Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tiểu luận chuyên ngành sự phát triển chủ nghĩa tư bản nga thời cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.69 KB, 29 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
SỰ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NGA THỜI
CẬN ĐẠI

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1.
Thời kỳ cận đại

1
2
2

2.
Chủ nghĩa tư bản thời kỳ cận đại
3.
Sự phát triển chủ nghĩa tư bản Nga thời cận đại
4.
Xu hướng phát triển chủ nghĩa tư bản Nga hiện nay


KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

3
10
15
24
25


MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa tư bản trong quá trính phát triển đã có vai trị tiến bộ lịch sử
đối với việc phát triển lực lượng sản xuất và xã hội hoá lao động. Các nhà sáng
lập của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đánh giá rất khách quan cơng lao đó của chủ
nghĩa tư bản đối với lịch sử nhân loại. Cũng chính trên cơ sở phát triển lực
lượng sản xuất, chế độ tư bản đã có những tiến bộ đáng kể trên các lĩnh vực văn
hoá, xã hội, nhân văn. Vài thập kỷ gần đây, nhờ nhanh chóng ứng dụng những
thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những
bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, làm thích ứng quan hệ sản xuất và
thực hiện được sự điều chỉnh những quan hệ xã hội ở mức độ nhất định trong
khuôn khổ chế độ tư bản.
Nga là một quốc gia cộng hịa liên bang nằm ở phía bắc của lục địa Á Âu. Đây là quốc gia có diện tích lớn nhất trên thế giới. Nga có ngân sách quốc
phịng lớn thứ 11 thế giới trong năm 2021. Đây là một trong những nhà nước sở
hữu vũ khí hạt nhân được cơng nhận và đồng thời sở hữu kho vũ khí hủy diệt
hàng loạt lớn nhất thế giới. Nga có truyền thống lâu đời về nhiều lĩnh vực khoa
học và nghệ thuật, bao gồm những thành tựu quan trọng như tàu vũ trụ đầu tiên
của loài người. Nga cũng là một cường quốc về mặt quân sự, có tiếng nói đối
trọng với NATO nói chung và Hoa Kỳ nói riêng. Những thành tựu về chính trị,
kinh tế, xã hội của nước Nga đều gắn với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nga
thời cận đại. Nghiên cứu làm rõ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nga thời cận

đại có ý nghĩa quan trọng, giúp chúng ta có góc nhìn về nước Nga ngày nay. Vì
vậy, nghiên cứu vấn đề “Sự phát triển chủ nghĩa tư bản Nga thời cận đại” làm
đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

3


NỘI DUNG
1. Thời kỳ cận đại
Cận đại là thuật từ được dùng để chỉ thời kỳ lịch sử tiếp nối thời trung đại,
có liên quan tới thời hiện đại. Trong tiếng Việt, thuật từ này theo nghĩa hẹp chỉ
tương ứng với “hậu kỳ cận đại” bắt đầu vào giữa thế kỷ 18, hoặc hẹp hơn nữa
bắt đầu vào khoảng năm 1900; theo nghĩa rộng thuật từ này còn bao gồm cả “sơ
kỳ cận đại” bắt đầu vào khoảng năm 1500 hoặc trước đó vài thập kỷ, diễn ra
những sự kiện như nghệ thuật Phục Hưng phổ biến rộng khắp châu Âu, Đế quốc
Byzantime sụp đổ và thời đại khám phá. Thời kỳ cận đại gắn liền với sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản, những tiến bộ công nghệ và các cuộc cách mạng.
Dựa theo những tiêu chí chính trị và văn minh, lý giải về sự kiện khởi đầu
cũng như sự kiện kết thúc của thời kỳ Cận đại không được đồng nhất:
Thời kỳ cận đại kéo dài từ năm 1453 khi Constantinopolis rơi vào tay đế
quốc Ottoman đến khi Cách mạng Pháp bùng nổ năm 1789.
Từ khi nội chiến Anh bùng nổ năm 1640 đến khi Cách mạng Tháng
Mười diễn ra năm 1917 ở nước Nga.
Từ sau những cuộc phát kiến địa lý ở thế kỷ XV cho đến trước cuộc Cách
mạng khoa học - kỹ thuật đương đại (diễn ra vào giữa thế kỷ XX).
Thời kỳ cận đại chứng kiến chủ nghĩa tư bản thế giới trên đà phát triển,
các thể chế quốc gia dân chủ được thiết lập và củng cố, giữa hai nền văn minh
phương Đông, phương Tây xảy ra những cuộc xung đột, nhưng bên cạnh đó
cũng có sự giao lưu. Cũng trong thời kỳ này, cuộc Cách mạng cơng nghiệp - cơ
khí được thực hiện.

Đối với các quốc gia Đông phương, thời Cận đại thường được xem là
khởi đầu với cuộc xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Theo Từ điển
Tiếng việt, thời Cận đại ở các nước Đông phương gắn liền với quá trình xâm
lược và chống xâm lược, sự chuyển biến hình thái kinh tế - xã hội theo chiều
hướng tư bản chủ nghĩa, quá trình cải cách và cách mạng của những cơ cấu
quyền lực chính trị [4, tr.719].
4


2. Chủ nghĩa tư bản thời kỳ cận đại
Chủ nghĩa tư bản là hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội mà trong đó phần
lớn tài sản, kể cả tài sản dùng trong sản xuất, thuộc sở hữu tư nhân.
Chủ nghĩa tư bản khác chủ nghĩa phong kiến - hệ thống kinh tế trước nó ở chỗ dịch vụ lao động được mua bán, trao đổi để lấy tiền lương, chứ không
được cung ứng trực tiếp thông qua tạp dịch hay theo lệnh của lãnh chúa.
Nó cũng khác chủ nghĩa xã hội ở điểm cơ bản là trong chủ nghĩa xã hội,
hình thức sử hữu chủ yếu là sở hữu xã hội (toàn dân và tập thể).
Trong chủ nghĩa tư bản, cơ chế giá được sử dụng làm hệ thống tín hiệu
cho việc phân bổ nguồn lực vào các mục đích sử dụng khác nhau. Các dạng
khác nhau của chủ nghĩa tư bản được đặc trưng bởi quy mô sử dụng cơ chế giá
cả, mức độ cạnh tranh trên thị trường và quy mơ can thiệp của chính phủ.
Các hình thái của chủ nghĩa tư bản:
Tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp, được tách
ra làm nhiệm vụ bán hàng nhằm mục địch tăng hiệu quả cho q trình sản xuất
và lưu thơng hàng hóa
Tư bản cho vay ra đời nhằm huy động vốn để mở rộng sản xuất phù hợp
với sự phát triển của quan hệ hàng hóa -tiền tệ khi đến trình độ nào đó xuất
hiện việc thừa hoặc thiếu tiền
Tư bản tồn tại dưới hình thức vốn cổ phần , bộ phận tư bản này mang lại
cho người chủ sở hữu nó khoản thu nhập của cơng ty , đó là lợi tức cổ phần nguồn gôc từ giá trị thặng dư.
Tư bản kinh doanh nông nghiệp và địa tô tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm của

tư bản kinh doanh nông nghiệp là có ba giai cấp tham gia : chủ tư bản kinh
doanh trong lĩnh vực nông nghiệp , công nhân nông nghiệp và chủ đất. Nghiên
cứu tư bản kinh doanh nông nghiệp ở đây là nghiên cứu bộ phận tư bản tồn tại
dưới dạng giá trị ruộng đât của chủ đât - nó đem lai cho chủ sở hữu nó phần thu
nhập gọi là địa tơ.

5


Chủ nghĩa tư bản là một kiểu của hệ thống thị trường trong đó hàng hóa
được sản xuất với mục đích trao đổi hơn là mục đích khác như để tự sử dụng
hay để những người cụ thể khác (như họ hàng hay hàng xóm) sử dụng, hay để
hồn thành một kế hoạch kinh tế tập trung. Nhưng Marx, người phổ biến thuật
ngữ “chủ nghĩa tư bản”, đã nhấn mạnh với lý do đáng tin cậy rằng Chủ nghĩa tư
bản không chỉ là một hệ thống thị trường [1, tr.167]. Lý do đáng tin cậy ở đây
là, một số hệ thống kinh tế khá khác biệt nhau đã từng tồn tại trong lịch sử, gồm
cả những cộng đồng nông dân và thợ thủ công, và những hệ thống nô lệ mang
tính định hướng.
Chủ nghĩa tư bản là một hệ thống thị trường trong đó sản xuất dựa trên
mối quan hệ lao động làm cơng ăn lương. Điều đó có ý nghĩa, một giai cấp riêng
biệt các nhà tư bản nắm giữ các tư liệu sản xuất và thuê nhân công làm công ăn
lương để sản xuất ra sản phẩm mà nhà tư bản cạnh tranh để bán trên thị trường.
Những người lao động làm công ăn lương là giai cấp tự do “kép”. Khác với
những nông nô hay nô lệ, họ không bị ràng buộc bởi bất cứ sự cưỡng bức lao
động cụ thể nào. Họ cũng không lệ thuộc vào bất cứ phương tiện kiếm sống nào
ngoài việc bán khả năng lao động của mình, khơng giống như những nông dân
hay thợ thủ công tự do, những người sở hữu cả tư liệu sản xuất lẫn kỹ năng cho
phép họ tồn tại bằng cách tự sản xuất hàng hóa để bán và/hoặc tự sử dụng. Tự do
theo nghĩa kép như vậy, người lao động làm cơng ăn lương có thể và phải bán
khả năng lao động cho những chủ sở hữu tư liệu sản xuất để đổi lấy phương tiện

vật chất cho đời sống kinh tế của họ. Để mối quan hệ lao động làm công ăn
lương là cơ sở cho một hệ thống có thể tái tạo qua thời gian, nhà tư bản phải trả
một khoản lương cung cấp “sinh kế” cho cơng nhân, có nghĩa là khoản lương ấy
đủ để cho phép người công nhân tồn tại (và do đó tiếp tục làm việc ngày tiếp
sau) theo mức sống được xã hội chấp nhận đối với người cơng nhân đó ở lúc bấy
giờ. Những lợi nhuận mà các nhà tư bản nhận đợc bắt nguồn từ giá trị thặng dư
được tạo nên qua mối quan hệ lao động làm công ăn lương. Giá trị thặng dư này

6


là sự chênh lệch giữa giá trị (thực) của những sản phẩm lao động của người làm
công làm ra và tiền lương “sinh kế” (ví dụ như: tái sản xuất).
Những tính quy định trên đây của Chủ nghĩa tư bản làm nền cho lợi ích
xã hội then chốt mà Marx đã quy định cho Chủ nghĩa tư bản : thiên hướng mạnh
mẽ của nó đối với việc phát triển các lực lượng sản xuất thơng qua tích lũy vốn
và đổi mói.
Từ phân tích trên đây, người ta có thể rút ra ba đặc tính của Chủ nghĩa tư
bản tương ứng với kết quả này: 1) Các nhà tư bản chịu trách nhiệm về các nhà
máy sản xuất ra hàng hóa; 2) Để sản xuất hàng hóa, các nhà tư bản phải trả tiền
lương vừa đủ sống cho những công nhân thực sự sản xuất; 3) Các nhà tư bản
cạnh tranh với nhau để bán được những hàng hóa ấy trên thị trường. Cạnh tranh
buộc các nhà tư bản phải liên tục hạ thấp giá thành hàng hóa nếu họ muốn tồn
tại, và việc điều khiển quá trình sản xuất tạo cho họ phương tiện để thực hiện
điều trên. Cái thực tế là hàng hóa được những người lao động làm công ăn
lương, những người phải được trả đồng lương đủ sống sản xuất ra, ngụ ý rằng về
lâu dài thì các nhà tư bản chỉ có thể giảm giá thành hàng hóa qua tích lũy và đổi
mới (là cái vốn làm tăng năng suất lao động).
Vai trò “cách mạng” này của các nhà tư bản khác với những xu hướng khá
bảo thủ của những kẻ chiếm đoạt lao động thặng dư trước đây, chẳng hạn các

chủ nô và chủ phong kiến. Nó cũng khác với hành vi của những loại chủ sở hữu
khác đã tồn tại trước đó hay đang cùng tồn tại với Chủ nghĩa tư bản , đặc biệt là
địa chủ, những người cho vay lãi và thương nhân. Ba loại nhân vật xã hội vừa
nêu trên có thể được gắn với những phương thức sản xuất khác nhau, bao gồm
các chế độ nô lệ, phong kiến và Chủ nghĩa tư bản . Khi gắn liền với chế độ Chủ
nghĩa tư bản , giống như các nhà tư bản, ba loại người này có thể bị buộc phải
tham gia cạnh tranh, nhưng họ khơng chủ trì việc sản xuất hàng hóa và thu nhập
của họ cũng khơng trực tiếp bắt nguồn từ việc chiếm đoạt giá trị thặng dư của
lao động làm cơng ăn lương. Do đó, họ khơng có động cơ bắt buộc giống như
nhà tư bản, tức là phải phát triển các lực lượng sản xuất thơng qua tích lũy và
7


chuyển đổi phương pháp sản xuất. Địa chủ thu tô thơng qua việc nắm giữ những
món q của tự nhiên, thứ mà các nhà tư bản phải sử dụng để sản xuất ra hàng
hóa. Những người cho vay lãi khống chế lối vào nguồn vốn tài chính và địi lãi
suất khi cho vay. Thương nhân mua hàng rẻ, bán đắt. Thế nên, thu nhập tài sản
của những loại người này bắt nguồn từ việc kiểm soát độc quyền đối với những
đầu vào thiết yếu và buôn bán sắc sảo chứ không phải từ việc chuyển đổi một hệ
thống sản xuất mà thậm chí họ khơng điều khiển.
Những mặt tích cực của chủ nghĩa tư bản thời cận đại:
Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một sự phát triển mới của lực lượng sản xuất.
Nền tảng vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa có những thay đổi
quan trọng với sự xuất hiện hàng loạt yếu tố rất hiện đại của tư liệu sản xuất và
công nghệ dựa trên những thành tựu khoa học mới.
Vai trò tích cực của con người trong sản xuất và khả năng lao động sáng
tạo của họ được nâng cao.
Chủ nghĩa tư bản đã thực hiện một sự chuyển dịch lớn trong cơ cấu kinh
tế, dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động mới. Vai
trị trí tuệ ngày càng tăng lên, đặc biệt các ngành dịch vụ trở thành một khu vực

kinh tế quan trọng sự phát triển kinh tế, xã hội. Cơ cấu kinh tế ngày càng có tính
năng động và tối ưu hóa.
Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy q trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế
giới. Xu hướng xây dựng một nền kinh tế mở, vận động theo cơ chế thị trường
đang ngày càng phát triển khắp toàn cầu.
Chủ nghĩa tư bản đã thực hiện những điều chỉnh, thích nghi đáng kể về
quan hệ sản xuất. Về quan hệ sở hữu tư bản, sự thay đổi, thích nghi thể hiện rõ
nét ở q trình đa dạng hóa các hình thức sở hữu tư bản: hình thành sở hữu tư
bản tập thể, sở hữu hỗn hợp, đặc biệt là việc cổ phần hóa tư bản bằng bán các cổ
phiếu có giá trị nhỏ cho người lao động ở nhiều nước tư bản phát triển như là
một hình thức mới của chế độ tham dự mà giai cấp tư sản sử dụng để sử dụng

8


vốn nhàn rỗi, vừa xoa dịu đấu tranh của quần chúng và làm cho quan hệ sở hữu
tư bản thích ứng với sự xã hội hóa sản xuất.
Về quan hệ tổ chức, quản lý kinh tế, có sự tăng lên vai trò quản lý, điều
tiết của nhà nước tư sản đối với kinh tế vĩ mô. Giai cấp tư sản dựa trên những
thành tựu của khoa học và công nghệ đã phát triển những hình thức tổ chức lao
động mới, khai thác, tận dụng năng lực trí tuệ và khả năng sáng tạo của người
lao động trong các xí nghiệp, để phục vụ mục đích làm giàu bằng những phương
pháp bóc lột tinh vi. Song, cũng phải thấy rằng trên những mặt nhất định, người
lao động được đào tạo, nâng cao trình độ và bắt đầu có vai trị nhất định trong
quá trình quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Về quan hệ phân phối, ở một số nước tư bản, giai cấp tư sản đã phải dùng
một phần lợi nhuận do công nhân tạo ra để phân phối lại cho người lao động
(tuy phần này rất nhỏ so với phần giai cấp tư sản chiếm đoạt) dưới những hình
thức: trả lợi tức cổ phiếu, chia lợi nhuận, thưởng sáng kiến...
Nhà nước tư sản trên thực tế đã có sự quan tâm điều chỉnh một số vấn đề

xã hội như: tăng đầu tư cho sự nghiệp y tế, giáo dục, nâng cao trình độ dân trí,
hệ thống bảo hiểm, bảo vệ mơi trường... Ngồi ra, do tác động của nhiều nhân
tố, nhà nước tư sản còn phải quan tâm đến vấn đề công bằng xã hội trên những
mức độ nhất định như: điều tiết phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp giàu
nghèo thơng qua chính sách thuế, tăng cứu trợ xã hội, điều chỉnh quan hệ giữa
chủ và thợ thông qua các luật...
Cần thấy rằng, những điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra
cho nó một sự phát triển đáng kể trước những địi hỏi, thách thức mới của thời
đại, tạo ra những khả năng kéo dài sự tồn tại của nó. Chủ nghĩa tư bản đã thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao động lên những bước
mới. Sở dĩ chủ nghĩa tư bản thực hiện được những phát triển, biến đổi, thích ứng
đó là do có các nguyên nhân sau đây:
Mục tiêu chạy theo lợi nhuận buộc giai cấp tư sản phải tìm cách ứng dụng
nhanh nhất những thành tựu của khoa học và công nghệ, tận dụng tối đa nhân tố
con người, tìm cách điều hịa, xoa dịu các mâu thuẫn vốn có.
9


Chủ nghĩa tư bản sẵn có một cơ sở vật chất - kỹ thuật phát triển cao tích lũy
hàng mấy trăm năm, đây chính là điều kiện vật chất giúp nó có thể ứng dụng nhanh
các thành tựu khoa học, công nghệ mới để thực hiện sự phát triển và thích nghi.
Do tác động của các mâu thuẫn kinh tế - xã hội vốn có của chủ nghĩa tư
bản và cuộc đấu tranh quyết liệt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Nhà nước tư sản đóng một vai trị tích cực và quan trọng đối với sự phát
triển, thích ứng của chủ nghĩa tư bản. Với bản chất giai cấp và kinh nghiệm
quản lý hàng mấy trăm năm, trước những yêu cầu mới, nhà nước tư sản đã sớm
nhận thức nhiều vấn đề quan trọng như: sự đòi hỏi chuyển nền kinh tế từ tái sản
xuất theo chiều rộng sang chiều sâu; vai trò của khoa học, công nghệ, giáo dục,
nhân tố con người đối với sự phát triển kinh tế, xã hội,... Trong hành động, nhà
nước tư sản đề ra được chiến lược, chính sách phát triển, chủ động tạo ra các cơ

sở kinh tế - xã hội làm chỗ dựa cho chế độ tư bản, tác động và tổ chức sự liên
kết, hợp tác, phân cơng quốc tế hóa hệ thống tư bản...
Về mặt hạn chế, mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản thời cận đại:
Tồn bộ sự biến đổi, thích nghi của chủ nghĩa tư bản dù có đạt những
thành tựu đáng ghi nhận vẫn không hề vượt ra khỏi quan hệ tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa tư bản vẫn là một chế độ người bóc lột người, có điều là hình thức
bóc lột ngày càng tinh vi và khó thấy hơn. Suy cho cùng, mục đích trực tiếp của
sự điều chỉnh, thích nghi đó là để mang lại lợi nhuận nhiều hơn và củng cố vững
chắc hơn sự thống trị kinh tế chính trị của bọn tư bản độc quyền. Nếu sự điều
chỉnh quan hệ sản xuất và các quan hệ xã hội xâm phạm đến lợi ích cơ bản của
chủ nghĩa tư bản độc quyền thì khơng bao giờ nó cho phép.
Về việc điều hòa, xoa dịu các mâu thuẫn xã hội, giai cấp tư sản ở các
nước phát triển chỉ tiến hành đối với những mâu thuẫn nào đe dọa chính chủ
nghĩa tư bản ngay tại sào huyệt, khu vực trung tâm của nó. Những mâu thuẫn ở
vùng ngoại vi cho dù rất gay gắt (như mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và các
nước đang phát triển hiện nay), thì nó vẫn có thể phớt lờ hoặc xoa dịu ở những
mức độ nhất định vì những mâu thuẫn đó chưa trực tiếp đe dọa sự tồn tại của
chủ nghĩa tư bản tại trung tâm.
10


Sự phát triển, biến đổi, thích nghi của chủ nghĩa tư bản không phải là vô
hạn như một số người quan niệm mà trái lại có những giới hạn nhất định. Những
giới hạn này đã thể hiện khá rõ nét trên một số vấn đề sau: Ở các nước tư bản
phát triển, cùng với tình hình kinh tế khơng sáng sủa, đang diễn ra sự khủng
hoảng về thể chế chính trị, khủng hoảng chính phủ, khủng hoảng lịng tin. Tình
hình đặc biệt nghiêm trọng ở Italia, Nhật Bản và một số nước khác. Những vấn
đề xã hội như: tình trạng bạo lực, khủng bố, tội ác, maphia… ngày càng phát
triển trầm trọng và tràn lan, làm cho các chính phủ tư sản khơng thể nào kiểm
sốt nổi.

Sự điều chỉnh, thích nghi khơng làm thay đổi tính chất đối kháng của rất
nhiều vấn đề vốn có của chủ nghĩa tư bản. Những thành tựu của khoa học, giáo
dục lại trở thành phương tiện hữu hiệu hơn để giai cấp tư sản nâng cao trình độ
bóc lột người lao động. Một số bộ phận đơng đảo dân cư vẫn trong tình trạng
nghèo đói, khơng việc làm, khơng nhà ở. Theo số liệu của nhà nước Liên bang
Mỹ có 37,5 triệu người Mỹ sống dưới mức nghèo khổ chiếm 14% dân số, tiếng
người da đen là 33%; 35% dân Mỹ khơng hề có một chút bảo hiểm xã hội nào.
Nước Mỹ đứng thứ 17 trên thế giới về tuổi thọ, thứ 23 về tỷ lệ trẻ em tử vong,
25% dân Mỹ mù chữ [3, tr.50].
Chủ nghĩa tư bản tuy xoa dịu, điều hòa được một số mâu thuẫn, song về
cơ bản không làm giảm đi mà trái lại còn làm gay gắt hơn các mâu thuẫn vốn có
của nó. Những mâu thuẫn này được thể hiện ra ở những hình thức mới trong các
nước tư bản chủ nghĩa chủ yếu và xem trên phạm vi thế giới. Ngay ở các nước
tư bản kinh tế giàu nhất, sự đối lập với văn minh và tiến bộ xã hội thể hiện rất
rõ. Sách báo phương Tây chỉ ra rằng, nước Mỹ dù có giàu mạnh với nền khoa
học, cơng nghệ đứng đầu thế giới thì cũng vẫn chỉ là một xã hội của ma túy, bạo
lực, phân biệt chủng tộc, loạn luân và đồi bại. Ở nước Mỹ có tới hàng trăm triệu
khẩu súng lưu hành tự do, một năm có 25000 vụ giết người, có 14,5 triệu người
nghiện ma túy chính thức. Ngay người Mỹ cũng phải thừa nhận chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc là đặc trưng của nền pháp lý Hoa Kỳ.
11


Trong các xã hội tư sản, nền tảng gia đình và đạo đức đang bị băng hoại
nghiêm trọng. Ở Mỹ, cứ 3 vụ kết hơn thì có 2 vụ ly hôn. Sự lưu hành bừa bãi
phim ảnh, sách báo đồi bại về tình dục và bạo lực đang trực tiếp làm hư hỏng thế
hệ trẻ… Số thanh niên và trẻ em phạm tội ngày càng tăng.
Những hạn chế, khuyết tật, mâu thuẫn của xã hội tư sản không thể che
đậy được. Ngay cả các chính khách tư sản như Ních-xơn, Brê-zin-ski cũng phải
cơng khai thừa nhận. Trong cuốn “ Ngồi vịng kiểm sốt, sự rối loạn tồn cầu

bên thềm thế kỷ 21”, Brê-zin-ski đã liệt kê tới 20 vấn đề nan giải của xã hội Mỹ,
trong đó có 5 vấn đề kinh tế và 15 vấn đề xã hội.
Chủ nghĩa tư bản là kẻ thù bóc lột, nơ dịch tàn bạo các nước đang phát
triển bằng những hình thức thực dân hiện đại, thay đổi hình dạng: chủ nghĩa
thực dân kinh tế, chủ nghĩa thực dân thông tin, chủ nghĩa thực dân công nghệ,
chủ nghĩa thực dân môi trường. Các nước đang phát triển phải gánh chịu những
hậu quả khôn lường do sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản; độc lập và chủ
quyền của các nước đó đang bị chà đạp trắng trợn.
Tóm lại, chủ nghĩa tư bản đã tạo nên những bước phát triển mới của lực
lượng sản xuất, trên cơ sở đó nó có được những biến đổi, thích nghi về quan hệ
sản xuất và các quan hệ xã hội khác. Trước mắt các nước tư bản phát triển vẫn
đang còn những khả năng phát triển. Song xét trên tất cả các mặt kinh tế, chính
trị, xã hội cùng các mâu thuẫn của nó, chủ nghĩa tư bản khơng cịn là một chế độ
xã hội có thể đóng vai trị tiến bộ lịch sử lâu dài trong sự phát triển xã hội và giải
phóng con người. Mặc dù cịn có khả năng điều chỉnh thích ứng phát triển và
kéo dài sự tồn tại nhưng chủ nghĩa tư bản đã là một chế độ lỗi thời, nó sẽ bị một
chế độ xã hội cao hơn, tiến bộ hơn, chế độ cộng sản văn minh thay thế một cách
tất yếu trong tương lai.
3. Sự phát triển chủ nghĩa tư bản Nga thời cận đại
Sự phát triển chủ nghĩa tư bản Nga thời cận đại chứng kiến sự phát triển
của một nền kinh tế công nghiệp, kéo theo năng suất lao động tăng lên và nhu
cầu về hàng hóa cơng nghiệp một phần được cung ứng ngay trong lòng chủ
12


nghĩa tư bản. Cơng nghiệp hóa ở nước Nga thời kỳ cận đại là sự phản ứng lại
q trình cơng nghiệp hóa đang diễn ra ở các nước Tây Âu cùng thời.
Những bước đi đầu tiên liên quan đến việc tăng tốc phát triển công nghiệp
được diễn ra dưới sự trị vì của Hồng đế Pyotr I. Tuy nhiên, việc khởi đầu sản
xuất máy móc cơ khí trong những ngành nghề và phương tiện vận tải chủ chốt là

trong nửa phần tư thứ hai của thế kỷ 19. Giai đoạn này được xem là bắt đầu cách
mạng công nghiệp tại Đế quốc Nga. Q trình cơng nghiệp hóa kéo dài cho đến
năm 1917. Sau đó là những năm tháng cơng nghiệp hóa dưới thời Liên Xơ.
Nước Nga ở trong tình thế là đuổi kịp, cố gắng bắt kịp với các nước tân tiến ở
phương Tây về khía cạnh phát triển công nghiệp.
Nước Nga vào giữa thế kỷ XIX, sau cải cách nông nô 1861, chủ nghĩa tư
bản Nga phát triển nhanh chóng. Tuy phát triển muộn, sau các nước tư bản Tây Âu
nhưng đến cuối thế kỷ XIX, Nga cũng chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Trong 2 thập kỷ đầu của thế kỷ XX, đế quốc Nga đã tiến hành cuộc chiến tranh với
Nhật (1905) và tham gia vào cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918). Sau
hơn nửa thế kỷ phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, các ngành cơng nghiệp nặng
như luyện kim, cơ khí, hóa chất… phát triển mạnh. Đến năm 1913, sản lượng công
nghiệp Nga chiếm 5,5% sản lượng công nghiệp thế giới. Đáng chú ý là 150 công ty
tư bản độc quyền đã thao túng toàn bộ nền kinh tế Nga [2, tr.90].
Đến đầu thế kỷ XX, giai cấp tư sản Nga yếu cả về kinh tế và chính trị do
sự phát triển muộn của chủ nghĩa tư bản Nga. Do phụ thuộc cao vào chế độ quân
chủ chuyên chế và tư bản nước ngồi nên giai cấp tư sản Nga khơng thể trở
thành lực lượng lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ. Gắn liền với sự phát triển
nhanh của các ngành công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn, giai cấp cơng
nhân Nga ra đời và trưởng thành nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng,
công nhân Nga phải làm việc 12 giờ mỗi ngày trong điều kiện lao động hết sức
tồi tệ lại có mức lương thấp nhất trong các nước tư bản chủ nghĩa, do đó giai cấp
cơng nhân Nga sớm có tinh thần đồn kết và ý thức đấu tranh cao. Sự phát triển
nhanh chóng và mạnh mẽ của phong trào công nhân Nga đã đẩy nhanh việc
13


truyền bá chủ nghĩa Mác vào nước Nga. Giai cấp cơng nhân Nga lúc này đã trở
thành lực lượng chính trị độc lập giác ngộ được sứ mệnh lịch sử của mình.
Sau Cách mạng năm 1905, nước Nga vẫn là một nước quân chủ chuyên

chế. Lúc này, ở Nga đã có một nền đại cơng nghiệp tập trung rất cao với sự xuất
hiện của các tổ chức độc quyền, phần lớn dưới hình thức xanhđica. Các tổ chức
độc quyền đã kiểm sốt nhiều ngành cơng nghiệp quan trọng như dầu mỏ, than
đá, luyện kim, đường sắt.. cũng như trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Năm 1904,
ở Nga đã có tới 50 tổ chức độc quyền lớn với trình độ tập trung rất cao. Ngay từ
trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, 13 ngân hàng lớn ở Pêtécbua đã tập trung
trong tay tới 65% tổng số tư bản của tư nhân và trên 72% số tiền gửi vào ngân
hàng. Trình độ tập trung của tư bản ngân hàng ở Nga cao hơn so với nhiều nước
khác. Trên cơ sở hợp nhất giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, ở Nga
đã hình thành sự thống trị của tư bản tài chính. Giai cấp tư bản độc quyền Nga
đã giữ địa vị có ý nghĩa quyết định trong đời sống kinh tế - tài chính của đất
nước và câu kết chặt chẽ với chính quyền Nga hồng. Họ đã giữ những cương vị
quan trọng trong viện Đuma quốc gia cũng như trong những cơ quan nhà nước
khác và tác đơng mạnh mẽ tới chính sách đối nội và đối ngoại của chính phủ
Nga hồng.
Nhưng nước Nga chỉ là một nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung bình.
Chủ nghĩa tư bản Nga phát triển muộn hơn, ngày càng lạc hậu và lệ thuộc vào
các nước phương Tây.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng lạc hậu ấy của nước Nga chỉ có thể
giải thích bằng sự tồn tại rất nặng nề những tàn tích phong kiến - nơng nơ.
Cơ sở tồn tại của những tàn tích phong kiến - nơng nơ chính là chế độ sở
hữu lớn về ruộng đất của giai cấp địa chủ - quý tộc. Hai phần ba ruộng đất ở
trong nước là nằm trong tay địa chủ - quý tộc và nhà thờ, 30 nghìn đại địa chủ
chiếm tới 70 triệu đêxiatin ruộng đất của 10,5 triệu nơng nơ. Nga hồng là địa
chủ lớn nhất, chỉ riêng gia đình và họ hàng của Nga hồng đã chiếm tới 7 triệu
đềxiatin ruộng đất. Bọn địa chủ bóc lột nông dân hết sức nặng nề và tàn bạo,
14


nhất là chế độ lao dịch. Trình độ sản xuất nông nghiệp hết sức lạc hậu: lao động

thủ công là chủ yếu, năng suất thấp kém, nạn mất mùa và đói kém thường xuyên
xảy ra ở các vùng.
Sau ba năm theo đuổi chiến tranh, tới cuối năm 1916 và đầu năm 1917
nước Nga đã lâm vào một tình trạng khủng hoảng kinh tế và xã hội - chính trị
trầm trọng. Chiến tranh càng kéo dài càng phơi bày rõ mọi sự lạc hậu về kinh tế
và quân sự của đất nước, càng làm gay gắt mọi mâu thuẫn trong xã hội.
Nền công nghiệp của nước Nga đã không đảm bảo được những yêu cầu
của cuộc chiến. Quân đội trang bị lạc hậu, thiếu thốn vũ khí và các phương tiện
quân sự. Trong khi đó, những kẻ cầm đầu bộ máy chiến tranh lại hết sức thối nát
và mang nặng tâm lí chiến bại. Nhiều bộ trưởng và tướng tá ăn tiền đút lót của
Đức đã tiết lộ, cung cấp những bí mật quân sự cho chúng. Quân Nga thua trận
liên tiếp và tổn thất nặng nề. Năm 1916, quân Đức đã chiếm được Ba Lan và
nhiều vùng thuộc Ban Tích.
Chiến tranh đã tàn phá nặng nề và nhiều thảm họa đối với các tầng lớp
nhân dân. Đã có tới 1,5 triệu người chết và 4 - 5 triệu người bị thương.
Nền kinh tế quốc dân kiệt quệ, sản xuất công nghiệp và nơng nghiệp đình
đốn. Vận tải đường sắt khơng cịn đủ sức chun chở hành khách và hàng hóa.
Nạn thất nghiệp tăng nhanh. Ở các thành phố lớn, việc cung cấp bánh mì, đường
sữa ngày càng thất thường. Nạn đói đã xảy ra trầm trọng ở nhiều vùng nơng
thơn. Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đã tăng lên mạnh mẽ.
Chế độ Nga hoàng khủng hoảng trầm trọng, nội bộ giai cấp thống trị ngày
càng rạn nứt và mâu thuẫn sâu sắc với nhau. Chính phủ Nga hoàng quyết định
giải tán viện Đuma quốc gia, chuyển chính quyền sang tay bọn độc tài quân sự.
Chúng bắt đầu đàm phán bí mật và âm mưu kí hịa ước riêng rẽ với Đức để có thể
rảnh tay đối phó với phong trào cách mạng, củng cố nền thống trị của chúng. Giai
cấp tư sản Nga chống lại việc kí hịa ước đó, bởi nhờ chiến tranh mà họ đã phát
tài lớn và thực hiện những tham vọng đế quốc chủ nghĩa. Họ chủ trương theo đuổi
cuộc chiến đến cùng. Trước âm mưu của chính phủ Nga hồng muốn kí hịa ước
15



riêng rẽ với Đức, giai cấp tư sản dự định tiến hành “một cuộc đảo chính cung
đình” lật đổ Nga hồng Nicơlai II Rơmanốp, bắt y trao ngai vàng cho đứa con trai
cịn nhỏ tuổi, và đưa quận cơng Mikhain Rơmanốp - em trai Nga hồng, một phần
tử tư sản khơng thân Đức - lên làm phụ chính nắm chính quyền.
Trước Cách mạng Tháng Mười năm 1917, nước Nga lạc hậu hàng chục
năm so các nước phát triển khác. Hầu như tất cả ngành công nghiệp chủ yếu của
Nga nằm trong tay tư bản nước ngoài và ngay từ năm 1890, tư bản nước ngoài
chiếm tới 47% vốn đầu tư ở Nga. Trên thực tế, vào năm 1914, dù là một đất
nước chiếm một phần sáu diện tích thế giới nhưng tổng sản lượng công nghiệp
của nước Nga chỉ chiếm 4% tổng sản lượng cơng nghiệp tồn cầu.
Trong bài “Gửi nông dân nghèo” viết năm 1903, lãnh tụ V.I.Lênin đã từng
khẳng định: “Phương sách duy nhất để làm cho nhân dân lao động hết cùng khổ
là thay đổi, từ dưới lên trên, chế độ hiện nay trên toàn quốc và lập chế độ xã hội
chủ nghĩa”. Đặc biệt đối với giai cấp cơng nhân, Lênin khẳng định: “Đến khi đó,
của cải sẽ tăng lên cịn rất nhanh chóng hơn nữa, vì cơng nhân lao động cho bản
thân mình, sẽ làm tốt hơn là làm cho bọn tư bản, ngày lao động sẽ ngắn hơn,
tình cảnh của cơng nhân sẽ khá hơn, tất cả đời sống của họ sẽ hoàn toàn thay
đổi” [5, tr.310].
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, nước Nga Xô-viết ra đời, bắt
đầu thực thi “Sắc lệnh ruộng đất”. Nơng dân đã nhận được miễn phí hơn 150
triệu ha ruộng đất từ giai cấp địa chủ, được xóa tiền nợ. Một vấn đề quan trọng
nhằm cải thiện đời sống nhân dân lao động là cần phải nâng cao năng suất lao
động. Như V.I.Lênin nhận định: “Công nhân tự nguyện tự giác, liên hợp với
nhau, sử dụng kỹ thuật hiện đại thì mới có thể tạo ra năng suất lao động cao
hơn” [3, tr.167].
Joseph Stalin, người kế tục sự nghiệp của V.I.Lênin từng chỉ rõ: “Biến
nước Nga từ một nước nơng nghiệp thành một nước cơng nghiệp có thể tự lực
sản xuất thiết bị cần thiết, đưa nước ta từ một nước nhập khẩu thiết bị thành một
nước chế tạo được các thiết bị ấy. Đó là điều bảo đảm sự độc lập kinh tế của

16


nước ta và không phụ thuộc vào các nước tư bản chủ nghĩa”. Từ tinh thần đó,
Liên Xơ quyết tâm trở thành một quốc gia tự cường.
Trong 13 năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Liên Xô đứng đầu là Joseph Stalin, Liên Xơ đã xây dựng được
9.000 xí nghiệp lớn, trang bị kỹ thuật hiện đại, nhiều ngành công nghiệp mới
quan trọng đã ra đời. So năm 1913, đến năm 1940, sản lượng công nghiệp của
Liên Xô tăng hơn 12 lần; tỷ trọng công nghiệp đã chiếm ưu thế trong nền kinh tế
quốc dân (hơn ba phần tư tổng sản lượng); sản lượng của ngành chế tạo máy
tăng 35 lần; sản lượng điện tăng 24 lần…
Nếu năm 1913, tổng sản lượng công nghiệp của nước Nga đứng hàng thứ
năm trên thế giới (sau Mỹ, Anh, Pháp và Đức) thì đến năm 1937, sản lượng công
nghiệp của Liên Xô đã vượt lên đứng hàng thứ hai trên thế giới (chỉ sau Mỹ). Tỷ
trọng công nghiệp của Liên Xô trong sản lượng công nghiệp thế giới đã lên đến
14%. Trong lịch sử, để trở thành một nước công nghiệp, nước Anh cần 200 năm,
nước Mỹ cần 120 năm, Nhật Bản cần 40 năm, trong khi Liên Xơ chỉ cần 18 năm
để hồn thành về cơ bản q trình cơng nghiệp hóa của mình. Đây là tốc độ
cơng nghiệp hóa nhanh nhất mà thế giới từng ghi nhận. Thế và lực của Liên Xô
tăng lên nhanh chóng trên trường quốc tế.
4. Xu hướng phát triển chủ nghĩa tư bản Nga hiện nay
Nga cho rằng, trong giai đoạn hiện nay cấu trúc địa - chính trị của quốc tế
và khu vực có những nét đáng chú ý sau: Mỹ vẫn là một quốc gia nắm giữ vai
trị điều khiển “cuộc chơi” tồn cầu, tiếp tục tăng cường chủ nghĩa đơn phương,
lấn át vai trò của Liên Hợp quốc trong việc giải quyết nhiều vấn đề quan trọng
của quốc tế như: Chống chủ nghĩa khủng bố, ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt
nhân, vấn đề bảo vệ mơi trường, giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính làm trái
đất nóng lên v.v... Mỹ cũng tăng cường kiềm chế Nga cả về chính trị, kinh tế và
quân sự, dẫn tới cái gọi là “hồ bình nóng” và nguy cơ vịng xốy mới của cuộc

chạy đua vũ trang qn sự hố khoảng khơng vũ trụ. Tuy nhiên, vai trò “nhất
siêu” của Mỹ đang suy giảm, Mỹ gặp phải nhiều khó khăn và đang tiếp tục sa
17


lầy trong cuộc chiến Irắc, không đơn phương ngăn cản được chương trình hạt
nhân của Bắc Triều Tiên, mâu thuẫn ngày càng sâu sắc với Iran trong vấn đề “vũ
khí hạt nhân”, vai trị của Mỹ ở Trung Đơng và Mỹ Latinh ngày càng suy giảm.
Liên minh Châu Âu (EU) tiếp tục mở rộng sang phía Đơng, kết nạp thêm
hai thành viên mới là Bungari và Rumani vào đầu năm 2007. EU vẫn là đồng
minh thân cận của Mỹ, tuy nhiên trong nhiều vấn đề của thế giới, EU cũng có
quan điểm riêng và cũng đang nỗ lực cải thiện vị thế chính trị cho tương xứng
với cường quốc kinh tế của mình. Tổ chức an ninh và hợp tác Châu Âu đang có
nguy cơ bị Mỹ lợi dụng biến thành công cụ của Mỹ. Các nước Đông Âu gia
nhập NATO ngày một nhiều và hậu quả của các cuộc cách mạng “màu sắc” do
Mỹ và phương Tây đạo diễn đang làm cho khơng gian địa - chính trị của Nga
ngày càng co lại. Những động thái mới đây của Mỹ và NATO trong việc triển
khai hệ thống tên lửa đánh chặn ở Ba Lan và Cộng hoà Séc gây nên những mối
đe doạ khôn lường đối với an ninh của Nga, làm cho Nga rất bất bình và phản
ứng quyết liệt.
Sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc, Ấn Độ, sự năng động của các
nước ASEAN, sự phục hồi kinh tế của Nhật Bản và những thành công trong phát
triển kinh tế của Hàn Quốc đã làm cho khu vực Châu Á trở thành một khu vực
phát triển năng động thu hút sự chú ý của các cường quốc và khu vực trên thế
giới và đang trở thành nhân tố quan trọng thay đổi cơ cấu quyền lực của thế giới.
Nga đặc biệt quan tâm đến khu vực này với mong muốn trở thành thành viên
của Diễn đàn Đông Á. Ngoài các cơ chế đa phương như APEC, ARF, tháng 12 2005 Nga đã tham gia Hội nghị thượng đỉnh đầu tiên với ASEAN.
Vấn đề an ninh năng lượng đang ngày càng trở nên cấp thiết, nhiều nước
và nhiều khu vực phải có những điều chỉnh lớn nhằm đối phó với vấn đề này.
Trong thời gian vừa qua, các cuộc chiến chống khủng bố mà Mỹ phát động tại

Ápganixtan và Irắc, cộng với quan hệ có phần đang xấu đi của Mỹ với các quốc
gia Hồi giáo Trung Đông, đặc biệt là với Iran - một nước lớn về sản xuất dầu
mỏ, cùng với sự gia tăng nhu cầu dầu mỏ do sự phát triển nhanh chóng của các
nền kinh tế lớn Trung Quốc, Ấn Độ làm ảnh hưởng sâu sắc tới quan hệ cung 18


cầu năng lượng trên thị trường toàn cầu, giá dầu mỏ và khí đốt tăng lên nhanh
chóng. Vấn đề an ninh năng lượng buộc các quốc gia đều phải điều chỉnh chiến
lược đối ngoại của mình, đi tìm kiếm những nguồn cung cấp năng lượng ổn
định, đặc biệt là các nước lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ.
Các chuyên gia Nga cho rằng, sự phát triển của kinh tế thế giới hiện nay
và trong những năm tới đây sẽ được xác định bởi cuộc đấu tranh giữa hai xu thế.
Trước hết, là sự nỗ lực của Mỹ nhằm khơi phục vị trí thủ lĩnh của mình
trong trật tự thế giới đơn cực với vị trí siêu cường về chính trị, kinh tế, quân sự
thuộc về Mỹ. Tiềm lực của Mỹ thể hiện ở chỗ trong nhiều năm Mỹ vẫn là một
trong những nhà xuất khẩu lớn nhất và nhà nhập khẩu lớn nhất thế giới. Chính
vai trị nhà nhập khẩu làm cho Mỹ trở thành động lực của nền kinh tế thế giới.
Hệ thống tài chính của Mỹ có ảnh hưởng to lớn tới nền kinh tế thế giới.
Thứ hai, đang diễn ra quá trình hình thành cấu trúc thế giới đa trung tâm.
Cùng với Mỹ, các trung tâm mới đang hình thành: EU, Trung Quốc, Nhật Bản,
Ấn Độ, ngoài ra là Nga, Braxin, Iran. Những trung tâm mới này đang tác động
mạnh mẽ tới vai trò thống trị của Mỹ trong nền kinh tế, chính trị thế giới, đồng
thời cũng đang cạnh tranh với nhau để củng cố vị thế của mình.
Các nước Châu Á với tốc độ phát triển kinh tế cao trên thế giới (trong 5
năm gần đây đạt trung bình hơn 7 %), đang mở rộng vị thế của mình trong nền
kinh tế tồn cầu. Trong tương lai chính Châu Á sẽ trở thành động lực phát triển
kinh tế của thế giới với 3 trung tâm lớn là Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản.
Nga cho rằng trong những năm gần đây thế giới đang thực sự thay đổi với
sự gia tăng của tồn cầu hố. Q trình tồn cầu hố mặc dù có mặt trái và nhiều
mâu thuẫn, nhưng vẫn đang ngày càng mở rộng, có những tác động tích cực tới

việc phân chia nguồn lực phát triển kinh tế công bằng hơn, tạo ra nền tảng cho
một cấu trúc đa cực trong quan hệ quốc tế. Tính tập thể và luật pháp trong quan
hệ quốc tế được tiếp tục củng cố trên cơ sở thừa nhận những hiểm hoạ chung
của nhân loại. Trong nền chính trị thế giới, ý nghĩa của yếu tố năng lượng ngày
càng gia tăng. Vị thế của Liên bang Nga ngày càng được củng cố. Một nước
Nga mạnh hơn, tự tin hơn đã và đang trở thành một nhân tố quan trọng trong sự
19


chuyển biến của thế giới. Môi trường cạnh tranh và sự cân bằng dần dần được
hồi phục kể từ sau chiến tranh Lạnh. Mơ hình phát triển, định hướng phát triển
được quan niệm như thước đo của nền văn minh và là đối tượng gây nên cạnh
tranh xung đột. Những giá trị cơ bản của dân chủ và thị trường được ghi nhận
như những nền tảng của đời sống xã hội và đời sống kinh tế, việc thực hiện
chúng có nhiều cách thức phụ thuộc vào đặc thù lịch sử, văn hoá của dân tộc
cũng như mức độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Cùng với những mặt tích cực, tồn cầu hố cũng có nhiều mặt tiêu cực: sự
lan rộng các không gian xung đột trong chính trị thế giới, sự xuống cấp trong
việc giải trừ vũ khí cũng như kiểm sốt vũ khí hiện nay. Dưới chiêu bài đấu
tranh chống lại các hiểm hoạ mới, một số nước tiếp tục âm mưu xây dựng thế
giới đơn cực, ép buộc các nước khác tuân thủ theo hệ thống chính trị và mơ hình
phát triển của mình, phớt lờ các đặc thù lịch sử, văn hố, khu vực và các đặc
điểm phát triển của các nước trên thế giới, tự do áp đặt và xâm phạm các luật lệ
và nguyên tắc quốc tế. Sự kiện sử dụng vũ lực ngày càng bành trướng trong
quan hệ quốc tế để giải quyết những vấn đề về lợi ích chính trị, khơng tn thủ
luật lệ quốc tế trong những năm gần đây thể hiện việc áp đặt thế giới - bất chấp
xu thế phát triển chung của thế giới. Một số nước liên kết với nhau cho mình
một trách nhiệm mới trong lĩnh vực an ninh và giải trừ vũ khí, trong khi một số
nước khác lại tăng cường vũ khí giết người hàng loạt, coi đó như một giải pháp
bảo đảm an ninh cho mình.

Trong những năm tới, chính sách đối ngoại của Nga vẫn tiếp tục định
hướng bởi những quan điểm chủ đạo sau:
Trước hết, Nga có những đánh giá và dự báo tương đối nghiêm trọng về
tình hình thế giới. Nga cho rằng, sau khi hệ thống thế giới hai cực tan rã, sự phát
triển của thế giới xuất hiện những yếu tố khó lường trước những mối đe doạ
tiềm tàng làm nảy sinh xung đột trên thế giới vẫn tiếp tục tăng lên, do khoảng
cách giàu nghèo giữa các nước ngày càng lớn, hiểm hoạ xung đột ngày càng gay
gắt hơn, mối đe doạ khủng bố ngày càng tăng lên và lan rộng. Nga đứng trước
thời điểm tình hình an ninh tồn cầu có nhiều thay đổi lớn.
20



×