Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo "Vai trò của toà án quốc tế trong giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.49 KB, 10 trang )


Đặc san 60 năm liên hợp quốc
38
Tạp chí luật học






vũ thị mai liên *
ranh chp quc t l mt hin tng xó
hi ny sinh lõu i t khi cỏc quc gia
hỡnh thnh v cú quan h vi nhau. Trong
tin trỡnh lch s ca loi ngi, vic s
dng bin phỏp v lc nh chin tranh
gii quyt bt ng l mt hin tng ph
bin. T khi Hi quc liờn c thnh lp,
Phỏp vin thng trc quc t c lp ra vi
t cỏch l c quan ti phỏn ca Hi, bờn cnh
cỏc bin phỏp ho bỡnh nh m phỏn, mụi
gii, trung gian, iu tra, ho gii, trng ti cỏc
quc gia cú th gii quyt tranh chp bng bin
phỏp to ỏn. To ỏn quc t ca Liờn hp quc
- t chc c thnh lp sau Chin tranh th
gii th II vi mc tiờu c bn l duy trỡ ho
bỡnh v an ninh quc t, c xem l bc
phỏt trin cao nht ca hỡnh thc gii quyt
tranh chp ny.
Trong nhng nm qua, To ỏn quc t ó
khng nh c vai trũ l c quan ti phỏn


ton cu trong vic gii quyt hũa bỡnh cỏc
tranh chp gia cỏc quc gia; cú nhiu úng
gúp cho vic thc thi s mnh gỡn gi hũa
bỡnh v an ninh quc t ca Liờn hp quc.
Trờn c s gii thiu khỏi quỏt v thm
quyn ca To ỏn quc t, bi vit ny s tp
trung phõn tớch v ỏnh giỏ vai trũ ca c
quan ti phỏn ny trong vic gii quyt hũa
bỡnh cỏc tranh chp quc t trong lch s 60
nm tn ti v phỏt trin ca Tũa ỏn núi
riờng v Liờn hp quc núi chung
I. TềA N QUC T - C QUAN TI
PHN CHNH CA LIấN HP QUC
iu 92 Hin chng Liờn hp quc
quy nh: To ỏn quc t l c quan ti
phỏn chớnh ca Liờn hp quc. To ỏn hot
ng phự hp vi mt quy ch, c xõy
dng trờn c s Quy ch Phỏp vin thng
trc quc t. Quy ch ca To ỏn cụng lớ
quc t kốm theo Hin chng ny l mt b
phn hp thnh ca Hin chng.
Ngy 12/11/1974, i hi ng Liờn hp
quc ó thụng qua Ngh quyt 3232 (XXIX)
v ỏnh giỏ li vai trũ ca To ỏn quc t,
tip tc khng nh To ỏn l mt c quan
chớnh ca Liờn hp quc cú vai trũ to ln
trong vic gii quyt ho bỡnh cỏc tranh chp
quc t.
Trc ht, To ỏn quc t cú thm quyn
gii quyt ho bỡnh cỏc tranh chp phỏp lớ

gia cỏc quc gia trờn c s lut phỏp quc
t. Theo quy nh ca To ỏn, mt tranh
chp phỏp lớ l s bt ng trờn mt im
ca lut hay s kin, mt s i khỏng, mt
s i lp nhau gia cỏc lp lun phỏp lớ
hoc quyn li. Thc t, tranh chp phỏp
lớ l tranh chp cú th gii quyt bng vic
T

* V phỏp lut v iu c quc t
B ngoi giao

§Æc san 60 n¨m liªn hîp quèc
T¹p chÝ luËt häc 39

áp dụng những nguyên tắc, quy phạm của
luật pháp quốc tế và bản thân nó không liên
quan đến động cơ chính trị giữa các quốc
gia”.
(1)
Các tranh chấp pháp lí mà Toà án
quốc tế có thẩm quyền giải quyết bao gồm:
“a. Giải thích điều ước. b. Các vấn đề của
luật pháp quốc tế. c. Sự vi phạm nghĩa vụ
quốc tế. d. Tính chất và mức độ bồi thường
đối với việc vi phạm nghĩa vụ quốc tế”
(khoản 2 Điều 36 Quy chế của Toà).
Mặc dù đã được khẳng định rõ trong
Quy chế, vẫn còn có những ý kiến khác nhau
về việc liệu Toà án quốc tế có thẩm quyền

giải quyết một tranh chấp mang cả tính chất
pháp lí và chính trị hay không. Liên quan
đến vấn đề này, trong vụ Các nhân viên
ngoại giao và lãnh sự Mĩ ở Teheran, Toà án
quốc tế đã nhấn mạnh rằng: “Các tranh chấp
pháp lí giữa các quốc gia có chủ quyền rất
có khả năng xảy ra trong bối cảnh chính trị
và thường hình thành một yếu tố của những
vấn đề chính trị kéo dài và rộng lớn giữa các
quốc gia. Tuy nhiên, chưa bao giờ có quan
điểm đưa ra cho rằng vì tranh chấp được
chuyển cho Toà án quốc tế chỉ là một khía
cạnh của tranh chấp chính trị cho nên Toà
phải từ chối giải quyết những vấn đề pháp lí
bất đồng giữa các quốc gia có liên quan”.
(2)

Như thế, ngay cả đối với một tranh chấp
được chuyển cho Toà án quốc tế mà một bên
cho là mang tính chính trị và vì thế nằm
ngoài thẩm quyền xét xử của mình, Toà án
vẫn xác nhận có thẩm quyền xét xử nếu thấy
có tranh chấp về khía cạnh pháp lí trong vụ
việc đó. Trong vụ các hoạt động quân sự và
bán quân sự tại Nicaragua và chống lại
Nicaragua năm 1985,
(3)
Toà án đã bác bỏ
việc Mĩ phủ nhận thẩm quyền xét xử của
Toà đối với vụ việc với lí do xung đột ở

Trung Mĩ không phải là tranh chấp pháp lí
mà là một vấn đề chính trị. Quan điểm của
đa số các thẩm phán trong vụ này là Toà án
có thể xác nhận những vấn đề về thực tế và
luật pháp mà Toà án quốc tế có thẩm quyền
giải quyết bất chấp nguồn gốc và hệ quả
chính trị của một tranh chấp đặc biệt nào.
Tuy nhiên, khác với các toà trọng tài,
Toà án châu Âu (Toà Luxembourg), Toà án
nhân quyền châu Âu (Toà Strasbourg), Toà
án quốc tế không giải quyết các tranh chấp
giữa các quốc gia với các tổ chức quốc tế
hay các tự nhiên nhân. Chỉ có các quốc gia
mới có quyền kiện ra Toà án quốc tế để giải
quyết các tranh chấp pháp lí giữa họ. Liên
hợp quốc cũng như tất cả các tổ chức chuyên
môn không được quyền sử dụng cơ chế giải
quyết tranh chấp này. Các quốc gia thành
viên của Hiến chương Liên hợp quốc “trên
thực tế” (ipso facto) trở thành thành viên của
Quy chế Toà án quốc tế, do vậy thành viên
Liên hợp quốc là các quốc gia đầu tiên được
sử dụng cơ chế của Toà để giải quyết tranh
chấp. Các quốc gia không phải là thành viên
có thể tham dự vào quá trình giải quyết tranh
chấp trước Toà với tư cách bên nguyên, bên
bị hay bên can dự với điều kiện thoả mãn các
yêu cầu do Đại hội đồng đề ra trong từng
trường hợp cụ thể trên cơ sở các khuyến nghị
của Hội đồng bảo an.

Bên cạnh đó, Toà án quốc tế có thẩm
quyền đưa ra ý kiến tư vấn về các vấn đề
pháp lí mà Đại hội đồng, Hội đồng bảo an
cũng như các cơ quan chuyên môn khác của
Liên hợp quốc (17 cơ quan) được phép của

Đặc san 60 năm liên hợp quốc
40
Tạp chí luật học
i hi ng yờu cu (theo iu 65 Quy ch
To ỏn quc t). i hi ng hay Hi ng
bo an cú th yờu cu To a ra ý kin t
vn v bt kỡ vn phỏp lớ no. Cỏc c
quan khỏc ca Liờn hp quc bt kỡ lỳc no
c i hi ng cho phộp u c quyn
yờu cu t vn v bt kỡ vn phỏp lớ ny
sinh trong phm vi hot ng ca mỡnh
(iu 106 Quy ch To ỏn quc t).
ỏnh giỏ c vai trũ ca To ỏn
quc t trong vic gii quyt cỏc tranh chp
quc t, trc ht cn phi nhỡn vo hiu qu
thc hin chc nng th nht ca To trong
lch s hot ng 60 nm qua.
II. VAI TRề CA TO N QUC T
TRONG VIC GII QUYT HO BèNH
CC TRANH CHP QUC T
Trong 60 nm qua, rt nhiu tranh chp
phỏp lớ mang tớnh cht i khỏng
(contentious disputes) ó c cỏc quc gia
a ra trc To ỏn quc t di hai hỡnh

thc: Thụng qua mt tho thun c bit
(compromis) hoc trờn c s cụng nhn
trc thm quyn bt buc ca To.
1. To ỏn quc t gii quyt tranh
chp phỏp lớ gia cỏc quc gia trờn c s
mt tho thun c bit (compromis)
Khon 1 iu 40 Quy ch To ỏn quc
t quy nh: Mi v vic c a ra trc
To, tu theo tng trng hp, thụng qua
vic gi mt tho thun c bit hoc mt
n kin n th kớ To; trong c hai trng
hp, i tng tranh chp v cỏc bờn tranh
chp phi c ch rừ.
Theo quy nh trờn, thm quyn xột x
ca To trc tiờn c xỏc nh thụng qua
mt tho thun c bit c kớ gia cỏc
quc gia liờn quan khi tranh chp ó ny
sinh cũn gi l compromis. õy l vn bn
th hin s t nguyn gia hai hay nhiu
quc gia cựng ng ý a tranh chp ra
trc To ỏn quc t phõn x. Tho thun
c bit compromis khụng ch xỏc lp thm
quyn ca To ỏn quc t m cũn phi ch rừ
i tng cng nh gii hn cỏc vn phỏp
lớ m To cn gii quyt. Tho thun cũn cú
th quy nh lut m To s ỏp dng gii
quyt tranh chp mc dự iu 38 Quy ch
To ỏn quc t ó ch ra cỏc ngun ca lut
phỏp quc t m To cú th s dng. Bn
compromis in hỡnh trong lch s ca To

l tho thun c bit trong v thm lc a
bin Bc trong ú c, an Mch v H
Lan ó tho thun:
(1) To ỏn quc t c yờu cu tr
li cõu hi sau: cỏc nguyờn tc v quy nh
no ca lut quc t c ỏp dng phõn
nh cỏc khu vc trờn thm lc a Bin Bc
gia cỏc bờn
(2) Chớnh ph cỏc nc s phõn nh
thm lc a Bin Bc gia cỏc bờn thụng
qua tho thun phự hp vi phỏn quyt m
To ỏn quc t a ra.
i vi trng hp tranh chp c a
ra To ỏn quc t theo hỡnh thc ny, To ỏn
quc t s hot ng ging nh mt c quan
trng ti quc t cụng (public international
arbitration) theo ú thm quyn ca To
c xỏc lp theo tng v vic, trờn c s
mt tho thun c bit (ad hoc) gia cỏc
bờn khi tranh chp ó ny sinh. Thc t cho
thy, cỏc phỏn quyt cú hiu qu nht ca
To ỏn quc t chớnh l cỏc phỏn quyt trong
cỏc v vic c a ra To theo hỡnh thc

§Æc san 60 n¨m liªn hîp quèc
T¹p chÝ luËt häc 41

thoả thuận compromis. Điều này xuất phát từ
một nguyên nhân khách quan đó là tại thời
điểm tranh chấp xảy ra, sau khi cân nhắc lợi

ích của mình trong hoàn cảnh cụ thể đó, các
bên mới tự nguyện đưa tranh chấp ra trước
Toà để tìm kiếm câu trả chính thức cho vấn
đề pháp lí mà hai bên đang tranh cãi vì vậy
phán quyết của Toà thường được tôn trọng
đầy đủ. Mặt khác, khi các bên cùng thoả
thuận đưa tranh chấp ra Toà, hai bên ở vị trí
bình đẳng với nhau (không có nguyên đơn,
bị đơn) và đều chủ động chuẩn bị “hầu toà”.
Yếu tố tâm lí này là một trong những yếu tố
quan trọng đối với phản ứng sau này của mỗi
bên đối với phán quyết cuối cùng của Toà.
Tuy nhiên, trên thực tế, các bên tranh chấp ít
khi sử dụng thoả thuận đặc biệt đối với các
vấn đề nhạy cảm hoặc được dư luận trong
nước quan tâm đặc biệt vào các thời điểm
chính trị đặc biệt.
Có thể coi vụ các quần đảo Minquiers và
Ecrehos là ví dụ tiêu biểu cho phương thức
hoạt động như một cơ quan trọng tài của Toà
án quốc tế. Bằng thoả thuận đặc biệt ngày
29/12/1950, Anh và Pháp đã gửi đến Toà án
quốc tế câu hỏi như sau: “Toà án quốc tế
được yêu cầu để xác định chủ quyền đối với
các đảo và bãi đá (theo đó Toà có thể tiến
hành quy thuộc) thuộc nhóm đảo Minquiers
và Ecrehos lần lượt thuộc về Vương quốc
Anh hay Cộng hoà Pháp”.
(4)
Quần đảo

Minquiers và Ecrehos nằm giữa đảo Jersey
của Anh và bờ biển Normandie của Pháp.
Do từ lâu các đảo này không có giá trị gì đặc
biệt nên chủ quyền đối với chúng chưa bao
giờ được quy thuộc một cách thực sự. Khi
hai nước tiến hành phân định thềm lục địa,
vấn đề nước nào sở hữu các quần đảo này lại
trở nên đặc biệt quan trọng. Không thể đạt
được thoả thuận thông qua đàm phán ngoại
giao, Anh và Pháp đã quyết định đưa vấn đề
ra Toà án quốc tế.
Khi xem xét kĩ bối cảnh của tranh chấp
này ta có thể nhận thấy nguyên do vì sao các
vấn đề tương tự như trường hợp này thường
được các bên tình nguyện đưa ra giải quyết
tại Toà án quốc tế. Thứ nhất, vụ Minquiers
và Ecrehos là một tranh chấp mà việc giải
quyết vấn đề pháp lí sẽ quyết định câu trả lời
cuối cùng. Phán quyết cuối cùng của Toà
chủ yếu dựa trên giá trị pháp lí của các bằng
chứng của việc thực thi chủ quyền theo đó
đối với quần đảo Ecrehos: “Dựa trên tính
thuyết phục của các đòi hỏi chủ quyền đối
với quần đảo Ecrehos dưới góc độ các dữ
kiện đã xem xét ở trên, Toà thấy rằng vào
đầu thế kỉ XIII nhóm đảo Ecrehos đã được
xem là một bộ phận không tách rời của quần
đảo Channel do vua Anh chiếm giữ… Hơn
nữa Toà còn thấy rằng phần lớn thời gian
trong thế kỉ XIX và XX, chính quyền Anh đã

thực hiện chức năng nhà nước đối với nhóm
đảo này. Trong khi đó, chính phủ Pháp đã
không có bằng chứng cho thấy Pháp có danh
nghĩa hợp pháp đối với nhóm đảo này.
Trong bối cảnh như vậy, Toà có thể kết luận
rằng chủ quyền đối với nhóm đảo Ecrehos
thuộc về vương quốc Anh”.
(5)
Thứ hai, tính
chất của tranh chấp Minquiers và Ecrehos
còn cho thấy việc giải quyết tranh chấp này
không quan trọng đối với cả Anh và Pháp
đến mức một phán quyết đi ngược lại với
mong muốn của mỗi bên sẽ trở thành điều
không thể chấp nhận được về mặt chính trị.

§Æc san 60 n¨m liªn hîp quèc
42
T¹p chÝ luËt häc
Rất ít người dân Anh và Pháp từng biết hoặc
tại thời điểm đó biết được các đảo Minquers
và Ecrehos nằm ở đâu. Cả chính phủ Anh và
Pháp đều có thể chấp nhận các phản ứng
chính trị nếu nhận được một phán quyết
không thuận.
Có thể nói, yếu tố “vấn đề pháp lí mang
tính chất quyết định và hệ quả chính trị
không nghiêm trọng” là đặc trưng của rất
nhiều tranh chấp được đưa ra giải quyết tại
Toà án quốc tế theo hình thức thoả thuận đặc

biệt compromis. Trong những năm qua, Toà
cũng đã thụ lí giải quyết nhiều tranh chấp
mang tính chất tương tự khác như vụ Lotus
giữa Pháp và Thổ Nhĩ Kì liên quan đến tính
hợp pháp của thủ tục tố tụng Thổ Nhĩ Kì đối
với một vụ va chạm tầu ở biển cả, vụ các
khoản nợ của Brazil giữa Pháp và Brazil về
phương thức hợp pháp để trả lại một số
khoản nợ nhà nước và vụ chủ quyền đối với
một phần biên giới đất liền giữa Bỉ và Hà
Lan.
(6)
Trong những tranh chấp này, dù Toà
có thực hiện tốt hay không vai trò của một
cơ quan trọng tài, tỉ lệ thành công của các
phán quyết là rất cao.
Tính chất của một cơ quan trọng tài
còn được thể hiện trong thủ tục lựa chọn
thẩm phán ac hoc và thành lập các toà rút
gọn thành phần theo yêu cầu của các bên
tranh chấp. Thông thường, chỉ có biện
pháp trọng tài mới cho phép các bên lựa
chọn thẩm phán hoặc đề nghị thành lập toà
theo yêu cầu của mình. Ở đây, Quy chế
Toà án quốc tế mở ra cho các bên khả năng
lựa chọn các thẩm phán ac hoc hay đề nghị
Toà thành lập các toà rút gọn thành phần
theo yêu cầu của mình.
Việc cử thẩm phán ad hoc được tiến
hành trong trường hợp một bên tranh chấp

không có trong thành phần của Toà một
thẩm phán mang quốc tịch nước mình.
Khoản 2 Điều 31 Quy chế Toà án quốc tế
quy định: “Nếu trong thành phần có mặt xét
xử của Toà có một thẩm phán mang quốc
tịch của một bên thì bên kia có thể cử một
người theo sự lựa chọn của mình để tham
gia vào việc xét xử với tư cách một thẩm
phán. Người đó phải được ưu tiên lựa chọn
trong những người được đưa ra ứng cử như
đã nêu ở Điều 4 và 5”. Quy chế cũng trù
định khả năng thứ hai: “Nếu trong thành
phần có mặt xét xử của Toà không có thẩm
phán nào có quốc tịch của các bên thì mỗi
bên có thể đề cử một thẩm phán như đã nêu
ở khoản 2 của Điều này.” Quy định này
đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trước Toà
nhưng không loại trừ trường hợp cả hai bên
hoặc một bên không sử dụng khả năng cho
phép này.
Khoản 2 Điều 26 Quy chế còn quy định
khả năng thành lập toà rút gọn thành phần
đối với từng vụ việc. Trong trường hợp này,
thành phần của toà được xác định trên cơ sở
sự chấp thuận của các bên. Vụ việc đầu tiên
áp dụng phương thức này là vụ vịnh Maine
giữa Canada và Mĩ năm 1982. Sau đó, hàng
loạt các toà rút gọn thành phần được thành
lập cho các vụ tranh chấp biên giới Burkina
Faso/Mali năm 1985, Elettronica Sicula năm

1987, tranh chấp biên giới đất liền, đảo, biển
El Salvador/Honduras - Nicaragua năm
1990. Trong cả bốn trường hợp, thành phần
của Toà bao gồm 5 thẩm phán. Trong vụ
vịnh Maine, Toà có bốn thẩm phán được bầu

§Æc san 60 n¨m liªn hîp quèc
T¹p chÝ luËt häc 43

và Canada cử một thẩm phán ac hoc.
Trong vụ tranh chấp biên giới Burkina
Faso/Mali, mỗi bên cử một thẩm phán ac
hoc cùng ngồi với ba thẩm phán của Toà.
Trong vụ Elettronica Sicula, toà rút gọn
có hai thẩm phán có quốc tịch của các bên
tranh chấp. Cuối cùng, trong vụ tranh
chấp biên giới đất liền, đảo, biển El
Salvador/Honduras - Nicaragua, mỗi bên
cử một thẩm phán ac hoc của mình.
Có thể nói, việc kết hợp thành công
tính chất của một cơ quan trọng tài trong
thủ tục giải quyết tranh chấp là một trong
những yếu tố hấp dẫn các quốc gia đưa
tranh chấp ra giải quyết tại Toà án quốc tế
và góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết
tranh chấp tại Toà.
2. Toà án quốc tế giải quyết tranh
chấp giữa các quốc gia trên cơ sở công
nhận trước thẩm quyền bắt buộc của Toà
Khi thẩm quyền của Toà án quốc tế được

xác lập trên cơ sở thẩm quyền bắt buộc, hoạt
động của Toà được nhìn nhận “tương tự”
như một toà án quốc gia thông thường ở đó
các bên tranh chấp là đối tượng xét xử của
Toà mà không có sự chấp thuận của các bên
tại thời điểm đó. Tuy nhiên, thẩm quyền bắt
buộc của Toà chỉ có thể xác lập khi các quốc
gia đã tuyên bố chấp nhận trước thẩm quyền
của Toà. Khoản 2 Điều 36 Quy chế Toà án
quốc tế quy định: “Các nước thành viên của
Quy chế này bất kì lúc nào cũng có thể tuyên
bố rằng họ thừa nhận bắt buộc, hoàn toàn
hiệu lực (ipso facto) và không cần một thoả
thuận đặc biệt nào, đối với một nước khác
bất kì cũng chấp nhận một nghĩa vụ như vậy,
thẩm quyền xét xử của Toà án đối với tất cả
các tranh chấp pháp lí có liên quan đến: a)
Giải thích điều ước; b) Các vấn đề của luật
pháp quốc tế; c) Sự vi phạm nghĩa vụ quốc
tế; d) Tính chất và mức độ bồi thường đối
với việc vi phạm nghĩa vụ quốc tế”.
Như vậy, theo cơ chế này, khi cả hai
quốc gia tranh chấp đều có tuyên bố đơn
phương chấp nhận trước thẩm quyền của
Toà và các tuyên bố này của họ đồng thời có
cùng phạm vi hiệu lực đối với tranh chấp
như vậy thì có thể coi là Toà có thẩm
quyền xét xử tranh chấp đó. Cơ chế này
cho phép các quốc gia có thể viện dẫn sự
giúp đỡ của Toà để phân giải tranh chấp

với một quốc gia khác có cùng lập trường
đối với thẩm quyền của Toà. Nói cách
khác, trong trường hợp một quốc gia chấp
nhận trước thẩm quyền tài phán của Toà
thì bất kì một quốc gia nào khác chấp nhận
một nghĩa vụ như vậy đều có thể khởi kiện
chống lại quốc gia đó.
Tuyên bố đơn phương chấp nhận trước
thẩm quyền bắt buộc của Toà hoàn toàn phụ
thuộc vào ý chí của các quốc gia. Các quốc
gia có toàn quyền tự do lựa chọn thời điểm,
nội dung, điều kiện chấp thuận trước quyền
tài phán của Toà. Từ khi thành lập đến nay
đã có 59 quốc gia chấp nhận thẩm quyền bắt
buộc của Toà trong đó Tuyên bố do Đại diện
thường trực của Thụy Điển tại Liên hợp
quốc đưa ra ngày 06/04/1957 được xem là
một ví dụ tiêu biểu:
“Thay mặt Chính phủ hoàng gia Thụy
Điển, tôi tuyên bố rằng Chính phủ hoàng gia
Thụy Điển chấp nhận bắt buộc, hoàn toàn
hiệu lực (ipso facto) và không cần một thoả
thuận đặc biệt nào, đối với một nước khác

§Æc san 60 n¨m liªn hîp quèc
44
T¹p chÝ luËt häc
bất kì cũng chấp nhận một nghĩa vụ như vậy,
thẩm quyền xét xử của Toà án quốc tế, theo
quy định tại khoản 2 Điều 36 của Quy chế

Toà, trong thời hạn 5 năm kể từ ngày
06/04/1957. Nghĩa vụ này được mặc nhiên
gia hạn từng giai đoạn 5 năm tiếp theo trừ
khi có thông báo bãi bỏ được đưa ra ít nhất
sáu tháng trước khi hết hạn mỗi giai đoạn 5
năm bất kì. Nghĩa vụ nói trên chỉ được chấp
nhận đối với các tranh chấp có thể nảy sinh
trong các tình huống hoặc sự kiện sau ngày
06/04/1947”.
Đa số các quốc gia khi chấp nhận trước
thẩm quyền bắt buộc của Toà thường gắn
liền với các điều kiện hoặc đưa ra một số bảo
lưu nhất định. Tuyên bố của Mĩ ngày
14/8/1946 thừa nhận thẩm quyền của Toà
nhưng loại trừ đối với: “Các tranh chấp liên
quan đến những vấn đề hoàn toàn thuộc
thẩm quyền quốc gia của Hợp chủng quốc
Hoa Kì như đã được Hợp chủng quốc Hoa
Kì ấn định ”.
(7)
Có quan điểm cho rằng
những bảo lưu này phần nào mâu thuẫn với
khoản 6 Điều 36 Quy chế, trong đó quy
định trong trường hợp tranh chấp về quyền
xét xử được đưa đến Toà án thì vấn đề đó sẽ
được Toà xác định và giải quyết.
(8)
Nó cũng
tạo điều kiện cho các quốc gia đối kháng
vận dụng cơ chế điều kiện có đi có lại để

bác bỏ thẩm quyền của Toà mà phía bên kia
viện dẫn.
Với điều kiện cả hai bên tranh chấp cùng
phải chấp nhận trước thẩm quyền của Toà và
tình trạng bảo lưu của bên nguyên đơn có thể
được bên bị đơn sử dụng để ngăn cản vụ
việc được đưa ra xét xử, còn rất ít cơ hội để
cơ chế công nhận thẩm quyền bắt buộc của
Toà có thể vận hành một cách hiệu quả.
Trong vụ các món nợ của Na Uy, Toà đã
tuyên bố: “Ý chí chung của các bên, cơ sở
thẩm quyền của Toà tồn tại trong giới hạn
rất hẹp do bảo lưu của Pháp chỉ định”.
(9)

Toà thừa nhận rằng Na Uy, dựa trên cùng
cơ sở, trong cùng điều kiện như Pháp, có
quyền loại bỏ khỏi thẩm quyền bắt buộc của
Toà các tranh chấp mà Na Uy cho rằng
chúng hoàn toàn thuộc thẩm quyền quốc gia
của mình.
Một số quốc gia từng công nhận thẩm
quyền của Toà theo quy định tại khoản 2 Điều
36 sau đó đã rút lại sự công nhận của mình.
Pháp đã rút tuyên bố đơn phương của mình từ
năm 1974 sau khi Toà thụ lí giải quyết vụ kiện
các vụ thử vũ khí hạt nhân do Australia và
New Zeland đứng nguyên đơn. Mĩ rút khỏi cơ
chế này sau khi bị xử thua trong vụ các hành
động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua và

chống lại Nicaragua năm 1986.
Bên cạnh cơ chế công nhận trước thẩm
quyền của Toà án quốc tế thông qua một
tuyên bố đơn phương, thẩm quyền của Toà
còn có thể được xác lập trong các điều ước
quốc tế. Điều 36 khoản 1 Quy chế khẳng
định: “Toà có thẩm quyền tiến hành xét xử
tất cả các vụ việc mà các bên đưa ra cũng
như tất cả các vấn đề được nêu riêng trong
Hiến chương Liên hợp quốc hoặc trong các
điều ước và các công ước đang có hiệu lực”.
Trên thực tế, điều khoản liên quan đến lựa
chọn thẩm quyền xét xử của Toà án quốc tế
thường xuất hiện trong các điều ước quốc tế
với mục đích chính không phải để giải quyết
mọi tranh chấp mà chỉ nhằm giải quyết
những tranh chấp có thể phát sinh từ việc

Đặc san 60 năm liên hợp quốc
Tạp chí luật học 45

gii thớch hay ỏp dng cỏc iu c ú. Cú
iu c quy nh chung rng khi cú tranh
chp cỏc bờn s ỏp dng cỏc bin phỏp ho
bỡnh gii quyt trong ú cú To ỏn quc
t. Cng cú iu c quy nh rừ cỏc bờn cú
ngha v s dng To ỏn quc t trong
trng hp cú tranh chp. Khi tranh chp
xy ra, tu theo quy nh ti mi iu c,
mt bờn cú th n phng kin ra trc to

hoc cỏc bờn cú th cựng kớ mt tho thun
a v vic ra to phõn x, tuy nhiờn a s
ri vo trng hp th nht. Trong v kin
liờn quan n nhõn viờn ngoi giao v lónh
s M ti Teheran nm 1979, phớa M ó
kin Iran ra trc To vi lp lun thm
quyn ca To c xỏc lp trờn c s cỏc
Cụng c Viờn nm 1961 v nm 1963 v
quan h ngoi giao v lónh s cng nh
Hip c hu ngh, quan h kinh t v cỏc
quyn lónh s kớ nm 1955 gia hai quc
gia. Trong v Lockerbie, c s a tranh
chp ra to l iu khon quy nh th tc
gii quyt tranh chp trong Cụng c
Montrộal v trng tr cỏc hnh ng bt hp
phỏp chng li an ton hng khụng dõn
dng ngy 23/9/1971.
Thc tin hot ng ca To cho thy,
dự thm quyn bt buc ca To c xỏc
lp trờn c s khon 1 hay khon 2 ca iu
36 Quy ch To ỏn quc t, To khụng thc
s m ng mt cỏch cú hiu qu vai trũ
gii quyt cỏc tranh chp quc t. Khỏc vi
trng hp tranh chp c a ra To theo
tho thun c bit ca cỏc bờn, cỏc v vic
c a ra To theo hỡnh thc thm quyn
bt buc thng gp phi s phn i ca
mt bờn, bờn b n khú cú th chp nhn thi
hnh mt phỏn quyt bt li ca To cng
nh thc hin cỏc bin phỏp m To s dng

m bo thi hnh phỏn quyt. Trong
nhng trng hp nh vy, To khụng mun
a ra mt phỏn quyt m To cho rng s
khụng hiu qu v thay vo ú To thng
vn dng cỏc vn k thut trỏnh cỏc
vn nhy cm v chớnh tr. Trong v Tõy
Nam Phi, hai nc thnh viờn c ca Hi
quc liờn l Liberia v Ethiopia yờu cu To
ỏn kt lun rng Nam Phi ó vi phm cỏc
ngha v phỏp lớ di danh ngha quc gia
qun thỏc do Hi quc liờn giao phú. To ỏn
khụng a ra kt lun c th m cho rng
Nam Phi khụng cú ngha v phi tr li v
cỏc hnh vi ca mỡnh vi t cỏch quc gia
qun thỏc i vi cỏc quc gia thnh viờn,
ngay c khi l thnh viờn c ca Hi quc
liờn, Liberia v Ethiopia khụng cú quyn v
li ớch trong vn ny. Trong v cỏc v
th v khớ ht nhõn, Australia v New
Zeland lp lun rng To cn kt lun vic
Phỏp tin hnh th v khớ ht nhõn ti Nam
Thỏi Bỡnh Dng l khụng phự hp vi lut
phỏp quc t. Tuy nhiờn, trờn c s vin dn
tuyờn b ca Phỏp v ý nh tin hnh cỏc v
th ngm di t, To kt lun rng n
kin ca Australia v New Zeland khụng cũn
i tng v do vy To khụng cũn thm
quyn a ra phỏn quyt trong v vic ny.
III. HIU QU GII QUYT TRANH
CHP QUC T TI TO N QUC T

TRONG 60 NM QUA
Vi hai hỡnh thc th lớ tranh chp nh
ó phõn tớch trờn, t nm 1946 n nm
2005, To ó tip nhn trờn 100 v kin v
ó a ra 90 phỏn quyt liờn quan n nhiu

§Æc san 60 n¨m liªn hîp quèc
46
T¹p chÝ luËt häc
vấn đề như biên giới đất liền, phân định biển,
quy thuộc chủ quyền lãnh thổ, không sử dụng
vũ lực, không can thiệp vào công việc nội bộ
của các quốc gia, quan hệ ngoại giao, lãnh sự,
quyền tị nạn, quyền qua lại trong luật biển và
các quyền lợi kinh tế… Đối với một cơ quan
tài phán chính của Liên hợp quốc, số lượng
tranh chấp đưa ra Toà trong khoảng thời gian
60 năm như vậy không phải là lớn. Trong số
các tranh chấp nêu trên, khoảng 50% được
đưa ra Toà theo thoả thuận đặc biệt giữa các
quốc gia, số còn lại được toà thụ lí trên cơ sở
công nhận trước thẩm quyền bắt buộc của
Toà. Hiện nay, còn khoảng hơn 10 tranh chấp
đang chờ giải quyết tại Toà.
Số lượng các tranh chấp chuyển đến cho
Toà án quốc tế cũng khác nhau theo các giai
đoạn. Nếu trong thập niên 40 và 50, công việc
của Toà án có nhịp độ tương đối, giải quyết
trung bình 2-3 vụ việc một năm thì đến thập
niên 60, số tranh chấp chuyển đến toà giảm

xuống còn một vụ việc. Có năm không có vụ
việc nào. Chỉ sau khi Đại hội đồng Liên hợp
quốc đưa việc xem xét lại vai trò của Toà án
quốc tế vào chương trình nghị sự và thông
qua nghị quyết liên quan đến Toà án quốc tế
ngày 12/11/1974, số tranh chấp chuyển đến
Toà giải quyết mới tăng dần lên. Từ năm
1975 đến nay, có khoảng 60 tranh chấp được
đưa đến Toà. Trong năm 1999, đã có 16 vụ
việc được Toà tiếp nhận.
Nếu xét trên khía cạnh số lượng các tranh
chấp được giải quyết tại Toà án quốc tế, có
thể thấy hoạt động của Toà chưa tương xứng
với vai trò của một cơ quan tư pháp mang
tính toàn cầu. Điều này xuất phát từ các
nguyên nhân thuộc về bản thân Toà cũng như
từ phía các quốc gia. Về phía các quốc gia,
một thực tế là các quốc gia thường “ngần
ngại” khi đưa tranh chấp ra Toà án quốc tế
giải quyết. Với nguyên tắc chủ quyền quốc
gia, các quốc gia có toàn quyền quyết định có
chuyển tranh chấp cho Toà án quốc tế giải
quyết hay không và nếu chuyển thì chuyển
tranh chấp loại gì. Các phân tích ở phần trên
cho thấy, các quốc gia không muốn đưa ra
trước Toà án quốc tế các tranh chấp liên quan
đến các lợi ích quốc gia quan trọng vì không
muốn bị ràng buộc bởi một phán quyết của
bên thứ ba không liên quan đến tranh chấp.
Đồng thời, nếu một quốc gia bị đưa ra Toà

với tư cách bị đơn thì quốc gia đó thường
tìm cách bác bỏ thẩm quyền của Toà hoặc
không xuất hiện trước Toà. Việc tham gia
các thủ tục tố tụng tại Toà án quốc tế cùng
với các yêu cầu thuê luật sư bào chữa, tập
hợp chứng cứ… cũng đòi hỏi chi phí tốn
kém mà các nước kém phát triển và đang
phát triển khó lòng kham nổi nếu vụ kiện
kéo dài. Quỹ đặc biệt của Liên hợp quốc
được lập ra để hỗ trợ các quốc gia khó khăn
song chỉ giới hạn ở các quốc gia đã thừa
nhận thẩm quyền của Toà thông qua thoả
thuận đặc biệt.
Về phía Toà án quốc tế, vấn đề lớn nhất
đặt ra đối với một toà án có trách nhiệm giải
quyết các tranh chấp liên quan đến lợi ích
quốc gia là vấn đề lòng tin. Việc Toà có xét
xử công bằng và thực chất hay không quyết
định việc các quốc gia tin tưởng đưa ra giải
quyết tranh chấp tại Toà. Thực tế cho thấy,
sau kết luận của Toà trong vụ Tây Nam Phi
năm 1966, uy tín của Toà phần nào giảm sút
do vậy số tranh chấp chuyển đến toà trong

Đặc san 60 năm liên hợp quốc
Tạp chí luật học 47

nhng nm cui thp k 60 gim dn.
Mc dự cũn mt s im khim khuyt
song nu xột theo khớa cnh ch th v i

tng ca cỏc tranh chp c a ra gii
quyt ti To thỡ cú th thy rng To ỏn quc
t xng ỏng vi tờn gi To ỏn th gii.
(10)

Cỏc quc gia ó a tranh chp ra To cú mt
c bn chõu lc t chõu u (Anh, Phỏp, H
Lan, B, an Mch), chõu M (M,
Nicaragua, El Salvador, Honduras, Peru,
Colombia), chõu Phi (Nam Phi, Senegal)
n chõu i dng (Australia, New Zeland).
Tranh chp chuyn cho To gii quyt khụng
ch l gia cỏc quc gia cựng chõu lc m
cũn gia cỏc quc gia cỏc lc a khỏc
nhau. Trong nhng nm gn õy, ngy cng
cú nhiu cỏc quc gia ang phỏt trin a
tranh chp ra to gii quyt. iu ú cho thy
To ỏn quc t ó to c s thay i tớch
cc v hỡnh nh ca mỡnh i vi cỏc nc
th gii th ba.
Ngoi ra, To ỏn quc t cũn úng vai trũ
h tr cho cỏc bin phỏp ho bỡnh gii quyt
cỏc tranh chp quc t khỏc. To ỏn cú th ra
phỏn quyt rng buc cỏc bờn tranh chp tip
tc m phỏn i n gii phỏp cụng bng
v lõu di cho cỏc bờn.
ỏnh giỏ chung, To ỏn quc t úng mt
vai trũ rt quan trng trong i sng lut phỏp
quc t, c th l trong vn gii quyt ho
bỡnh cỏc tranh chp quc t. tng cng

vai trũ ca To ỏn quc t, cn phi xỏc nh
ỳng v th ca To ỏn quc t trong bi cnh
hin nay khi nguyờn tc ch quyn quc gia
vn ang l nguyờn tc c bn ca lut phỏp
quc t. Vỡ vy, khụng th ũi hi tranh chp
no gia cỏc quc gia, dự n gin hay phc
tp, cng phi chuyn n cho To ỏn quc t
gii quyt m bn thõn To ỏn quc t v
cỏc quc gia cn phi cú s phi hp cn thit
khai thỏc mt cỏch hiu qu c quan xột
x ton cu ny. To ỏn quc t cú th tin
hnh ci cỏch, n gin hoỏ cỏc th tc, linh
hot hn trong vic ra danh mc cỏc loi
tranh chp cú th a ra To ỏn quc t. Bờn
cnh ú, cng cn m ra kh nng cỏc
quc gia hi ý kin t vn ti To v bin
phỏp ny cú th tin hnh song song vi cỏc
bin phỏp ho bỡnh trong vic gii quyt cỏc
tranh chp quc t khỏc. Trong trng hp
ú, ý kin t vn ca To s h tr cho cỏc
bờn tranh chp tỡm ra gii phỏp cụng bng v
lõu di. V phớa cỏc quc gia, cn cú cỏc
chuyờn gia am hiu v To ỏn quc t
ng ra c vn trong cỏc vn liờn quan n
To ỏn quc t cng nh ỏnh gia ỳng tm
quan trng ca To ỏn quc t trong vic duy
trỡ lut phỏp quc t v bo v ho bỡnh an
ninh quc t./.

(1). Malcom N.Shaw, International Law, Cambridge

University Press 1991, p.631.
(2). Thomas M.Frank, Fairness in the International
Legal and Institutional System// Recueil des Cours
1993, p. 321.
(3). Summaries of ICJ Reports 1948-1991, p.160
(4). ICJ Reports 1953, p.47.
(5). ICJ Reports 1969, p.68.
(6). ICJ Reports 196, p.209.
(7). Bo lu ny thng c gi l iu khon b
sung Connolly.
(8). Nguyờn tc la compộtence de la compộtence.
(9). Certain Norvergian Loans, ICJ Reports 1957,
p.23.
(10). Nhiu hc gi, lut gia ni ting nh Shabtain
Rosenne, D.J. Haris gi To ỏn quc t l To ỏn
th gii (World Court).

×