Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1959 với việc bảo đảm vấn đề bình đẳng giới trong gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 13 trang )

ĐỀ BÀI SỐ 8: Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1959 với việc
bảo đảm vấn đề bình đẳng giới trong gia đình.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................1
NỘI DUNG.................................................................................................2
1, Khái quát chung về Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1959 và
vấn đề bình đẳng giới trong gia đình..................................................................2
2, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1959 với việc bảo đảm vấn
đề bình đẳng giới trong gia đình.........................................................................3
2.1, Quyền bình đẳng trong việc kết hôn c

a
nam và
n
ữ.......................4
2.2, Bình đẳng trong quan hệ vợ chồng......................................................6
2.3, Quyền bình đẳng giữa cha và mẹ trong việc thực hiện quyền cha mẹ
đối với con..........................................................................................................9
3, Việc bảo đảm bình đẳng giới trong gia đình hiện nay...........................11
KẾT LUẬN...............................................................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................13
1
LỜI MỞ ĐẦU
Thực chất của cụm từ "bình đẳng giới" chính là bình đẳng nam nữ và là
một trong những vấn đề cơ bản của quyền con người. Xã hội ngày càng phát
triển và văn minh thì bình đẳng giới càng được chú trọng và thể hiện ở mọi
lĩnh vực của đời sống - xã hội, trong đó có hôn nhân và gia đình. Trong chế độ
thực dân phong kiến, phụ nữ cùng nhân dân lao động cả nước sống trong tăm
tối bị áp bức bất công, chịu nhiều thiệt thòi, không được bảo vệ dưới bất kỳ
hình thức nào. Cho đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng và Nhà
nước ta rất quan tâm thực hiện vấn đề bình đẳng nam nữ. Điều này đã được thể


hiện trong các văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước, trong đó Luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1959 (Luật HN&GĐ năm 1959) cơ bản
đã bảo đảm vấn đề này. Trước những ghi nhận tiến bộ về bình đẳng giới ngay
từ những ngày đầu độc lập, chúng em xin trình bày đề bài:"Luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam năm 1959 với việc bảo đảm vấn đề bình đẳng giới trong
gia đình".
Cuối cùng chúng em xin cảm ơn thầy cô đã ra đề tài và hướng dẫn chúng
em nghiên cứu đề tài này một cách khoa học và nghiêm túc. Trong quá trình
làm bài, với hiểu biết còn hạn chế, chúng em không tránh khỏi những thiếu sót
mong nhận được những ý kiến của thầy cô và các bạn để bài làm được hoàn
thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
1, Khái quát chung về Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1959
và bình đẳng giới trong gia đình
Trong quá trình cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến
vấn đề phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Ngay từ những năm đầu
thành lập Đảng, trong Án Nghị quyết Trung ương toàn thể hội nghị của Đảng
Cộng sản Đông Dương (tháng 10-1930) về công tác phụ nữ vận động đã nhận
định “Phải làm cho quần chúng phụ nữ lao khổ tham gia vào những cuộc đấu
tranh cách mạng của công nông, đó là điều cốt yếu nhất, nếu phụ nữ đứng
2
ngoài cuộc đấu tranh cách mạng của công nông thì sẽ không bao giờ đạt mục
đích phụ nữ giải phóng được”.
Thấm nhuần quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin, vì thế ngay từ
những buổi đầu thành lập, Đảng đã khẳng định: trong một nước nửa thuộc địa,
nửa phong kiến như Việt Nam, người phụ nữ chịu nhiều tầng áp bức (áp bức
của thực dân, áp bức của phong kiến), lại thêm sự phân biệt đối xử “trọng nam
khinh nữ”. Do vậy, con đường giải phóng phụ nữ không thể tách rời sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà (1946) quan điểm bình đẳng nam nữ đã được ghi trong điều

9 “Đàn bà ngang quyền với đàn ông trên mọi phương diện”, đã đánh dấu bước
ngoặt quan trọng về quan điểm bình đẳng giới và chống phân biệt đối xử nam -
nữ. Với bối cảnh lúc đó, Nhà nước thấy cần thiết ban hành Luật HN&GĐ,
nhằm điều chỉnh những quan hệ trong lĩnh vực hôn nhân – gia đình. Quyền
bình đẳng giới trong gia đình cũng được quy định rõ ràng, chi tiết.
Bình đẳng giới trong gia đình là việc vợ và chồng, con trai và con gái, các
thành viên nam và nữ trong gia đình có vị thế, vai trò ngang nhau, có quyền
được tạo điều kiện cơ hội phát huy năng lực trong sự phát của gia đình như
nhau và có quyền tham gia quyết định các vấn đề của bản thân và gia đình
ngang nhau.
2, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1959 với việc bảo đảm
bình đẳng giới trong gia đình
Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chứng minh những biến đổi về cơ
cấu và chức năng của gia đình luôn gắn liền với sự thay đổi về kinh tế và xã
hội của mỗi quốc gia. Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, đánh dấu một thời kỳ mới trong quá trình
phát triển xã hội của dân tộc ta. Quyền bình đẳng nam, nữ và chế độ hôn nhân
một vợ một chồng được Nhà nước công nhận và quy định tại Hiến pháp đầu
tiên của nước ta năm 1946 và trong Luật HN&GĐ năm 1959, thể hiện sự tiến
bộ xã hội, góp phần thúc đẩy việc hình thành và từng bước hoàn thiện quyền
3
dân chủ trong quan hệ gia đình Việt Nam. Điều 1 Luật HN&GĐ năm 1959 quy
định: "Nhà nước đảm bảo việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến
bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con
cái, nhằm xây dựng những gia đình hạnh phúc, dân chủ và hòa thuận, trong đó
mọi người đoàn kết, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ".
Hôn nhân tự nguyện tiến bộ, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác bao hàm
cả hai khía cạnh, đảm bảo quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn. Dựa trên quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là
một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

nói chung và Luật HN&GĐ năm 1959 nói riêng, trên cơ sở nam nữ được bình
đẳng trong việc thực hiện quyền kết hôn cũng như ly hôn theo quy định của
pháp luật.
2.1, Quyền bình đẳng trong việc kết hôn c

a
nam và
n

Theo quy định Luật HN&GĐ năm 1959, kết hôn được hiểu là việc nam
nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn
và đăng kí kết hôn. Theo quy định tại Điều 2 Luật HN&GĐ năm 1959: “ Xóa
bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam
khinh nữ, coi rẻ quyền lợi của con cái”, đồng thời theo quy định tại Điều 3 luật
này: “ Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu sách của cải
trong trong việc cưới hỏi, đánh đập hoặc ngược đãi vợ. Cấm lấy vợ lẽ”. Quyền
kết hôn là quyền gắn với nhân thân của mỗi bên nam nữ, quyền này được ghi
nhận và bảo vệ. Theo quy định tại Điều 4 Luật HN&GĐ năm 1959: “Con trai
và con gái đến tuổi, được hoàn toàn tự nguyện quyết định việc kết hôn của
mình; không bên nào được ép buộc bên nào, không một ai được cưỡng ép hoặc
cản trở”. Sự tự nguyện của hai bên là điều kiện kết hôn luật định; nếu thiếu sự
tự nguyện của một trong hai bên nam nữ thì các bên không đủ điều kiện để kết
hôn, trường hợp đã xác lập quan hệ hôn nhân ấy sẽ không được thừa nhận.
Đảm bảo cho các bên nam nữ được tự do kết hôn cho nên việc tự nguyện
quyết định chuyện hôn nhân của mỗi bên nam nữ là yêu cầu quan trọng được
4
nhà làm luật ghi nhận và bảo vệ. Theo đó, mỗi bên nam nữ đều bình đẳng
trong việc bày tỏ ý chí của mình về việc đồng ý hay không đồng ý xác lập quan
hệ hôn nhân với người kia. Luật Hôn nhân và gia đình cũng ghi nhận quyền tự
do của hai bên nam nữ khi xác lập quan hệ hôn nhân, đồng thời nghiêm cấm

tục cướp vợ để cưỡng ép người phụ nữ làm vợ, tục nối dây, ép người khác kết
hôn trái với ý muốn của họ hoặc các hành vi lợi dụng việc xem tướng số hay
các hình thức mê tín di đoan khác để cản trở việc thực hiện quyền tự do kết
hôn của các bên nam nữ. Khi vợ hoặc chồng chết, Sắc lệnh số 97/SL ngày
22/05/1950 quy định vẫn được tái giá nhưng đối với người vợ góa thì phải sau
mười tháng chồng chết mới được lấy chồng khác, người vợ goá vẫn có thể tái
giá nếu chưng rõ được rằng mình không có thai, hoặc là đã có thai với chồng
trước để tránh sự lẫn lộn về con cái. Luật HN&GĐ năm 1959 đã không quy
định về thời gian này, cụ thể ghi nhận tại Điều 8 như sau: "Đàn bà góa có
quyền tái giá; khi tái giá, quyền lợi của người đàn bà góa về con cái và tài sản
được bảo đảm". Theo quan niệm xưa, người vợ phải "tam tòng", nay với quan
niệm đổi mới cùng với nhu cầu "tìm người bầu bạn", Luật quy định có phần
"nới lỏng" hơn. Tái giá được coi là "quyền" của người phụ nữ, họ cũng được
hưởng quyền sống đầy đủ về tinh thần.
Đồng thời, Điều 11 Luật HN&GĐ năm 1959 quy định rõ "Việc kết hôn
phải được Uỷ ban hành chính cơ sở nơi trú quán của bên người con trai hoặc
bên người con gái công nhận và ghi vào sổ kết hôn. Mọi nghi thức kết hôn khác
đều không có giá trị về mặt pháp luật". Quy định như vậy nhằm đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của cả hai bên. Chứng nhận cho người con trai và cả
người con gái việc đi đến kết hôn của họ là tự nguyện, bình đẳng và hợp pháp.
Như vậy, không chỉ ghi nhận sự bình đẳng giữa nam và nữ về quyền tự do
kết hôn, pháp luật còn đảm bảo cho quyền đó được thực hiện bằng sức mạnh
cưỡng chế. Để bảo vệ một cách có hiệu quả sự bình đẳng giữa nam và nữ trong
việc thực hiện quyền tự do kết hôn cần phải tạo ra cho người phụ nữ những "cơ
hội" để họ có thể thực hiện được quyền này.
5

×