triển chủ nghĩa Mác, việc biên soạn các cuốn
giáo trình có liên quan tới lịch sử phát triển chủ nghĩa Mác cũng lần lượt được
triển khai. Giới nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc đã tiến hành
những nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề quan trọng, như đối tượng nghiên cứu,

sự phân kỳ lịch sử phát triển chủ nghĩa Mác, v.v. để làm rõ những giai đoạn phát
triển, xu thế phát triển và các quy luật cơ bản của chủ nghĩa Mác.
4. Nghiên cứu việc Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác
Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác định chủ nghĩa Mác
là tư tưởng chỉ đạo, luôn kiên trì việc kết hợp những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác với thực tiễn cụ thể của Trung Quốc, sáng tạo nên hai thành tựu lý luận
lớn trong hệ thống lý luận xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc là tư tưởng
Mao Trạch Đông và những tư tưởng chiến lược trọng yếu, trong đó bao gồm cả lý
luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng “ba đại diện” tới quan điểm phát triển khoa học,
v.v Không chỉ thế, từ tháng 10 năm 1938, trong Bàn về giai đoạn mới, sau khi
Mao Trạch Đông lần đầu tiên đưa ra nhiệm vụ Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác,
vấn đề này lại khơi dậy sự quan tâm rộng rãi của các học giả mácxít Trung Quốc;
từ cải cách mở cửa tới nay, đặc biệt là sau khi tiến vào thế kỷ XXI, giới học giả
mácxít Trung Quốc lại xoay quanh những vấn đề cơ bản, như tính tất yếu lịch sử
của việc thực hiện Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác, điều kiện cho sự thực hiện
Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác và những nguyên tắc, những yêu cầu bắt buộc
phải kiên trì Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác, tiến trình lịch sử và quy luật cơ bản
của việc Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm lịch sử cơ bản cho việc
Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác, v.v Cùng với hai thành tựu lý luận lớn trong việc
Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác, giới học giả mácxít Trung Quốc đã tiến hành


nghiên cứu chuyên sâu và giành được những thành quả lớn lao không chỉ đóng góp
cho sự hình thành và phát triển hai thành tựu lý luận trong việc Trung Quốc hóa
chủ nghĩa Mác, mà còn thúc đẩy chủ nghĩa Mác hóa đối với nền khoa học xã hội
Trung Quốc.
5. Nghiên cứu chủ nghĩa Mác trên thế giới
Việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác trên thế giới của các học giả mácxít Trung Quốc
được bắt đầu từ thập niên 60 của thế kỷ XX nhằm chống lại chủ nghĩa xét lại, khi
mà một loạt các tác phẩm của Satre, Marleau Ponty, Ernst Bloch được xuất bản

lưu hành nội bộ. Cuối những năm 70 - đầu những năm 80, công việc này đã chính
thức trở thành một lĩnh vực nghiên cứu trong nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác.
Sau năm 2005, cùng với sự ra đời bộ môn khoa học “nghiên cứu chủ nghĩa Mác
trên thế giới”, công việc nghiên cứu này càng được triển khai rộng rãi, những chủ
trương lý luận của các Đảng Cộng sản ở các nước trên thế giới, cũng như các tư
tưởng tả khuynh hay tư tưởng hữu khuynh đều trở thành đối tượng nghiên cứu.
30 năm trở lại đây, việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác trên thế giới đã chuyển trọng
tâm từ việc tìm hiểu “chủ nghĩa Mác phương Tây” và “chủ nghĩa Mác mới” sang
mô hình nghiên cứu khoa học về “chủ nghĩa Mác trên thế giới”; từ chỗ nghiên cứu
rời rạc và lấy tư tưởng triết học làm chủ đạo sang lĩnh vực nghiên cứu có hệ thống
và liên ngành nhiều khoa học; từ chỗ chủ yếu là tìm hiểu quan điểm của các học giả
trong giới nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa Mác ở nước ngoài mở rộng tới cả giới
nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa Mác trong các Đảng Cộng sản trên thế giới, tạo nên
một cục diện nghiên cứu hoàn toàn mới mẻ. Trong khoảng thời gian này, chúng ta
đã biên dịch và xuất bản được một khối lượng lớn các công trình nghiên cứu tiêu
biểu về chủ nghĩa Mác trên thế giới. Không chỉ thế, giới nghiên cứu lý luận Trung
Quốc còn cho ra đời hàng loạt chuyên khảo và công trình nghiên cứu về chủ nghĩa
Mác trên thế giới, nhưNghiên cứu lý luận về chủ nghĩa Mác ở phương Tây, Các
trường phái triết học của chủ nghĩa Mác ở nước ngoài, Những luận điểm căn bản
của “Chủ nghĩa Mác mới”, Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa đương đại,
v.v Ngoài ra, các lĩnh vực chính trị học, lịch sử, văn học nghệ thuật của chủ nghĩa
Mác cũng gặt hái được nhiều thành tựu nghiên cứu phong phú.



2. Triển vọng và tương lai phát triển của việc nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa
Mác
1. Tiếp tục tăng cường nghiên cứu, biên dịch và xuất bản các tác phẩm kinh điển của
chủ nghĩa Mác; luận giải và nhìn nhận một cách khoa học về chủ nghĩa Mác
Tăng cường biên dịch, xuất bản và nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của chủ

nghĩa Mác là đòi hỏi tất yếu của việc kiên trì và phát triển chủ nghĩa Mác. Cùng với
việc bộToàn tập C.Mác và Ph.Ăng ghen (bản tiếng Trung) được tái bản lần 2, bộ Tuyển
tập C.Mác và Ph.Ăngghen (10 tập) vàTuyển tập V.I.Lênin (5 tập) đã lần lượt ra đời.
Cùng với đó, một số bản dịch các tác phẩm kinh điển mới được phát hiện cũng đã
được xuất bản. Với việc làm này, việc nghiên cứu các tác phẩm kinh điển và những
quan điểm cơ bản của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin chắc chắn sẽ có
những bước tiến lớn; phương pháp nghiên cứu và con đường nghiên cứu với tư cách
nền tảng cho việc nghiên cứu các tác phẩm kinh điển và các quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác cũng sẽ chắc chắn nhận được sự quan tâm rộng rãi của các học giả;
việc nghiên cứu văn bản các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác, so sánh văn
bản cùng với việc nghiên cứu so sánh các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác cũng
sẽ tiếp tục được làm sâu sắc hơn và nâng cao thêm nhằm tạo ra một “khoa học
mácxít” mang đặc sắc Trung Quốc, khí khái Trung Quốc và phong cách Trung
Quốc hay “khoa học về chủ nghĩa Mác” với tư cách môn khoa học mới về lý luận
chủ nghĩa Mác.
Việc nghiên cứu các tác phẩm kinh điển và quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác là
cơ sở để lý giải và nhìn nhận một cách khoa học về chủ nghĩa Mác. Xoay quanh
những vấn đề trọng yếu, như “thế nào là chủ nghĩa Mác”, “làm thế nào để nhìn nhận
đúng đắn chủ nghĩa Mác”, các nhà lý luận chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc đã có
những tìm tòi đầy nhiệt huyết, bền bỉ và cũng đã giành được những thành tựu to
lớn. Tuy nhiên, cần phải nhận thấy rằng, việc làm thế nào để đem quan điểm phát
triển vào việc nhận thức chủ nghĩa Mác; làm thế nào để từ cách nhìn nhận toàn cục
lý giải chủ nghĩa Mác, làm sáng tỏ một cách khoa học thuộc tính bản chất, lịch sử
phát triển, quy luật sáng tạo của chủ nghĩa Mác; làm rõ đâu là những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác mà chúng ta cần phải kiên trì dài lâu, đâu là những phán
đoán lý luận cần kết hợp với thực tiễn mới để phát triển phong phú hơn, đâu là cách


lý giải kiểu giáo điều đối với chủ nghĩa Mác mà chúng ta cần phải bác bỏ, đâu là
những quan điểm sai lầm núp dưới danh nghĩa chủ nghĩa Mác mà chúng ta cần phải

làm rõ – đó vẫn là phương hướng mà chúng ta cần nỗ lực hơn nữa trong việc nghiên
cứu các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác trong suốt giai đoạn từ nay về sau.
2. Tổng kết một cách khoa học quy luật phát triển của việc nghiên cứu lý luận chủ
nghĩa Mác, không ngừng thúc đẩy tiến trình Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác
Kiên trì việc kết hợp những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với thực tiễn cụ
thể của Trung Quốc và tình hình thế giới là bí quyết cho sự thành công trong sự
nghiệp cách mạng và xây dựng Trung Quốc. Đó cũng chính là kinh nghiệm quý báu
của 60 năm nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc. Làm phong phú việc
nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác, không ngừng thúc đẩy việc Trung Quốc hóa chủ
nghĩa Mác luôn đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục kiên trì nguyên tắc kết hợp giữa
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với thực tiễn cụ thể của Trung Quốc, xử
lý đúng đắn mối quan hệ giữa “Mác học”, “Tây học” và “Quốc học”, giữ vững vai
trò chỉ đạo của chủ nghĩa Mác, tích cực tiếp thu, học hỏi những thành quả hữu ích
của triết học, khoa học xã hội phương Tây và những tinh hoa trong truyền thống văn
hóa Trung Quốc, tăng cường nghiên cứu các vấn đề biến đổi muôn màu muôn vẻ
của thế giới, đặc biệt là các vấn đề của chủ nghĩa tư bản đương đại, tổng kết một
cách khoa học lịch trình vĩ đại và kinh nghiệm lịch sử của 60 năm kể từ khi nước
Trung Quốc mới được thành lập, đặc biệt là trong 30 năm cải cách mở cửa, nắm
vững một cách chính xác các loại vấn đề của thực tiễn xã hội chủ nghĩa mang màu
sắc Trung Quốc, thực hiện sự tổng hợp đổi mới cho nghiên cứu lý luận chủ nghĩa
Mác, thúc đẩy nghiên cứu hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác để ngày càng giành
được những bước tiến lớn hơn nữa.
Nói tóm lại, cần xác lập nguyên tắc học thuật là “Mác học là thể, Tây học là dụng,
Quốc học là gốc, tình hình thế giới là gương, tình hình trong nước là điểm tựa, tiếp
tục đổi mới sáng tạo”(1). Đồng thời, thông qua việc tổng kết lịch sử phát triển 160
năm của chủ nghĩa Mác, tìm ra quy luật diễn biến của phương pháp nghiên cứu lý
luận chủ nghĩa Mác, tự giác đổi mới phương thức tư duy và mô thức nghiên cứu
cho việc nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác; tìm ra quy luật xây dựng của khoa học
lý luận chủ nghĩa Mác, bố trí hợp lý danh mục khoa học, biên giới khoa học, kết cấu

×