TRƯỜNG ĐAI HỌC VINH
GIÁO TRÌNH
CHUẨN BỊ CHO TRẺ VÀO LỚP 1
(dùng cho học viên hệ từ xa)
NGHỆ AN – 2011
1
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VIỆC
CHUẨN BỊ CHO TRẺ 5 TUỔI VÀO TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1. Đặc điểm tâm lý của trẻ khi chuẩn bị bước vào lớp một
1.1. Ý thức về “cái tôi” ở trẻ phát triển mạnh
Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng của trẻ trong giai đoạn này là
bắt đầu có ý thức về cái tơi của mình, trẻ dần nhận ra mình lag một con người riêng
biệt, độc lập và có những ý muốn khác với những người xung quanh.
Trẻ bắt đầu có ý thích độc lập, muốn tự mình hành động, vì thế trẻ có những
tình cảm như ấm ức vì người lớn khơng cịn tỏ ra chăm sóc và hụt hẫng vì có những
điều trẻ khơng làm được thì người lớn lại bỏ qua. Đây chính là bước đầu của sự cá
biệt hố (việc trẻ biết gọi mình bằng ngơi thứ nhất: xưng tên, hoặc xưng là con,
cháu đều là xác định cái tôi). Đây cũng là giai đoạn các kỹ năng học tập về nhận
thức và ngôn ngữ của trẻ đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy, mọi sự can thiệp sớm trong
việc cải thiện các khả năng giao tiếp, ngôn ngữ và ứng xử của trẻ cần phải đưa vào
trong giai đoạn này.
Ở lứa tuổi chuẩn bị bước vào lớp một, trẻ hiểu được mình là như thế nào, có
phẩm chất gì, những người xung quanh đối xử với mình ra sao, vì sao mình lại làm
việc này, mình làm việc này tốt hay chưa tốt, đúng hay sai…Chính nhờ ý thức bản
ngã phát triển mạnh nên trẻ đã có thể điều chỉnh được hoạt động của bản thân. Trẻ
hay đưa ra những lời nhận xét về bản thân mình và của người khác. Trẻ cũng thể
hiện cái tơi của mình bằng việc thích tự mình quyết định…
Do sự phát triển của cơ thể, trẻ chuẩn bị bước vào lớp một rất hoạt bát và
hiếu động, chúng khơng thích ngồi một chỗ, thích được tự do chạy nhảy, khơng
thích ngồi yên.
1.2. Tính hiếu kỳ phát triển mạnh
Hiếu kỳ là bản tính tự nhiên của trẻ, đây là một điều tốt vì nó sẽ giúp trẻ
khám phá những điều mới lạ từ thế giới xung quanh. Đây là cách tốt nhất để trẻ có
kiến thức, biết tư duy và đó là nền tảng của học vấn sau này. Tính hiếu kỳ thể hiện
rõ khi trẻ chuẩn bị vào lớp một. Ở lứa tuổi này, trí tưởng tượng của trẻ rất phong
phú, cái gì trẻ cũng muốn biết, muốn hiểu và trẻ luôn đặt câu hỏi “tại sao” với người
lớn. Nếu trẻ không được thoả mãn hoặc không nhận được lời giải thích xác đáng thì
trẻ mất hứng thú nhận thức, khơng nhiệt tình tìm hiểu, khám phá sự vật hiện tượng
của thế giới xung quanh nữa. Vì vậy, người lớn cần vui vẻ trả lời các câu hỏi của trẻ,
thoả mãn nhu cầu nhận thức cho trẻ và kích thích trẻ khám phá cái mới lạ, kỳ thú ở
thế giới xung quanh. Người lớn cần tránh trả lời qua chuyện, khơng diễu cợt trẻ, cần
kiên trì giảng giải và trả lời hết các câu hỏi của trẻ.
1.3. Tâm lý không ổn định
Chuẩn bị bước vào lớp một, tâm lý trẻ dễ bị xáo trộn, đây cũng là lúc trẻ bước
vào một giai đoạn mới của sự ích kỷ. Trẻ khơng muốn chia sẻ, hiếu thắng ln
mong muốn mình phải làm tốt, làm đúng mọi việc, ln đặt mình là trung tâm, trẻ
cũng hay hờn dỗi nếu bị chê trách. Trẻ rất nhạy cảm, hay tủi thân nếu cha mẹ không
chú ý…
Ở lứa tuổi này có thể được coi là bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển
của trẻ. Vì vậy, cha mẹ cần chuẩn bị trước về mặt tâm lý cho trẻ tránh cho trẻ khỏi
“sốc” khi vào trường phổ thông.
1.4. Trẻ “sợ đến trường”
Ở lứa tuổi bắt đầu vào lớp một, sự lo lắng lại tập trung vào những khó khăn
khi thay đổi môi trường mới, nhiều trường hợp rơi vào các trạng thái rối nhiễu cơ
thể như đau đầu, đau bụng, mệt mỏi, căng thẳng, sợ hãi, rối loạn giấc ngủ…
Sự thay đổi giữa mơi trường gia đình và trường học có tác động khơng nhỏ
tới tâm lý trẻ. Có thể nhận thấy một cách rõ rang là về mặt cảm xúc, những trẻ ở lứa
tuổi chuẩn bị vào lớp một còn phụ thuộc nhiều vào người lớn. Khi đến trường, đối
diện với khung
2
cảnh xa lạ, nề nếp sinh hoạt mới, cô giáo và bạn bè mới cùng với việc xa cha mẹ
thường để lại cho trẻ những dấu ấn không dễ chịu chút nào, đó chính là ngun
nhân khiến trẻ lo lắng.
2. Ý nghĩa của việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một
Mỗi đứa trẻ phát triển bình thường thì đến 6 tuổi đều có thể vào học lớp 1.
Đối với trẻ em, việc bước vào trường phổ thông được coi như một bước ngoặt quan
trọng của cuộc đời. Đó là việc trẻ được chuyển qua một vị trí xã hội mới với những
điều kiện hoạt động mới và những mối quan hệ mới.
Nếu trước 6 tuổi, chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ, qua chơi mà trẻ tiếp thu
mọi điều một cách tự nhiên và hứng thú, trong khi chơi trẻ hồn tồn tự do, thoải
mái, trẻ thích thì chơi khơng thích thì thơi chứ khơng bắt ép được.
Vào lớp một, hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động học tập. Đây là một hoạt
động mang tính bắt buộc, có tổ chức chặt chẽ, có mục đích, có kế hoạch đòi hỏi bản
thân mỗi trẻ phải cố gắng nỗ lực mới có thể đạt kết quả tốt đẹp. Nội dung và tính
chất của hoạt động học tập yêu cầu trẻ em phải có những hành vi mới: sự tập trung
chú ý tương đối cao trong một thời gian dài, hoạt động thần kinh căng thẳng hơn,
cường độ làm việc tăng lên với sự kiên trì, nỗ lực, ý chí cao.
Đến trường phổ thơng, đứa trẻ phải hồ nhập vào những quan hệ mới với
những người xung quanh, với thầy cô, với bạn bè, với những người lớn khác, đặc
biệt với thầy cô giáo.
Ở mẫu giáo trẻ được sống trong khơng khí gia đình “cơ là mẹ và các cháu là
con”, khi vào trường phổ thông trẻ sống trong khung cảnh trường học, mối quan hệ
giữa cô và trẻ là mối quan hệ “thầy - trò”, quan hệ bạn bè cùng chơi ở mẫu giáo
được chuyển sang quan hệ bạn bè cùng học. Ở mẫu giáo trẻ là lớp đàn anh đàn chị
vào lớp một lại trở thành em út trong trường nên trẻ không khỏi bỡ ngỡ
Hơn nữa, ở mỗi giai đoạn phát triển đều có những yêu cầu về sinh lí, về tâm
lí, về xã hội địi hỏi trẻ phải thích ứng mới học tập đạt kết quả.
Sự phát triển của trẻ từ giai đoạn này đến giai đoạn khác là một bước nhảy
vọt có sự chuyển biến về chất, sự phát triển của trẻ ở mỗi giai đoạn vừa là sự kế
thừa những thành tựu phát triển của giai đoạn trước vừa là tiền đề cho giai đoạn
phát triển tiếp theo. Điều đó có nghĩa là nếu trẻ được phát triển tốt ở giai đoạn trước
cũng chính là chuẩn bị tốt cho giai đoạn sau.
VD: Sự phát triển tâm vận động, các giác quan, khả năng định hướng và ngôn ngữ
của trẻ
ở lứa tuổi nhà trẻ là điều kiện quan trọng để trẻ tiếp thu, lĩnh hội những biểu tượng
về thế giới xung quanh thông qua nhận thức cảm tính và tư duy trực quan của trẻ
mẫu giáo. Nhờ có những biểu tượng về thế giới xung quanh, ngơn ngữ, tư duy trực
quan hình tượng ở mẫu giáo phát triển mà vào lớp một trẻ dễ dàng tiếp thu những tri
thức khoa học mang tính khái quát do đó tư duy trực quan trừu tượng phát triển.
Có thể nói bước ngoặt trong cuộc đời tuổi thơ khi từ trường mầm non bước
vào trường phổ thông không phải em bé nào 6 tuổi cũng đều dễ dàng thích nghi.
Bước ngoặt này là sự kiện quan trọng khiến các nhà giáo dục và các bậc cha mẹ cần
phải quan tâm, một mặt là để giúp trẻ hoàn thiện những thành tựu phát triển trong
suốt thời kỳ mẫu giáo, mặt khác tích cực chuẩn bị cho trẻ có đủ điều kiện để thích
ứng với cuộc sống ở trường phổ thơng với hoạt động chủ đạo là học tập.
Trẻ em lứa tuổi mẫu giáo nếu được chuẩn bị chu đáo và tồn diện cả về sức
khoẻ, trí tuệ và tình cảm đạo đức xã hội cùng cả tâm thế sẵn sàng vào lớp một sẽ
giúp trẻ tự tin, dễ dàng thích ứng với môi trường mới và hoạt động học tập ở lớp
một. Điều đó tạo cho trẻ nhiều thuận lợi trong việc tiếp thu lĩnh hội chương trình
học tập ở lớp một và dễ dàng hơn trong giao tiếp và thiết lập mối quan hệ với bạn bè
với thầy cô và mọi người xung quanh.
3
Ngược lại, nếu không được chuẩn bị chu đáo các điều kiện cần thiết cho hoạt
động học tập, nhất là các em không được đến trường mầm non, khi vào lớp một gặp
rất nhiều khó khăn, bỡ ngỡ. Trẻ sơ thầy, sợ cô, sợ cả bạn bè, trẻ nhút nhát khi giao
tiếp với thầy cơ, với bạn bè, trẻ khó hồ mình vào tập thể thậm chí khủng hoảng sợ
đi học… điều đó gây bất lợi cho các chặng đường phát triển tiếp theo.
Thực tiễn nghiên cứu cho thấy trên 95% số trẻ 5 tuổi được chuẩn bị chu đáo,
hợp lí trước khi vào trường phổ thơng đều có khả năng học tập tốt và thích ứng
nhanh với những yêu cầu của lớp một.
Xã hội càng phát triển, nội dung và yêu cầu học tập của học sinh ngày càng
cao và căng thẳng hơn. Cho nên việc chuẩn bị toàn diện cho trẻ vào lớp một là một
vấn đề rất cấp bách.
2. Một số quan điểm về việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một
Trong việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một có rất nhiều ý kiến cũng như quan
niệm khác nhau.
- Có quan niệm cho rằng khơng cần chuẩn bị cho trẻ vào lớp một, trẻ đủ 6
tuổi là có thể đi học lớp một. Từ lâu nhà trường truyền thống ít quan tâm đến việc
kiểm tra, đánh giá đầu vào của trẻ em đầu tuổi học. Ngay cả trường mầm non, trong
tâm niệm của nhiều người chỉ là nơi “gửi trẻ”. Tất thảy trẻ em 6 tuổi đều bình đẳng
cắp sách tới trường, khơng cần biết tuổi khơn và sức khoẻ có học được khơng?
Quan niệm này thường tồn tại
ở những vùng nơng thơn, hoặc vùng có trình độ dân trí thấp, họ ít quan tâm đến
việc chuẩn bị về mặt trí tuệ và tinh thần cho trẻ vào lớp một. tuổi mầm non của trẻ
chủ yếu sống trong gia đình, xóm giềng, khơng được giáo dục, rèn luyện một cách
hệ thống những điều cần thiết cho học tập sau này.
- Đối lập với quan niệm này là quan niệm cho rằng cần phải cho trẻ học trước
chương trình lớp một, cụ thể là chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi đọc thông viết thạo
và làm thành thạo hai phép tính cộng, trừ trong phạm vi 10, 20 và nếu 100 thì càng
tốt. Thực tế này hiện nay tồn tại khá phổ biến ở các thành phố, thị xã lớn nơi có
trình độ dân trí tương đối cao. Do đó khơng ít người đã buộc trẻ ngồi vào bàn hàng
giờ học một cách nghiêm chỉnh, tước đi mọi thời gian vui chơi, hoạt động nhiều mặt
mà các cháu vốn ham thích rất cần cho sự phát triển sau này của trẻ.
Nhiều cơng trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã chứng minh rằng trẻ em
dưới 6 tuổi nói chung là chưa đủ khả năng để học chữ, học tính theo đúng ý nghĩa
của mơn học.
Thực tế, một số trẻ được học trước chương trình lớp một, vào lớp một những
tháng đầu có thể hơn những trẻ khác nhưng thời gian sau trình độ trong lớp ngang
nhau, thậm chí một số trẻ tỏ ra chủ quan chểnh mảng trong học tập vì cảm thấy
khơng có gì mới lạ hấp dẫn, do đó sức học cịn yếu hơn trẻ khác. Nguy hại hơn, nếu
học trước mà phạm sai lầm thì khi uốn nắn, sửa sai là một cơng việc rất khó khăn
cho giáo viên lớp một, thậm chí để lại thói quen xấu trong hoạt động trí tuệ, thậm
chí cản trở bước đường học tập của trẻ.
Vì vậy, việc chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ thông không thể là việc làm
thay cho việc dạy dỗ ở bậc tiểu học. Khơng nên dạy trẻ trước những gì mà sau này
nó sẽ phải học tập một cách quy củ, nghiêm chỉnh ở trường phổ thông, không nên
yêu cầu trẻ như một học sinh thực thụ ngay khi còn ở tuổi mẫu giáo mà phải đảm
bảo cho trẻ được sống đúng với lứa tuổi của mình.
- Theo quan điểm của các nhà khoa học giáo dục mầm non trong và ngoài
nước cho rằng khi nào thể lực, trí tuệ nói riêng và tâm lí của trẻ phát triển đủ để học
tập thì cho trẻ vào lớp một. Những người theo quan điểm này cho rằng cần phải
chuẩn bị cho trẻ vào lớp một một cách tồn diện cả về thể lực, tâm lí và tâm thế chứ
khơng dạy trẻ học chữ và làm tốn. Họ cho rằng việc dạy trẻ làm toán và học chữ là
nội dung học của lớp một.
4
Cụ thể: + Các nhà giáo dục Nhật Bản rất quan tâm đến việc giáo dục và phát
triển trí tuệ cũng như thể chất, tình cảm đạo đức của trẻ phù hợp với hoàn cảnh của
trường mầm non, của cộng đồng địa phương ở nơi đó nhằm hướng tới thực hiện
năm mục tiêu và nội dung giáo dục là giáo dục sức khoẻ, giáo dục quan hệ với xung
quanh, giáo dục ngôn ngữ, giáo dục môi trường và biểu đạt phù hợp với Luật giáo
dục và Chuẩn quốc gia về chương trình giáo dục mầm non.
+ Ở các nước phương Tây như Mỹ, Anh,Ý, Pháp… người ta quan tâm đến sự
phát triển nhận thức của trẻ trong việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một, nhưng không
nhấn mạnh vào việc học các kỹ năng đọc, viết cũng như tính tốn. Các nhà giáo dục
ở các nước này cho rằng cần phải quan tâm đến những suy nghĩ của trẻ, đến những
ý tưởng của trẻ hơn là những điều trẻ hiểu biết. Vì thế, họ cho rằng một trong những
nội dung chuẩn bị cho trẻ vào lớp một mà các giáo viên cũng như bố mẹ trẻ phải
quan tâm đó là dạy cho trẻ biết cách chia sẻ các ý tưởng, dự định của chúng với mọi
người, hình thành cho trẻ kỹ năng hợp tác cùng nhau. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện
và kích thích tính tích cực cũng như óc sáng tạo của trẻ trong các hoạt động.
+ Giáo dục mầm non của một số nước trong khu vực châu Á – Thái Bình
Dương (Hàn Quốc, Úc, Niu Dilân, Xingapo…) hướng tới hình thành cho trẻ những
năng lực chung để chúng có thể hồ nhập vào cuộc sống và chuẩn bị vào trường
tiểu học.
+ Quan điểm giáo dục mầm non của nước ta cũng nhấn mạnh là không dạy
trẻ mẫu giáo lớn học trước chương trình lớp một, tránh phổ thơng hố trong giáo
dục mầm non. Tuy nhiên, trong thực tiễn giáo dục mầm non vẫn cịn tình trạng ở
một số nơi, một số địa phương do sự thúc ép và yêu cầu của phụ huynh cho nên vẫn
dạy trẻ mẫu giáo lớn tập viết, tập đọc và làm toán như học sinh lớp một.
3. Một số đặc điểm phát triển của trẻ 5 tuổi
Đến 5 tuổi là trẻ đang ở giai đoạn cuối cùng của lứa tuổi mẫu giáo và đã trải
qua một thời kỳ phát triển mạnh mẽ với tốc độ rất nhanh cả về thể chất lẫn tâm lí.
Tốc độ nhanh như vậy sẽ khơng thể thấy lại đượcở những giai đoạn phát triển sau
này. Cuối lứa tuổi mẫu giáo, đứa trẻ đang hoàn thiện dần về hình thái cơ thể và các
chức năng tâm lí người ở giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành nhân cách.
Nếu được chăm sóc và giáo dục đúng đắn trong một hồn cảnh sống thuận lợi thì sự
phát triển của trẻ 5 tuổi sẽ có được những đặc điểm sau:
3.1.Đặc điểm phát triển thể chất
- Về tầm vóc: Trẻ 5 tuổi tăng nhanh về chiều cao, cân nặng.
+ Trung bình về chiều cao: trẻ trai có thể đạt từ 106,4cm –
116,1cm Trẻ gái có thể đạt từ
104,8cm – 114,6cm
+ Trung bình về cân nặng: trẻ trai có thể đạt từ 16 kg – 20,7 kg
trẻ gái đạt từ 15 kg – 19,5 kg
- Về giải phẫu sinh lí
+ Hệ xương bắt đầu cốt hoá, cơ bắp to ra
+ Cơ quan hơ hấp và hệ tuần hồn phát triển mạnh
+ Trọng lượng của não tăng nhanh từ 1.110g – 1.350g đạt tới 90% trọng
lượng não của người lớn. Nhờ đó vỏ bán cầu đại não phát triển mạnh nên vai trị
điều chỉnh và kiểm tra của nó đối với vùng dưới vỏ tăng cường rõ rệt hơn, tốc độ
hình thành phản xạ có điều kiện tăng lên nhanh chóng, hệ thống tín hiệu thứ hai
phát triển mạnh mẽ.
Sự phát triển nhanh về thể chất đã tạo nên những điều kiện cần thiết để trẻ 5
tuổi có thể hoạt động độc lập được nhiều hơn và giúp chúng lĩnh hội những hình
thức mới của kinh nghiệm xã hội trong quá trình tiếp nhận giáo dục.
Tuy nhiên, sự phát triển đó chưa tạo ra được một chuyển biến thật mạnh mẽ
thuận lợi cho hoạt động học tập. Phải đến 6 tuổi trở đi thì sự phát triển thể chất của
trẻ mới bắt đầu thích ứng với hoạt động học tập.
5
3.2. Đặc điểm phát triển trí tuệ
- Đặc điểm phát triển nhận cảm
Hoạt động nhận cảm (bao gồm quá trình cảm giác và tri giác) của trẻ 5 tuổi
phát triển mạnh, cho phép trẻ định hướng vào những thuộc tính và những mối liên
hệ bên ngoài của sự vật và hiện tượng. Khả năng quan sát bắt đầu hình thành giúp
trẻ biết ngắm nghía và phát hiện thuộc tính và mối quan hệ đặc trưng của sự vật
hiện tượng trong thế giới xung quanh.
Nhờ sự phát triển của hoạt động nhận cảm nên trẻ 5 tuổi có thể lĩnh hội được
một số chuẩn nhận cảm về màu sắc, về hình dạng, kích thước, về âm thanh…
VD: nhận ra 7 màu trong quang phổ, phân biệt được các dạng hình học (hình
tam giác, hình vng, hình trịn, hình chữ nhật, hình bầu dục…), phân biệt đợưc các
cao độ trong thang âm 7 nốt, phân biệt được độ to, nhỏ, dài, ngắn khác nhau…
Về tri giác khơng gian: trẻ 5 tuổi có thể nhận biết một cách chính xác các
hướng chủ yếu trong không gian như trên - dưới, trước – sau, phải – trái. Cùng với
sự phát triển của tri giác không gian, tri giác được tranh vẽ của trẻ 5 tuổi cũng có
một bước tiến bộ rõ nét, trẻ có thể nhận ra màu sắc, đường nét và cả bố cục của bức
tranh.
Về tri giác thời quá khứ, hiện tại và tương lai trong những khoảng thời gian
gần (lúc nãy, bây giờ, tí nữa, hơm qua, hơm nay, ngày mai). Cùng với sự phát triển
của tri giác thời gian, tri giác độ dài của âm thanh cũng có một bước tiến rõ rệt, trẻ
có thể phân biệt được độ dài ngắn của những âm thanh khác nhau. Đó chính là cơ sở
để trẻ tiếp nhận tiết tấu, một thành phần cơ bản trong âm nhạc.
- Đặc điểm phát triển tư duy
Tư duy của trẻ 5 tuổi đang ở độ phát triển mạnh, đặc biệt là kiểu tư duy trực
quan hình tượng. Ở giai đoạn này, một kiểu tư duy trực quan hình tượng mới xuất
hiện, đó là tư duy trực quan sơ đồ, trong đó hình tượng đã bị tước đi những chi tiết
rườm rà, sinh động, chỉt giữ lại những bộ phận chủ yếu nhất, khiến cho hình tượng
bị mất đi tính trực quan cụ thể mà mang thêm tính khái qt. Đó chính là bước trung
gian của sự chuyển tiếp từ tư duy trực quan hình tượng đến tư duy lơgic. Nhờ đó
một số yếu tố của tư duy lôgic xuất hiện tạo cho trẻ khả năng khái qt hố, phán
đốn, suy luận và hình thành được một số khái niệm đơn giản.
- Đặc điểm phát triển trí nhớ
Ở trẻ mẫu giáo nói chung , trí nhớ khơng chủ định chiếm ưu thế, nhưng đến 5
tuổi thì trí nhớ có chủ định đã bắt đầu phát triển đáng kể. Vị trí ưu thế của trí nhớ
khơng chủ định giờ đây đã bị yếu dần đi, nhưng vai trò của nó vẫn hết sức quan
trọng trong đời sống của trẻ.
Cùng với sự phát triển của tư duy, trí nhớ có ý nghĩa bắt đầu phát triển mạnh,
những gì mà trẻ hiểu thường được ghi nhớ bền vững hơn. Tuy vậy, trí nhớ máy móc
vẫn giữ vai trị quan trọng trong đời sống của trẻ.
- Đặc điểm phát triển chú ý
Do yêu cầu của hoạt động ngày càng trở nên phức tạp, trẻ 5 tuổi bắt đầu biết
điều khiển chú ý của mình vào những đối tượng nhất định. Chú ý có chủ định phát
triển mạnh, nhưng chú ý khơng chủ định vẫn chiếm ưu thế.
Sự phát triển chú ý có chủ định ở trẻ 5 tuổi thường gắn liền với mục đích của
hành động và chức năng đặt kế hoạch của ngơn ngữ. Điều đó có nghĩa là cái gì trở
thành đối tượng của hành động có mục đích lại được thể hiện bằng lời nói mang
tính định hướng sẽ làm cho trẻ chú ý bền hơn, tập trung hơn.
- Đặc điểm phát triển ngôn ngữ
Cuối tuổi mẫu giáo, trẻ 5 tuổi đã có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách thành
thạo trong sinh hoạt hàng ngày (tiếng mẹ đẻ là phương tiện quan trọng nhất đẻ giúp
trẻ lĩnh hội nền văn hoá của dân tộc, để giao lưu, giao tiếp với mọi người xung
quanh, để tư duy
6
và tiếp thu tri thức khoa học). Lúc này ngôn ngữ đã thực sự trở thành phương tiện
chủ yếu để giao tiếp với mọi người xung quanh và là cơ sở để cải tổ các q trình
tâm lí, giúp cho đời sống tinh thần của trẻ có một chất lượng mới: biết sống và hành
động theo kiểu người.
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ 5 tuổi chủ yếu theo các hướng sau:
+ Về ngữ âm và ngữ điệu: cơ quan thính giác âm vị và cơ quan phát âm của
trẻ đã đến độ hồn thiện nên trẻ 5 tuổi có khả năng nắm giữ được ngữ âm và ngữ
điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ. Do đó trẻ phát âm tương đối chuẩn kể cả những âm
khó (quanh co, khúc khuỷu, khuya khoắt…) và biết dùng ngữ điệu đúng với tình
huống giao tiếp để thể hiện tình cảm của mình đặc biệt là khi kể chuyện.
+ Về vốn từ và ngữ pháp
Đến 5 tuổi trẻ đã có đầy đủ vốn từ để nghe, hiểu, và biểu đạt ý nghĩa của
mình với những người xung quanh (khoảng 4000 từ) và biết nói đúng theo cơ cấu
ngữ pháp tiếng mẹ đẻ.
+ Hình thành ngôn ngữ mạch lạc
Ngôn ngữ mạch lạc thể hiện một trình độ phát triển tương đối cao cả về
phương diện ngôn ngữ và phương diện tư duy. Ở trẻ 5 tuổi ngơn ngữ tình huống có
xu hướng giảm dần, ngơn ngữ giải thích và đặc biệt là ngơn ngữ mạch lạc tăng lên
rõ rệt. Ngơn ngữ mạch lạc có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của trẻ,
giúp trẻ thiết lập được các mối quan hệ với những người xung quanh.
Mặc dù, thực tế còn nhiều trẻ nói chưa đúng, phát âm ngọng, dùng từ sai, nói
câu thiếu…(do trẻ bắt chước, học lỏm, sống trong mơi trường kém văn hố…) song
trẻ 5 – 6 tuổi có thể nắm được ý nghĩa của từ vựng thơng dụng, phát âm gần với sự
phát âm của người lớn, biết dùng ngữ điệu phù hợp hồn cảnh giao tiếp…
Vì vậy người lớn cần so sánh trình độ phát triển riêng của từng bé 5 tuổi so
với trình độ phát triển chung của cả độ tuổi để biết sự phát triển của trẻ nhanh hay
chậm để tìm cách giáo dục phù hợp.
3.3. Đặc điểm phát triển mặt cảm xúc và ý chí
- Đặc điểm phát triển xúc cảm
Cuối tuổi mẫu giáo, xúc cảm vẫn tiếp tục phát triển và chi phối mạnh đời
sống tâm lí của trẻ.
Nét đặc biệt trong đời sống tình cảm của trẻ 5 tuổi là sự hình thành tương đối
rõ nét của các loại tình cảm bậc cao như tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm
thẩm mĩ.
+ Tình cảm trí tuệ biểu hiện: trẻ ham hiểu biết, ham tìm tịi khám phá những
điều mới lạ, bí ẩn.
+ Tình cảm đạo đức: trẻ dễ xúc cảm và đồng cảm với con người và cảnh vật
xung
quanh
VD: trẻ dễ thương cảm với người tàn tật hay người có hồn cảnh éo le, trẻ
bộc lộ tình u thương đối với động vật, cây cối…đối với trẻ tất cả đều mang hồn
người. Đây là thời điểm thuận lợi nhất để giáo dục lịng nhân ái.
+ Tình cảm thẩm mĩ: thể hiện ở chỗ trẻ yêu thích cái đẹp xung quanh, mong
muốn làm ra cái đẹp để mang đến niềm vui cho chính mình và cho mọi người. Ở
tuổi này, trẻ rất thích các loại hình nghệ thuật. Những bức tranh đẹp, những bài hát
hay, những truyện cổ tích đầy chất huyền thoại đều rất dễ cuốn hút lòng say mê của
trẻ và để lại những ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn. Do vậy, giáo dục bằng nghệ
thuật đối với lứa tuổi này là phương pháp giáo dục có hiệu quả nhất.
- Đặc điểm phát triển ý chí
Ý chí của trẻ 5 tuổi đã bắt đầu phát triển tạo cho trẻ khả năng điều chỉnh hành
vi. Tuy vậy, tính bột phát vẫn chi phối mạnh mẽ hành vi của trẻ.
7
Đặc điểm nổi bật trong sự phát triển ý chí của trẻ 5 tuổi là ý chí gắn liền với
động cơ hành vi. Lúc này ở trẻ hệ thống thứ bậc các động cơ được hình thành tương
đối rõ nét và bắt đầu có sự đấu tranh động cơ. Từ đó những động cơ xã hội cũng bắt
đầu được hình thành.
CÂU HỎI ƠN TẬP
1. Trình bày sự cần thiết phải chuẩn bị cho trẻ vào lớp một.
2. Hãy làm sáng tỏ một số quan niệm về vấn đề chuẩn bị cho trẻ vào lớp một.
2. Phân tích một số đặc điểm tâm sinh lý của trẻ khi chuẩn bị bước vào lớp một.
CHƯƠNG II
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
1. Từ hoạt động chủ đạo là vui chơi ở trẻ mẫu giáo chuyển sang hoạt động chủ
đạo là học tập ở học sinh tiểu học
Ở tiểu học, học sinh tiếp tục tham gia vào tất cả các hoạt động như vui chơi,
lao động, học tập. Nếu như trước đó - thời kì mẫu giáo hoạt động vui chơi giữ vai
trị chủ đạo thì đến thời điểm này nó sẽ lui về hàng thứ yếu, nhường vai trò hoạt
động chủ đạo cho một hoạt động mới - hoạt động học tập. Vì vậy, nghiên cứu về
hoạt động của học sinh ở tiểu học trước hết là nghiên cứu về hoạt động học tập,
trong đó mốc quan trọng nhất là thời kì trẻ em bắt đầu đi học.
Hoạt động chủ đạo được Lêonchiép nêu khái quát đó là hoạt động mà sự phát
triển của hoạt động ấy quy định những biến đổi chủ yếu nhất trong các qúa trình tâm
lí và trong các đặc điểm tâm lí của nhân cách trẻ. Về mặt tâm lí, có thể coi những
dấu hiệu phát triển tư duy của trẻ là một biểu hiện rõ nét nhất.
Hoạt động giao lưu xúc cảm trực tiếp hướng tới làm thoả mãn nhu cầu chủ
yếu về mặt xúc cảm của trẻ dưới 1 tuổi. Đến giai đoạn tiếp theo (1 – 3 tuổi), nhu cầu
khám phá thế giới đối tượng chủ yếu là khám phá chức năng và phương thức sử
dụng đồ vật bao trùm đời sống tâm lí của trẻ, vì vậy xuất hiện hoạt động với đồ vật.
Thông qua hành động trực tiếp với đồ vật (hành động bằng tay) khả năng tri giác ở
trẻ phát triển mạnh, các biểu tượng về thế giới đồ vật được hình thành. Ở giai đoạn
này, hành động của trẻ luôn gắn trực tiếp với đối tượng, vì thế tạo ra ở trẻ một đặc
trưng mới về tư duy đó là tư duy trực quan hành động. Từ 3 tuổi, ở trẻ bắt đầu xuất
hiện khả năng tách rời hành động ra khỏi đồ vật nảy sinh các kí hiệu về đồ vật, làm
cơ sở hình thành tư duy trực quan hình tượng. Vào học phổ thông, để nắm được các
tri thức khoa học, tư duy của trẻ phải đạt tới trình độ phát triển cao hơn so với sự
phát triển trước đó. Q trình trẻ em tham gia vào hoạt động học tập, lĩnh hội tri
thức, hình thành khái niệm thơng qua các hành động học được thực hiện bằng hệ
thống thao tác là điều kiện kích thích sự xuất hiện năng lực tư duy mới tương xứng.
Hoạt động chủ đạo diễn ra trong khoảng thời gian khá dài, ban đầu còn ở
dạng sơ khai khi đạt tới hình thái chính thức cũng là lúc chuẩn bị chuyển sang thời
kì với hoạt động chủ đạo mới lại bắt đầu ở dạng sơ khai. Nắm được tiến trình phát
triển như vậy của hoạt động chủ đạo sẽ tránh được sự áp đặt máy móc về nội dung,
phương pháp, tránh
8
được sự nơn nóng vội vã về u cầu cần đạt đối với học sinh. Điều quan trọng là
phải thấy được sự lĩnh hội tri thức ở học sinh (nhất là đối với học sinh nhỏ tuổi) là
một quá trình mà động cơ của nó nằm ở cuối q trình của hoạt động, tức là ở kết
quả của hoạt động: chiếm lĩnh tri thức khoa học.
2.Một số đặc điểm cơ bản trong hoạt động của học sinh lớp một
Hoạt động học tập lần đầu tiên xuất hiện và được coi là hoạt động chủ đạo ở
Tiểu học. Chính nhờ các yếu tố cấu thành hoạt động hay nói cách khác là do sự thay
đổi nội dung trong các yếu tố cấu thành hoạt động như các thay đổi về động cơ, đối
tượng, phương tiện…hoạt động mà sự biến đổi được tạo ra trong tư duy trẻ em.
Nghiên cứu về hoạt động học tập ở tiểu học trước hết là xem xét hàng loạt
các yếu tố quan trọng trong mối quan hệ chính nó như: đối tượng và chủ thể hoạt
động, các hành động và thao tác, cơ chế và qui trình lĩnh hội…
2.1. Đối tượng lĩnh hội
Đối tượng lĩnh hội trong hoạt động chính là nội dung học của nhiều lĩnh vực
khoa học khác nhau được tập hợp thành hệ thống khái niệm trong từng môn học.
Leonchiep đã dưa ra những kết luận quan trọng cần được chú ý khi nghiên
cứu về đối tượng lĩnh hội trong mối quan hệ với chủ thể học sinh:
- Đối tượng lĩnh hội và chủ thể luôn thống nhất với nhau trong suốt quá trình
- Đối tượng lĩnh hội được sinh thành cùng với chủ thể hoạt động, có mối
quan hệ hữu cơ với chủ thể, ln ln chứa đựng nhu cầu nào đó của chủ thể. Điều
này cho thấy chỉ khi nào chủ thể tham gia vào hoạt động thì đối tượng mới xuất hiện,
và chỉ có những nội dung nào trở thành đối tượng thì mới đem lại sự phát triển cho
chủ thể học sinh.
- Đối tượng lĩnh hội ở trình độ nào thì chủ thể phát triển ở trình độ đó. Cấu
trúc mới của đối tượng trong hoạt động học tập ở trình độ khái niệm sẽ thúc đẩy
nhanh hơn sự hình thành tư duy khoa học ở học sinh. Vì vậy, xây dựng nội dung
chương trình học tập cho từng cấp, từng lớp là một nhiệm vụ trọng tâm và cơ bản
nhất.
Hiện nay chương trình ở tiểu học được thiết kế thành 9 mơn trong đó mơn
Tiếng Việt có vị trí đặc biệt trong tồn cấp. Riêng đối với lớp một, vấn đề dạy tiếng
Việt càng được chú trọng và có thể coi là mơn học trọng tâm, bởi việc dạy tiếng
Việt có liên quan đến nhu cầu biết đọc, biết viết của học sinh. Đây cũng là mục tiêu
quan trọng ở lớp một. Nếu học xong lớp một, trẻ chưa đọc thông viết thạo hoặc tái
mù sẽ là một chỉ số báo hiệu một thất bại rất lớn của giáo dục tiểu học. Mơn tiếng
Việt ở tiểu học có các hệ thống khái niệm gồm: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Riêng ở
lớp một, khái niệm ngữ âm là đối tượng của hoạt động học tiếng Việt.
VD: Học sinh lớp một nhận diện khái niệm ngữ âm thông qua lĩnh hội cấu
trúc âm tiết tiếng Việt. Cấu trúc này được mô tả bằng sơ đồ sau:
Thanh điệu
Âm đầu
Vần
Âm đệm
Âm chính
Âm
cuối
Tuy nhiên, việc dạy âm và chữ ln gắn với nhau thành một thể thống nhất
bởi tính tất yếu khách quan của nó.
2.2. Các hành động học
Các hành động học là phương tiện trong hoạt động học tập mà học sinh phải
sử dụng để lĩnh hội khái niệm trong hoạt động. Các hành động học bao giờ cũng
được triển khai bằng hệ thống thao tác (thao tác là khái niệm quan trọng trong tâm lí
học).
9
Khi mô tả cấu trúc vĩ mô của hoạt động Leonchiep đã phân biệt thao tác với
thành tố khác bằng sự sắp xếp các cặp tương ứng như sau:
Hoạt động - Động cơ
Hành động - Mục đích
Thao tác - Phương tiện
Như vậy, một trong những dấu hiệu phân biệt hành động và thao tác chính là
ở mục đích và phương tiện. Nói cách khác cách thức hành động chính là thao tác.
Hoạt động học ở tiểu học được thực hiện thơng qua 4 hành động sau:
2.2.1. Hành động phân tích
Hành động phân tích được triển khai trên hệ thống thao tác phân tích nhằm
phân giải đối tượng trên đơn vị ngày càng nhỏ hơn, cụ thể hơn. Hành động phân tích
là điểm tựa đầu tiên của q trình lĩnh hội. Dựa vào hành động phân tích, trẻ em có
thể phân giải cấu trúc âm tiết tiếng Việt, phân giải tập hợp thành các bộ phận, phân
giải các lớp số trong tốn học…
2.2.2 Hành động mơ hình hố
Hành động mơ hình hố được triển khai trên hệ thống thao tác mơ hình hố,
trong đó diễn ra q trình trẻ em ghi lại kết quả thực hiện hành động phân tích dưới
dạng mơ hình. Đối với học sinh tiểu học, đặc biệt là lớp một, nội dung, khái niệm
khoa học còn rất trừu tượng. Vì vậy, việc sử dụng mơ hình để phân tích đối tượng
giúp q trình lĩnh hội thực hiện một cách hiệu quả.
VD: Muốn học sinh lĩnh hội được cấu trúc âm tiết tiếng Việt người ta trải
lôgic của cấu trúc này trên một mơ hình rỗng:
Việt:
Dựa vào mơ hình này, học sinh sẽ phân tích để nhận ra 4 cấu tạo của vần
tiếng
- Vần có một âm chính
- Vần có âm đệm và âm chính
- Vần có âm, âm chính, âm cuối
- Vần có âm đệm, âm chính, âm
cuối VD: phân tích tiếng Loan
L
O
A
N
Từ việc ghi lại cấu trúc âm thanh ngôn ngữ trên sơ đồ sẽ giúp trẻ khắc phục
được những sai sót trong đọc và viết chính tả.
2.2.3. Hành động cụ thể hố
Hành động cụ thể hoá được triển khai trên hệ thống thao tác cụ thể hố.
Thực hiện hành động cụ thể hố có nghĩa là trẻ em đi vào giải quyết những tình
huống cụ thể. Dựa trên mẫu khái quát ban đầu, trẻ em thay thế vào đó các vật liệu
mới, để tìm ra lời giải.
Hành động cụ thể hoá làm cho đối tượng lĩnh hội trở nên thực tiễn và được
củng cố vững chắc hơn đối với nhận thức của học sinh.
2.2.4. Hành động kiểm tra đánh giá
Hành động kiểm tra đánh giá được triển khai trên hệ thống thao tác kiểm tra
đánh giá để xác định mức độ kết quả hoạt động. Đây là khâu cuối cùng của quá
trình hoạt động. Trong đó trẻ em xem xét chính xác hố tồn bộ nội dung của đối
tượng lĩnh hội.
2.2.5. Các giai đoạn của quá trình tổ chức hoạt động học tập
10
Quá trình tổ chức cho học sinh lĩnh hội khái niệm khoa học trong hoạt động
học tập ở tiểu học diễn ra theo quy trình gồm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Hình thành
Đây là giai đoạn cơng phu và kó khăn nhất đối với trẻ. Nhờ vào các thao tác
được thực hiện nhiều lần trên vật liệu và mơ hình mẫu, trẻ dần dần nhận ra cấu trúc
lôgic cũng như bản chất của đối tượng lĩnh hội. Khi khái niệm đã được hình thành ở
dạng sơ khai trẻ chuyển sang giai đoạn luyện tập.
Giai đoạn 2: Luyện tập
Ở giai đoạn này trẻ bắt đầu học thay thế các vật liệu khác nhau vào vật liệu
mẫu. Chất liệu mới được củng cố và việc thực hiện thao tác trong hoạt động sẽ tạo
thành kĩ năng, kĩ xảo ở học sinh.
Giai đoạn 3: Ứng dụng
Đến giai đoạn ứng dụng, trẻ đã nắm được căn bản cách tiếp cận đối tượng
(cách học) và nội dung đối tượng (tri thức khoa học).
Sự phân chia các giai đoạn như trên trong thực tiễn thường không tách biệt
mà đan xen vào nhau trong từng tiết học hay trong q trình.
3. Một số khó khăn đối với học sinh lớp một
Những yêu cầu mới ở phổ thông đặt ra cho học sinh lớp một nhiều khó khăn
cần được quan tâm. Hàng loạt các vấn đề: thói quen sinh hoạt, môi trường hoạt
động với các mối quan hệ mới, nội dung và phương thức lĩnh hội tri thức…sẽ phải
được thay đổi khi trẻ vào lớp một.
Phần lớn trẻ em đã thích ứng với yêu cầu học tập ở trường phổ thơng sau khi
kết thúc học kì 1. Tuy nhiên, cịn một bộ phận khơng nhỏ vẫn rất lúng túng, đặc biệt
là khó khăn trong việc nắm bắt phương thức lĩnh hội nội dung các môn học, lúng
túng về cách học.
Các khó khăn đối với học sinh lớp một có thể quy về một số dạng như sau:
3.1. Sự thay đổi các thói quen sinh hoạt
- Ở mẫu giáo: trẻ thường được thoả mãn các nhu cầu về vui chơi, nghỉ ngơi,
ăn uống…việc tham gia các hoạt động chung cũng xuất phát phần lớn từ nhu cầu cá
nhân. Mọi hoạt động mang tính chất tự do thoải mái, tiết học ít, ngắn hơn và khơng
u cầu cao như ở lớp một.
Ở trường phổ thông: chế độ sinh hoạt của trẻ thay đổi hoàn toàn, các quy
định trong sinh hoạt mang tính nguyên tắc. Quy định đối với giờ học, giờ chơi, quy
định các yêu cầu về kiến thức kĩ năng trong mỗi tiết học, bài học được định lượng
trở thành yêu cầu bắt buộc phải thực hiện đối với học sinh.
Vì vậy, khó khăn đầu tiên khi trẻ vào lớp một là sự thay đổi trong thói quen
sinh hoạt, mà điểm đáng quan tâm nhất là thói quen về chế độ học tập.
Trong các giờ học đầu tiên ở lớp một (khoảng thời gian của học kỳ một) phần
lớn trẻ còn rất ngơ ngác, lúng túng trước yêu cầu của giáo viên, nhiều trẻ lơ đãng,
ngủ gật, mệt mỏi, ngồi khơng n…Đến hết lớp một, tình trạng này mới cơ bản
chấm dứt, dần dần trẻ đi vào nề nếp.
Việc giúp trẻ quen dần với yêu cầu của lớp một là cơng việc khó khăn vất vả
mà giáo viên lớp một giữ vai trị quan trọng trong suốt q trình này.
3.2. Sự thay đổi cơ chế lĩnh hội (thay đổi cách học)
Nội dung học tập ở trường phổ thông được cấu trúc thành hệ thống theo
chương trình các mơn học. Học sinh lĩnh hội các kiến thức khoa học trong từng bài,
từng tiết theo mục đích u cầu mơn học để đạt mục tiêu tồn cấp.
Một trong những khó khăn nhất ở lớp một là phải giải quyết được mâu thuẫn
trong mối quan hệ giữa trình độ phát triển của trẻ em và yêu cầu của nhiệm vụ học
tập mới được đặt ra ở lớp một. Làm thế nào để có thể giúp trẻ em lĩnh hội được tri
thức khoa học
11
vừa trừu tượng lại vừa mang tính khái quát, trong khi tư duy đứa trẻ lại chưa vượt
qua được trình độ tư duy trực quan cụ thể, nhận thức còn hết sức cảm tính, trẻ rất
khó khăn khi đi sâu tìm hiểu khám phá cấu trúc lơgic bản chất của đối tượng lĩnh
hội.
Điều hết sức quan trọng ở lớp một là phải tập cho trẻ nghĩ, tức là tập cho trẻ
làm việc trí óc, biết chuyển các hành động bên ngoài thành các hành động bên trong
của tư duy.
Ngoài ra, cịn một loạt khó khăn khơng nhỏ đối với học sinh lớp một như tư
thế ngồi học, cách cầm bút, thực hiện hiệu lệnh học tập, cách làm bài kiểm tra…Vì
vậy, đối với học sinh lớp một việc dạy cho trẻ học cách học là một nhiệm vụ cực kì
quan trọng.
3.3. Sự thiết lập quan hệ mới
Bước vào lớp một, những mối quan hệ của trẻ thay đổi. Trẻ phải thực hiện
nghĩa vụ cơng dân đó là hồn thành nhiệm vụ học tập ở trường phổ thơng. Chính sự
thay đổi này là nguyên nhân căn bản thúc đẩy sự hình thành giữa trẻ và những
người xung quanh một quan hệ mới so với trước đó.
Những thay đổi trong mối quan hệ với thầy cô giáo và tập thể học sinh cùng
lớp có ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với đứa trẻ.
Giáo viên có trách nhiệm giảng dạy, học sinh có trách nhiệm học và hoàn
thành nhiệm vụ học tập. Giáo viên sẽ là người đánh giá kết quả học tập của học sinh,
thậm chí sẽ phải nhắc nhở, khiển trách những học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ.
Học sinh phải làm việc độc lập trong suốt quá trình tham gia hoạt động học tập từ
việc lĩnh hội tri thức đến thực hành kiểm tra đánh giá. Bên cạnh đó, kết quả đạt
được của từng học sinh lại liên quan đến kết quả chung của tập thể lớp.
VD: bị điểm kém, không mặc đồng phục…đều ảnh hưởng đến tập thể
Mối quan hệ trên địi hỏi ở học sinh lớp một tính tự lập cao hơn, cứng rắn và
có ý thức khơng chỉ đối với nhiệm vụ được giao mà còn ý thức được trách nhiệm
với tập thể. những trẻ nhút nhát hoặc chưa nhanh chóng điều chỉnh nhận thức để hồ
vào mối quan hệ mới dễ dẫn tới tình trạng lo lắng sợ sệt ngại tiếp xúc với cô giáo và
bạn bè.
Vì vậy, ngay từ khi cịn ở mẫu giáo hoặc ở nhà cần tạo cho trẻ một tâm thế
thoải mái, hình thành tính tự lập, tự tin là một điều kiện giúp trẻ nhanh chóng tiếp
nhận, hồ đồng vào mối quan hệ mới trong trường phổ thông.
4. Một vài yêu cầu cơ bản của người học sinh lớp một ở trường phổ thông
Để công tác chuẩn bị cho trẻ vào lớp một có hiệu quả ta khơng thể khơng
nghiên cứu chương trình học tập của học sinh lớp một; yêu cầu, nhiệm vụ của người
học sinh lớp một trong quá trình học tập ở trường phổ thơng.
Những u cầu, nhiệm vụ đối với học sinh lớp một được thể hiện trong nội
dung các môn học, trong nội quy, điều lệ của trường phổ thông.
Nội dung dạy học lớp một hiện nay rất phong phú và phức tạp. Học sinh
không chỉ tập đọc, tập viết, tập làm tốn… mà cịn phải học các môn như kỹ thuật,
mĩ thuật, tự nhiên & xã hội, hát nhạc,…Những tri thức của các môn học mang tính
khái quát về các sự vật hiện tượng của thế giới xung quanh. Để tiếp thu được tri
thức của các mơn học này, địi hỏi người học sinh phải có khả năng hoạt động trí óc
căng thẳng, linh hoạt và dẻo dai; có vốn hiểu biết nhất định về thế giới xung quanh,
biết sử dụng thành thạo các thao tác trí tuệ như óc quan sát, định hướng, phán đốn,
khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp, khái qt…, có ngơn ngữ phát triển, sự tập
trung chú ý và nỗ lực ý chí cao, sự say mê hoạt động trí óc…
So sánh nội dung tri thức của một số môn học của học sinh lớp một với mẫu
giáo ta thấy, nhiều tri thức của một số môn ở lớp một là sự khái quát hoá, hệ thống
hoá những tri thức mà trẻ đã được làm quen và lĩnh hội ở trường mầm non.
Như trên đã trình bày, bước vào lớp một là bước vào môi trường hoạt động
mới với những mối quan hệ mới. Những hành vi, cách ứng xử với người lớn, với
bạn bè đã
12
thay đổi. Quan hệ “thầy – trò” thay cho quan hệ “Cơ – cháu”. Quan hệ này mang
tính chất nghiêm túc hơn so với quan hệ “Cô – cháu” mềm dịu theo kiểu “Mẹ - con”.
Quan hệ bạn bè trước đây là quan hệ bạn chơi nay quan hệ bạn bè là bạn học. Yêu
cầu đối với quan hệ này cũng khác, địi hỏi phải có trách nhiệm giúp đỡ nhau trong
học tập và “nhóm học tập” được hình thành.
Ngồi việc thay đổi quan hệ xã hội, thay đổi nội dung, tính chất hoạt động,
trẻ phải tập luyện một loạt kĩ năng mới: tập đọc, tập viết, tập làm toán... để hồn
thành nhiệm vụ theo tính chất cá nhân “bài tập trên lớp, bài tập về nhà...”.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích những đặc điểm chủ yếu trong hoạt động học tập của học sinh lớp một.
2. Nêu những nguyên nhân khiến trẻ chưa thích nghi với việc đến trường. Nên giúp
trẻ khắc phục như thế nào?
3. Trẻ thường gặp khó khăn gì khi vào lớp một?
CHƯƠNG III
NỘI DUNG CHUẨN BỊ CHO TRẺ 5 TUỔI
VÀO TRƯỜNG TIỂU HỌC
1. Chuẩn bị tâm thế cho trẻ đi học
Lần đầu tiên trẻ đi học, cha mẹ phải chuẩn bị rất nhiều thứ cho trẻ. Nhưng có
một thứ quan trọng lại hay bị bỏ qn hoặc xem nhẹ: đó chính là chuẩn bị tâm lí cho
trẻ trước khi đến trường. Để giúp trẻ thích ứng với mơi trường hoạt động mới và
học tập có kết quả ở trường phổ thông, việc chuẩn bị cho trẻ phải được tiến hành
một cách tồn diện và có cơ sở khoa học.
1.1. Nuôi dưỡng hứng thú học tập cho trẻ
Học tập là hoạt động chủ đạo của học sinh, hiệu quả của hoạt động này phụ
thuộc khá lớn vào hứng thú nhận thức của người học sinh, có hứng thú trẻ sẽ học
tập tốt hơn. Hứng thú nhận thức khơng phải là cái bẩm sinh vốn có của mỗi người.
Nó là sản phẩm của q trình giáo dục có tổ chức của nhà giáo dục. Vì vậy, ngay từ
những ngày đầu lớp một cần bồi dưỡng hứng thú học tập cho trẻ.
Trong quá trình tổ chức các hoạt động cho trẻ, đặc biệt là hoạt động chơi, cần
kích thích lịng ham hiểu biết, tìm tịi khám phá của trẻ. Ln tạo ra những tình
huống có vấn đề để kích thích trẻ suy nghĩ và giải quyết vấn đề.
VD: trong tiết học cho trẻ làm quen với chữ cái, ta có thể tạo tình huống: cũng
một chữ p ta lật ngược xuống thành chữ b, lật sang trái thành chữ d và lật ngược
xuống thành chữ q…cuối cùng ta có thể giúp trẻ phân biệt được 4 chữ nói trên ở vị
trí khơng gian của các nét chữ và trẻ hứng thú học.
Ngồi ra, trong q trình tổ chức các hoạt động và cuộc sống của trẻ chúng ta
cần khuyến khích trẻ tìm tịi, khám phá những điều mới lạ xung quanh và những
sáng kiến của trẻ.
1.2. Kích thích lòng mong muốn được đi học của trẻ
13