Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Báo cáo "Vấn đề bình đẳng giới trên thế giới " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.83 KB, 9 trang )


th«ng tin
64 §Æc san vÒ b×nh ®¼ng giíi



TS. nguyÔn ThÞ Håi *
ó thể nói, thời gian gần đây, bình đẳng
giới đã trở thành vấn đề trung tâm của
phát triển - bản thân nó là mục tiêu phát
triển đồng thời cũng là yếu tố để nâng cao
khả năng tăng trưởng của quốc gia, xoá
đói, giảm nghèo và quản lý nhà nước có
hiệu quả. Vì thế, nâng cao sự bình đẳng
giới trở thành một phần quan trọng trong
chiến lược phát triển của các quốc gia
đương đại nói chung và Việt Nam nói
riêng. Trong bài viết này, tôi muốn nêu lên
một số vấn đề về bình đẳng giới trên bình
diện quốc tế mà tôi đã tìm hiểu được để
bạn đọc cùng tham khảo.
1. Thực trạng về sự bất bình đẳng
giới trên thế giới
Có quan điểm cho rằng: “Giới là một
thuật ngữ để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng
xử xã hội và những kỳ vọng liên quan đến
nam và nữ”.
(1)
Bình đẳng giới, tức là bình
đẳng giữa nam và nữ, có thể được xem xét
dưới nhiều phương diện khác nhau trong đó


có sự bình đẳng về luật pháp, về cơ hội (bao
gồm sự bình đẳng trong thù lao cho công
việc và trong việc tiếp cận nguồn nhân lực,
vốn và các nguồn lực sản xuất khác cho
phép mở ra các cơ hội này), về “tiếng nói”
(khả năng tác động và đóng góp cho quá
trình phát triển), về thành quả và các kết
quả tạo ra. Nói chung, định nghĩa của cộng
đồng quốc tế về sự bình đẳng giới có xu
hướng chú trọng vào sự bình đẳng về cơ hội
và bình đẳng trước luật pháp. Ví dụ, tại Hội
nghị phụ nữ quốc tế ở Nairobi năm 1985,
trong Chiến lược tiến lên vì sự tiến bộ của
phụ nữ đã định nghĩa sự bình đẳng là “mục
tiêu và phương tiện mà trong đó, các cá
nhân được đối xử như nhau trước luật pháp
và có cơ hội được hưởng quyền như nhau
trong việc phát triển tài năng và kỹ năng
tiềm ẩn của mình sao cho họ có thể tham
gia vào quá trình phát triển với tư cách
vừa là đối tượng thụ hưởng vừa là tác nhân
tích cực”.
(2)

Trong những thập niên vừa qua, địa vị
của người phụ nữ trong xã hội và sự bình
đẳng giới ở nhiều nước đã đạt được những
tiến bộ vượt bậc. Tỷ lệ các bé gái theo học
tiểu học ở các nước Nam Á, Trung Đông,
Bắc Phi đã tăng gần gấp đôi và tăng

nhanh hơn tỷ lệ các bé trai. Tuổi thọ bình
quân của phụ nữ đã tăng thêm từ 15 - 20
năm ở các nước đang phát triển và ở một số
nước, tuổi thọ bình quân của phụ nữ cao
hơn nam giới. (Ví dụ, ở Việt Nam, năm
2004, tuổi thọ bình quân của phụ nữ là 71,6
tuổi và nam giới là 66,9 tuổi).
(3)
Phụ nữ
tham gia nhiều hơn vào lực lượng lao động
đã thu hẹp bớt khoảng cách giới về việc làm
và tiền lương.
Tuy đã có những tiến bộ như vậy song
sự bất bình đẳng về giới vẫn còn rất sâu
rộng trong việc tiếp cận và kiểm soát các
nguồn lực, trong các cơ hội kinh tế, quyền
C

* Giảng viên chính Khoa hành chính - nhà nước
Trường Đại học Luật Hà Nội

th«ng tin
§Æc san vÒ b×nh ®¼ng giíi 65

lực và tiếng nói chính trị ở nhiều nước. Do
đó, có thể nói: “Không ở nơi nào mà phụ nữ
và nam giới lại có quyền bình đẳng về kinh
tế, xã hội và pháp luật”,
(4)
kể cả các nước

phát triển. Sự không tương xứng về quyền
giữa nam và nữ diễn ra khá phổ biến trong
các quy định pháp luật, luật tục, thực tiễn
của các cộng đồng và gia đình. Ở Botswana,
Chilê, Namibia và Swaziland, phụ nữ chịu
sự cai quản vĩnh viễn của người chồng và
không có quyền quản lý tài sản. Ở một số
nước châu Phi, phụ nữ có chồng không
được sở hữu đất đai; người đàn ông có
quyền đòi hỏi vợ phải đóng góp sức lao
động nhưng người vợ lại không có quyền
đó đối với chồng mình. Ở Bôlivia,
Goatêmala và Siry, đàn ông có thể cấm vợ
mình làm việc ở bên ngoài. Ở Ai Cập và
Giócđani, phụ nữ phải được chồng cho phép
nếu muốn đi đây đi đó. Ở một số nước
Arập, phải có sự đồng ý của người chồng
thì người vợ mới xin được hộ chiếu nhưng
lại không có điều ngược lại. Ngay cả ở
những nơi mà phụ nữ được hưởng quyền
bình đẳng về chính trị và luật pháp như đã
được quy định trong hiến pháp và các đạo
luật khác của đất nước họ thì họ cũng không
được hưởng chúng một cách trọn vẹn trong
thực tế. Ngay ở Việt Nam, trong lĩnh vực
quyền cơ bản, hiến pháp và các đạo luật
khác đều thừa nhận quyền bình đẳng giữa
nam và nữ song hiện tại, do ảnh hưởng của
phong tục, tập quán, phụ nữ Hà Nhì phải
dậy từ 5h sáng vào rừng lấy củi trong khi

chồng ngồi nhà bế con, phụ nữ phải cày bừa
và làm tất cả các công việc nặng nhọc trên
nương trong khi chồng ở nhà uống rượu,
sau đó về nhà lại vẫn phải lo công việc nội
trợ, bếp núc cho cả gia đình.
(5)

Giáo dục là vấn đề trung tâm để mỗi
người có khả năng phản ứng lại trước
những cơ hội mà sự phát triển mang lại
song sự bất bình đẳng giới trong giáo dục
vẫn thể hiện rõ ở nhiều vùng. Ở một số
vùng như Đông Á và Thái Bình Dương,
châu Mỹ Latinh và vùng Caribê, châu Âu
và Trung Á, tỷ lệ học tiểu học của các bé
gái đạt 100% hoặc gần 100%, tỷ lệ nữ sinh
trung học bình quân hiện nay đã cao hơn
nam giới và xét trung bình, số năm đi học
của phụ nữ đã bằng khoảng 90% của nam
giới. Trong khi đó, ở châu Phi Hạ Sahara, tỷ
lệ học tiểu học của các bé gái là 54%, tỷ lệ
học trung học chỉ có 14% năm 1995 và tính
đến năm 1990, số năm đi học bình quân của
phụ nữ chỉ là 2,2 năm. Còn phụ nữ ở Nam
Á trung bình chỉ có số năm đi học bằng một
nửa của nam giới và tỷ lệ học trung học của
phụ nữ chỉ bằng một phần ba của nam giới.
Về tài sản, ở Bangladesh, tài sản của
người đàn ông khi lấy vợ trung bình trị giá
khoảng 82.000 taka năm 1996, còn của phụ

nữ chỉ là 6.500 taka. Ở Etiopia, tổng tài sản,
kể cả đất đai và vật nuôi mà người đàn ông
mang theo khi lấy vợ trung bình trị giá
khoảng 4.200 birr năm 1997 còn phụ nữ thì
chưa đến 1.000 birr. Điều này đã ảnh hưởng
đến quyền chủ động của phụ nữ, khả năng
tác động đến các quyết định trong gia đình
và địa vị kinh tế của họ.
Ở nhiều nước đang phát triển, việc đứng
tên làm chủ đất đai phần lớn thuộc về nam
giới. Tại nhiều nơi ở Hạ Sahara, phụ nữ chỉ
có được quyền đất đai thông qua hôn nhân

th«ng tin
66 §Æc san vÒ b×nh ®¼ng giíi

nhưng những quyền này chỉ được đảm bảo
khi hôn nhân còn tồn tại. Khi chồng chết
hoặc khi ly hôn, phụ nữ đều mất quyền
kiểm soát đất đai và các tư liệu sản xuất
khác. Khi phụ nữ làm chủ đất đai, mảnh
ruộng của họ thường có diện tích nhỏ hơn
mảnh ruộng do nam giới làm chủ. Ở
Nigeria, các nông trại do phụ nữ làm chủ
chỉ nhỏ bằng một phần ba diện tích nông
trại do nam giới làm chủ (0,8 ha và 2,4 ha)
và thường nằm ở những vùng đất khô cằn.
Các nông trại và các doanh nghiệp do
phụ nữ điều hành thường ít được đầu tư vốn
hơn những nông trại và doanh nghiệp do

nam giới điều hành. Ở Kenya các hộ gia
đình do phụ nữ làm chủ hộ sở hữu chưa
bằng một nửa số nông cụ mà các hộ gia
đình do nam giới làm chủ hộ sở hữu; 92%
số phụ nữ chỉ sử dụng phương pháp canh
tác thủ công, còn 32% số nam giới sử dụng
các kỹ thuật cơ giới hoá hoặc dùng gia súc
kéo. Ở Malauy, nông trại do phụ nữ làm
chủ sở hữu chỉ sử dụng số phân bón bằng
một nửa số phân bón của nông trại do nam
giới làm chủ sở hữu sử dụng. Ở Việt Nam,
“trong số những người làm chủ các doanh
nghiệp phi nông nghiệp, phụ nữ thường
có thu nhập ít hơn nam giới - mà không
phải do trình độ học vấn, tuổi tác hoặc
vùng địa lý của họ, mà là vì họ có ít quỹ vốn
hơn, có ít hàng dự trữ tồn kho hơn, hoạt
động trong những ngành thu nhập thấp hơn
và ít được đào tạo nghề hơn”.
(6)

Nữ nông dân thường ít nhận được sự hỗ
trợ kỹ thuật cho nông nghiệp từ các dịch vụ
khuyến nông hơn. Ở Hạ Sahara trong những
năm 1980, cán bộ khuyến nông đến thăm
12-70% số hộ gia đình mà nam giới là chủ
hộ nhưng chỉ đến thăm 9-58% những hộ gia
đình mà phụ nữ là chủ hộ. Nữ nông dân ít
được tiếp cận các dịch vụ này vì họ có trình
độ học vấn thấp hơn, nông trại nhỏ hơn và

vì cán bộ khuyến nông chủ yếu là nam giới
(ở châu Phi chỉ có 7% cán bộ khuyến nông
thực địa là phụ nữ) thường muốn hướng các
dịch vụ này đến những nông trại mà nam
giới làm chủ hộ. Một nghiên cứu gần đây về
tác động của việc tập huấn quản lý dịch hại
cho nông dân trồng lúa ở Việt Nam đã cho
thấy: “Trong khi có đến 55% số nam nông
dân hỏi ý kiến cán bộ khuyến nông thì chỉ
có 23% số nữ nông dân làm việc này”.
(7)

Phụ nữ thường gặp khó khăn hơn nam
giới trong việc tiếp cận các dịch vụ tài
chính. Người ta ước tính phụ nữ ở châu Phi
nhận được chưa đầy 10% tổng vốn tín dụng
dành cho các nông hộ nhỏ và 1% tổng vốn
tín dụng dành cho nông nghiệp.
Về việc làm thì ở cả các nước phát triển
lẫn đang phát triển, phụ nữ thường hiện
diện nhiều trong các ngành nghề dịch vụ,
công việc chuyên môn và kỹ thuật, công
việc văn phòng và bán hàng còn nam giới
thì có mặt nhiều trong những công việc sản
xuất cũng như các vị trí hành chính và quản
lý được trả lương cao. Phụ nữ thường nhận
được mức thù lao thấp hơn của nam giới:
“Những nghiên cứu thực tiễn gần đây từ 71
nước đã cho thấy rằng, tính trung bình ở
các nước phát triển, phụ nữ chỉ nhận được

bằng 77% của nam giới và ở các nước đang
phát triển thì con số này chỉ là 73%”.
(8)

Trong số các nước phát triển, tỷ lệ thu nhập
của nữ so với nam biến thiên từ 43% ở Nhật

th«ng tin
§Æc san vÒ b×nh ®¼ng giíi 67

Bản (1993-1994) đến 87% ở Đan Mạch
(1995); còn ở các nước đang phát triển, tỷ
lệ đó thay đổi từ 43% ở Nicaragoa (1991)
đến 90% ở Thái Lan (1989) và 101% ở Chi
Lê (1996). Với điều kiện những đặc điểm
của người lao động như trình độ học vấn và
kinh nghiệm như nhau thì ở Hàn Quốc, mức
lương của phụ nữ bằng 51% mức lương của
nam giới.
Do sự bất bình đẳng về quyền và do có
địa vị kinh tế - xã hội thấp kém hơn so với
nam giới đã hạn chế sự tham gia của phụ nữ
vào các tiến trình chính trị với tư cách là
những đại biểu tích cực cũng như tác động
tới các quyết định ở địa phương và quốc
gia. Phụ nữ trong thế kỷ XX đã giành được
quyền bầu cử ở hầu hết các nước (nhưng ở
Arập Xêut hiện tại phụ nữ vẫn chưa được
quyền bầu cử) song vẫn còn có sự phân biệt
giới khá lớn trong việc tham gia chính trị và

đại diện trong các cấp chính quyền - từ các
hội đồng địa phương cho đến các quốc hội,
nội các. Ở Đông Á, tỷ lệ trung bình số ghế
trong quốc hội do phụ nữ nắm giữ là gần
20% (ở Việt Nam trong Quốc hội khoá XI,
tỷ lệ này là khoảng 23%). Ở châu Âu và
Trung Á, tỷ lệ này giảm nhanh chóng trong
những năm cuối thập niên 80, từ 25%
xuống còn 7%. Sở dĩ như vậy là vì các nước
Đông Âu bãi bỏ quy định dành 25-33% số
ghế trong quốc hội cho phụ nữ. Ở nhiều khu
vực, tỷ lệ này không quá 10% từ năm 1975-
1995. Phụ nữ cũng có rất ít đại diện trong
chính phủ. Không ở khu vực đang phát triển
nào mà phụ nữ chiếm trên 8% số ghế bộ
trưởng vào năm 1998. Ở Trung Đông và
Bắc Phi, tỷ lệ này là 2%, ở Đông Á và vùng
Thái Bình Dương là 4%, ở Nam Á và châu
Phi Hạ Sahara là 6%, ở châu Mỹ Latinh,
Đông Âu và Trung Á là 7 - 8%. Ở Nam Á,
phụ nữ chiếm chưa đến 1% số vị trí cấp
dưới bộ, ở Trung Đông và Bắc Phi là 4%, ở
Đông Á và vùng Thái Bình Dương là 6%, ở
châu Phi Hạ Sahara là 8% và ở châu Mỹ và
vùng Caribe là 13%.
(9)

2. Cái giá phải trả cho sự bất bình
đẳng giới
Những cái giá phải trả cho sự bất bình

đẳng giới là khá lớn. Nó không chỉ gây ra
những thiệt hại cho sức khoẻ và phúc lợi
của nam giới, phụ nữ và trẻ em mà còn làm
giảm năng suất trong các nông trại, doanh
nghiệp, do đó đã hạn chế tiềm năng xoá đói,
giảm nghèo và duy trì những tiến bộ trong
kinh tế. Bất bình đẳng giới còn gây ra chi
phí gián tiếp thông qua việc chúng cản trở
tăng năng suất, hiệu quả và tiến bộ kinh tế.
Cả phụ nữ và nam giới đều phải trả giá
cho sự bất bình đẳng giới. Sự kỳ vọng
truyền thống rằng người đàn ông phải là trụ
cột chính nuôi sống gia đình và là người
quyết định trong gia đình có thể tạo cho đàn
ông nhiều nỗi lo âu và ảnh hưởng xấu đến
cuộc sống của họ. Bất bình đẳng giới dẫn
đến nạn bạo lực trong gia đình, nạn này đã
gây ra sự đau đớn và tổn thương cho những
nạn nhân và gia đình của họ, có thể dẫn đến
sự tàn tật suốt đời, suy nhược thể xác,
nghiện rượu và ma tuý, làm mất đi lòng tự
trọng và gây ra những thiệt hại rất lớn về vật
chất cho xã hội. Bạo lực trong gia đình đã
làm giảm thu nhập của phụ nữ xuống hơn
2% GDP ở Chi Lê và 1,6% ở Nicaragua năm
1996. Nạn này còn làm giảm năng suất lao

th«ng tin
68 §Æc san vÒ b×nh ®¼ng giíi


động, tăng tình trạng vô gia cư, tăng chi phí
cho các dịch vụ y tế, dịch vụ cảnh sát và
pháp luật. Chi phí bạo lực đối với phụ nữ ở
Canađa chiếm vào khoảng 1 tỷ đô la hàng
năm hoặc vào khoảng 1% GDP của Canađa,
thậm chí còn tới hơn 3,2 tỷ đô la năm 1993.
Những quyền bất bình đẳng về làm chủ
đất đai hoặc vay vốn đã tước đoạt của phụ
nữ những nguồn lực cho cuộc sống hàng
ngày của họ và cho việc bảo đảm tuổi già,
buộc họ phụ thuộc nhiều hơn vào những
người họ hàng là nam giới. Sự phân biệt
giới sâu sắc trong giáo dục đã gây ra sự
khác biệt tương ứng về năng lực của phụ
nữ và nam giới trong việc thu thập và xử
lý thông tin và giao tiếp. Sự mất cân bằng
giới trong việc tiếp cận nguồn lực và
quyền lực để lại hậu quả đối với tính tự
chủ tương đối của phụ nữ và nam giới và
ảnh hưởng của họ đến việc ra các quyết
định trong gia đình.
Bất bình đẳng giới gây tổn hại rất lớn
cho cuộc sống con người và chất lượng
cuộc sống. Ở Trung Quốc, do chính sách
chỉ có một con và ảnh hưởng của tư tưởng
trọng nam khinh nữ mà tỷ lệ tử vong của
các bé gái cao hơn của các bé trai. Một số
ước tính cho thấy số phụ nữ đang sống hiện
nay ít hơn từ 60 đến 100 triệu người so với
con số khi không có sự phân biệt đối xử

theo giới.
(10)
Trẻ em - tương lai của loài
người -phải chịu rất nhiều thiệt hại từ việc
mẹ chúng thất học, không hiểu biết, không
có nguồn lực vì người mẹ có vai trò quyết
định trong những năm đầu đời của trẻ, trình
độ học vấn và thu nhập của người mẹ có
ảnh hưởng rất lớn tới cuộc sống của con trẻ
trên nhiều mặt. Trình độ học vấn của người
mẹ ảnh hưởng rất lớn tới việc cải thiện chế
độ dinh dưỡng trực tiếp thông qua chất
lượng chăm sóc mà người mẹ dành cho con
và thông qua khả năng của người mẹ làm
giảm thiểu những cú sốc bất lợi cho con.
Điều tra về nhân khẩu và sức khoẻ mới nhất
ở hơn 40 nước đang phát triển cho thấy, tử
vong của trẻ dưới năm tuổi thấp hơn tại các
gia đình mà người mẹ có đi học tiểu học so
với những gia đình mà người mẹ không đi
học và còn thấp hơn nhiều ở những gia đình
mà người mẹ học đến trung học.
(11)
Người
mẹ có trình độ học vấn thấp sẽ ít sử dụng
các dịch vụ chăm sóc trẻ và không chú ý
đưa con đi tiêm chủng đầy đủ.
(12)
Trình độ
học vấn của người mẹ cũng ảnh hưởng tới

thành tích trí tuệ của con.
(13)
Hạn chế việc
đến trường của phụ nữ đồng nghĩa với việc
bỏ qua nhiều cơ hội để thế hệ sau có trình
độ học vấn cao hơn và làm việc có hiệu quả
hơn. Trình độ học vấn của phụ nữ còn ảnh
hưởng rất lớn tới tỷ lệ sinh: “Nếu tăng thêm
ba năm trong mức giáo dục trung bình của
phụ nữ sẽ gắn liền với việc giảm đi một con
trên mỗi phụ nữ”.
(14)
Chỉ tiếc rằng ở Việt
Nam, tỷ lệ sinh và số người sinh con thứ ba
tăng đột biến trong năm 2004 vừa qua lại
diễn ra theo chiều ngược lại, những người
sinh con thứ ba đa số là công nhân, viên
chức nhà nước, những người có trình độ
học vấn nhất định, có điều kiện tìm hiểu
Pháp lệnh dân số và hiểu về tinh thần của
Pháp lệnh này không đúng với mong muốn
của Nhà nước.
Việc phụ nữ có thu nhập thấp rất có hại
cho cuộc sống của trẻ em vì thu nhập do

th«ng tin
§Æc san vÒ b×nh ®¼ng giíi 69

phụ nữ nắm giữ tác động tới sự sống của trẻ
lớn hơn khoảng hơn 20 lần so với thu nhập

do nam giới nắm giữ bởi vì nó làm tăng
thêm phần ngân sách gia đình chi cho giáo
dục, y tế và các chi phí có liên quan tới dinh
dưỡng, làm giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng của
trẻ. Ở châu Phi, sự bất bình đẳng giới trong
việc đến trường và việc làm ở đô thị đã làm
tăng tỷ lệ người nhiễm HIV.
3. Một số giải pháp để khắc phục tình
trạng bất bình đẳng giới
Muốn đạt được sự bình đẳng giới thì
bước đi đầu tiên là phải tạo ra sự bình đẳng
về quyền cơ bản, đặc biệt là trong luật hôn
nhân và gia đình, trong việc bảo vệ phụ nữ
trước nạn bạo lực liên quan tới giới, quyền
về tài sản và các quyền chính trị. Vào
những năm đầu thế kỷ XX, các nước Bắc
Âu đã mở rộng quyền bầu cử của phụ nữ
như với nam giới. Ở Trung Quốc, Việt
Nam, nhà nước đã tạo ra các tiêu chuẩn về
quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong các
vấn đề kết hôn, ly hôn, nuôi con, về tài sản
và thừa kế tài sản trong gia đình Tại
Côlômbia và Côtxta Rica, các biện pháp cải
cách ruộng đất nhằm công khai giải quyết
những bất bình đẳng giới trong tập quán
thừa kế đã mở rộng đáng kể quyền sở hữu
đất đai cho phụ nữ. Ở Anh, người ta ước
tính rằng, Bộ luật thù lao như nhau năm
1970 đã làm tăng quỹ lương trong tất cả các
ngành lên khoảng 15%.

Nói chung, trong bình đẳng giới về
quyền pháp lý, luật quốc tế có ảnh hưởng
rất lớn tới luật quốc gia, nhất là về nhân
quyền: “Luật quốc tế đã coi bình đẳng giới
là một bộ phận của vấn đề có tính toàn
cầu lớn hơn, đó là nhân quyền và sự tự
do cơ bản - về các quyền chính trị và
kinh tế, về quyền đòi hỏi có được cá dịch
vụ y tế và giáo dục cơ sở và về quyết định
sinh con”.
(15)

Những quy định của luật quốc tế trong
lĩnh vực này được thể hiện trong nhiều văn
bản như: Tuyên ngôn toàn cầu về nhân
quyền được thông qua năm 1948, Công ước
về việc xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979 được
coi là đạo luật quốc tế về quyền của phụ nữ.
Công ước này cấm mọi sự phân biệt, loại
trừ hay cấm đoán về giới, làm tổn hại hay
vô hiệu hoá nhân quyền và sự tự do cơ bản
của người phụ nữ. Nó đem lại cho người
phụ nữ quyền bình đẳng đối với nam giới
trong việc tham gia chính trị, giáo dục, làm
việc, hôn nhân, quyết định sinh con và ly
hôn Tuyên ngôn về xoá bỏ bạo lực với
phụ nữ năm 1993 tiếp tục khẳng định các
nước cần lên án các hành vi bạo lực đối với
phụ nữ và không nên viện dẫn tới bất kỳ tập

quán, truyền thống hay khía cạnh tôn giáo
nào nhằm trốn tránh các nghĩa vụ phải loại
trừ bạo lực đó của mình. Hội nghị thượng
đỉnh thế giới về phát triển xã hội tại
Copenhagen năm 1995 đã thông qua những
cam kết tương tự về quyền con người của
phụ nữ. Gần đây nhất, tuyên bố và chương
trình hành động Bắc Kinh năm 1995 tái
khẳng định cam kết về các tiêu chuẩn nhân
quyền quốc tế, coi việc “thực thi đầy đủ các
quyền con người của phụ nữ và các em gái
là một bộ phận không thể thiếu và không
thể tách rời của các quyền con người và sự
tự do cơ bản”.
(16)


th«ng tin
70 §Æc san vÒ b×nh ®¼ng giíi

Tính đến đầu năm 2000, 165 nước thành
viên Liên hợp quốc đã phê chuẩn các công
ước này (chỉ còn lại Afghanistan và Cộng
hoà Hồi giáo Iran là chưa phê chuẩn). Việt
Nam đã chính thức phê chuẩn Công ước
CEDAW từ năm 1981. Một số nước đưa
vấn đề bình đẳng giới vào hiến pháp của họ;
một số nước khác đã sửa đổi luật hình sự để
đưa thêm vào đó tội bạo hành trong gia
đình; nhiều nước đã sửa đổi luật lao động

để quy định sự đối xử bình đẳng và cơ hội
bình đẳng giữa nam và nữ trong công tác và
việc làm; hầu hết các nước đã có chính sách
chống kỳ thị trong việc bổ nhiệm các chức
vụ trong bộ máy nhà nước và quy định cả tỷ
lệ đại biểu nữ trong các cơ quan đại diện và
theo Liên minh quốc hội thì chỉ còn hai
nước không công nhận quyền bầu cử và ứng
cử của phụ nữ là Coét và Arập Xêút.
(17)
Sự
thay đổi trong pháp luật như trên đã đặt nền
móng cho việc thúc đẩy thực hiện sự bình
đẳng giới về quyền trong thực tế mạnh mẽ
hơn. Chẳng hạn, tại Ấn Độ, hai điều bổ
sung vào hiến pháp năm 1992 yêu cầu ít
nhất 1/3 số ghế trong các hội đồng địa
phương, hội đồng thành phố và một tỷ lệ
tương đương chức chủ tịch được dành cho
phụ nữ. Trong hai năm đầu thực hiện, trên
350.000 phụ nữ đã có địa vị chính trị và
ngày càng nhiều hơn phụ nữ ra tranh cử.
Uganđa cũng đã có một số bước đi nhằm
tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào
chính trị, bao gồm việc dành một số vị trí
chính thức cho phụ nữ trong cơ cấu quản lý
địa phương và trong việc đại diện cho các
quận trong quá trình lập pháp. Kết quả là có
thêm nhiều phụ nữ trong chính phủ. Kể từ
năm 1989, phụ nữ đã chiếm 18% số ghế

trong quốc hội. Ở Costa Rica, phụ nữ chiếm
tới 45% những người được đứng tên sở hữu
đất đai trong giai đoạn 1990 - 1992, so với
chỉ có 12% trước cải cách. Tại Colombia,
sau một quy định về quyền cùng đứng tên
sở hữu, số đất đai được hai vợ chồng cùng
đứng tên sở hữu chiếm tới 60% diện tích
đất được công nhận quyền sở hữu năm
1996, so với 18% năm 1995. Diện tích đất
chỉ do nam giới đứng tên sở hữu giảm từ
63% xuống 24% trong thời gian này. Ở Việt
Nam, Điều 48 Luật đất đai năm 2003 quy
định: “Trường hợp quyền sử dụng đất là tài
sản chung của vợ chồng thì giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất phải ghi cả họ, tên
vợ và họ, tên chồng”. Rất nhiều nước áp
dụng những luật lệ bảo đảm sự đối xử bình
đẳng giữa phụ nữ và nam giới ở nơi làm
việc. Ví dụ như luật lệ trả lương bằng nhau
cho những công việc như nhau nhằm mục
đích kiến tạo “sân chơi bình đẳng” cho phụ
nữ và nam giới trên thị trường lao động,
thông qua việc yêu cầu người chủ phải trả
lương như nhau cho những người lao động
thực hiện cùng một công việc với hiệu quả
như nhau, bất kể người đó thuộc giới nào.
Bộ luật việc làm bình đẳng về giới năm
1985 của Hàn Quốc đã tạo ra những cơ hội
mới cho người phụ nữ trong các công việc
chuyên môn và kỹ thuật có mức lương cao

hơn. Luật này yêu cầu các công ty phải tạo
cơ hội bình đẳng cho phụ nữ trong các vấn
đề như tuyển dụng, thuê mướn nhân công,
địa vị công việc, đào tạo và đề bạt. Luật này

th«ng tin
§Æc san vÒ b×nh ®¼ng giíi 71

đã tăng số lượng việc làm cho phụ nữ song
nó đã không giúp phụ nữ thâm nhập vào các
vị trí hành chính và quản lý, nó cũng không
giúp cải thiện được thu nhập của phụ nữ so
với nam giới như mức độ mà học vấn và
kinh nghiệm của họ có thể mang lại. Nhiều
nước đưa ra luật lao động, quy định chế độ
thai sản cho phụ nữ và hạn chế việc phụ
nữ phải tiếp xúc với những công việc
nặng nhọc và mạo hiểm. Những luật lệ
này đã mang lại nhiều lợi ích cho phụ nữ
song nhiều khi những người phụ nữ được
bảo vệ lại phải gánh chịu những cái giá
của nó. Do làm tăng chi phí thuê mướn
phụ nữ của người sử dụng lao động nên
các luật này đã làm giảm việc làm và tiền
lương cho phụ nữ.
Như vậy, thời gian gần đây, quyền bình
đẳng của phụ nữ với nam giới về mặt pháp
lý đã được cải thiện khá nhiều song sự thay
đổi trong pháp luật chưa đủ để đảm bảo
rằng sự bình đẳng về quyền giữa nam và nữ

sẽ trở thành hiện thực hoàn toàn trong thực
tế, bởi lẽ, việc thực thi các quy định trên
của cả luật quốc tế lẫn luật quốc gia đều còn
nhiều hạn chế. Chẳng hạn, các nước đã
tham gia đều có nghĩa vụ điều chỉnh các
luật lệ, chính sách, hành động của mình cho
phù hợp với các điều khoản của Công ước
đã phê chuẩn, song rất nhiều nước vẫn chưa
tuân thủ hoàn toàn. Thêm vào đó, nhiều
nước đã phê chuẩn Công ước có bảo lưu,
điều này nhiều khi đã làm giảm các tiêu
chuẩn mà Công ước đã nêu ra. Ví dụ, sự bảo
lưu của Bangladesh trong CEDAW đã
không ràng buộc quốc gia này vào những
điều khoản cụ thể trái với luật Sharia, luật
dựa vào kinh Coran và luật Suma. Đa số
hiến pháp của các quốc gia trên thế giới đều
khẳng định nguyên tắc về các quyền cơ bản
của con người và về mặt nguyên tắc, rất
nhiều hiến pháp công khai quy định việc
không phân biệt đối xử nam nữ về những
quyền này. Song trong thực tế, các quy định
trên chưa trở thành hiện thực hoàn toàn. Rất
nhiều hiến pháp quy định quyền bầu cử và
ứng cử vào các cơ quan nhà nước cho cả
nam giới và phụ nữ song trong thực tế, sự
chênh lệch giới về trình độ học vấn và tiếp
cận thông tin vẫn hạn chế sự tham gia của
phụ nữ vào diễn đàn chính trị. Rất nhiều
nước đã ban hành luật giáo dục bắt buộc,

coi giáo dục cơ sở là một quyền của con
người, không có sự phân biệt về giới. song
trong thực tế, tỷ lệ các bé gái đến trường
vẫn ít hơn các bé trai.
Nhiều khi, sự không rõ ràng của luật, sự
mâu thuẫn giữa luật thành văn với luật tục,
giữa các hệ thống pháp lý cũng ảnh hưởng
khá tiêu cực tới sự bình đẳng giới. Ở Lào,
theo Luật lâm nghiệp năm 1996 và Luật đất
đai năm 1997 thì phụ nữ không bị loại trừ
khỏi song cũng không được tính đến rõ ràng
trong quá trình phân đất và cấp quyền sở
hữu đất. Tuy nhiên, trên thực tế, việc cấp
quyền sở hữu đất, phân đất và các thủ tục
đăng ký khác sử dụng những mẫu đơn từ
chính thức đòi hỏi phải có người chủ hộ -
thường là người chồng. Do vậy, trong khi
phong tục của Lào cho phép phụ nữ được
thừa kế đất đai từ cha mẹ thì các văn bản
pháp lý lại bác bỏ quyền sở hữu đất đai theo

th«ng tin
72 §Æc san vÒ b×nh ®¼ng giíi

luật tục bằng những thủ tục loại trừ người
phụ nữ, do vậy, đàn ông đang dần nắm
quyền sở hữu nhiều hơn và gây ra những
thiệt thòi cho phụ nữ. Các chương trình cải
cách ruộng đất ở Kenya phải tuân theo các
hệ thống pháp lý chồng chéo lẫn nhau, phản

ánh những khác biệt trong nền tảng văn hoá
và tôn giáo của người dân - gồm luật tục,
luật đạo Hồi, luật Hindu và luật dân sự
thành văn, mỗi luật có những điều khoản
và những hạn chế khác nhau đối với quyền
tài sản của nữ giới. Một số luật tục cho
phép con trai độc quyền thừa kế, trong khi
các bà vợ và con gái chưa đi lấy chồng có
quyền tiếp tục được cấp dưỡng và con gái
đã đi lấy chồng không được đòi hỏi gì về
tài sản của người cha đã quá cố. Luật Hồi
giáo cho các quả phụ có con được hưởng
1/8 tài sản khi chồng chết, trong khi đó
một quả phụ không có con được hưởng
1/4. Con gái được hưởng 1/2 số tài sản mà
anh hay em trai của họ nhận được.
Ngoài việc thừa nhận sự bình đẳng
giữa nam và nữ trong pháp luật, muốn cho
sự bình đẳng giới trở thành hiện thực còn
cần tới nhiều biện pháp khác. Đó là, tổ
chức thực hiện pháp luật một cách nghiêm
chỉnh trong thực tế; giáo dục ý thức tôn
trọng thực hiện pháp luật cho mọi người,
nhất là những nhân viên thực thi luật pháp;
giáo dục cho phụ nữ hiểu biết về những
quyền của mình và ý thức đấu tranh đòi và
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bản
thân mình đồng thời còn phải thực hiện
sự thay đổi trong các thể chế khác. Ở Việt
Nam, việc thành lập Ban vì sự tiến bộ của

phụ nữ với tư cách là một tổ chức nhà
nước đã góp phần khá tích cực vào cuộc
đấu tranh này.
Cùng với nhà nước, các tổ chức phi
chính phủ cũng có vai trò quan trọng
trong việc đấu tranh cho sự bình đẳng
giới. Ở Việt Nam, các tổ chức phụ nữ hoạt
động khá tích cực để bảo vệ quyền cơ bản
của phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là vận động
xoá bỏ các tập tục lạc hậu nhằm xoá bỏ
dần tình trạng bất bình đẳng giới. Ví dụ, hội
liên hiệp phụ nữ địa phương và bộ đội biên
phòng đang tích cực vận động xây dựng
hương ước để thay đổi tập tục lạc hậu của
người Hà Nhì, để giảm bớt công việc nặng
nhọc cho phụ nữ và yêu cầu đàn ông phải
giúp đỡ vợ trong công việc. Ở Trung Quốc,
các lực lượng phụ nữ thuộc liên hiệp phụ nữ
tích cực vận động thực hiện các chính sách
loại bỏ việc cưỡng ép kết hôn, chế độ đa thê,
mua bán cô dâu và tảo hôn
Với sự tích cực của cộng đồng quốc tế, của
các nhà nước và các tổ chức phụ nữ như hiện
nay, hy vọng rằng vấn đề bình đẳng giới trên
thế giới sẽ nhanh chóng được cải thiện theo
chiều hướng ngày càng tốt hơn để có thể giảm
bớt rồi đi đến xoá bỏ được sự bất bình đẳng giới
trong cả luật pháp lẫn thực tế./.

(1), (2), (4), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13),

(14), (15), (16), (17). Xem: “Đưa vấn đề giới vào
phát triển thông qua sự bình đẳng giới về quyền,
nguồn lực, tiếng nói”. Nxb. Văn hoá - Thông tin. Hà
Nội 2001, tr. 36, 73, 4, 55, 59, 61, 75, 9, 83, 89, 88,
79, 100, 123, 43.
(3). Theo tin của Đài truyền hình Việt Nam ngày
26/12/2004.
(5). Theo tin của Đài truyền hình Việt Nam ngày
4 /1/2005.

×