Bài tập nhóm chuyên đề 2
Toàn cầu hóa ngày nay đã trở thành xu thế chung của thời đại mà các
quốc gia, dân tộc không thể bỏ qua được. Xu thế đó đã ảnh hưởng rất lớn đến
nền hành chính của mỗi quốc gia khiến cho cải cách hành chính trở thành một
trào lưu, một nhu cầu tự thân, nỗ lực của hầu hết các quốc gia trên thế giới,
nhằm xây dựng một nền hành chính nhà nước hiện đại, năng động, hiệu quả,
giảm phiền hà, một nền hành chính lấy đối tượng phục vụ làm tôn chỉ, mục đích
chủ yếu, để từ đó xây dựng, phát triển và hoàn thiện nền hành chính.
“Toàn cầu hóa là một quá trình biến các vùng miền, các cộng đồng người
khác nhau từ trạng thái biệt lập, tách rời nhau thành một trạng thái khác về chất,
bằng sự liên kết gắn bó thành một thể thống nhất hữu cơ trên quy mô toàn cầu.
Khi đó, một sự kiện, một hiện tượng, một vấn đề xảy ra ở vùng miền này, ở
cộng đồng người này sẽ có ảnh hưởng, tác động tới các vùng miền, các cộng
đồng người khác trên quy mô toàn thế giới”. Hay hiểu cách khác, đây là quá
trình tham gia đời sống quốc tế của một chủ thể nào đó, trước hết là của một
quốc gia. Ở một góc độ nhất định, toàn cầu hóa còn có thể được coi là thước đo
về khả năng của một quốc gia trong so sánh với số còn lại, đồng thời hội nhập
quốc tế cũng phản ánh mức độ “mở” của hệ thống quan hệ quốc tế. Có thể thấy
rằng, toàn cầu hóa đã có những ảnh hưởng nhất định đến nền hành chính Việt
Nam trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, toàn cầu hóa làm cho sự phụ thuộc giữa các quốc gia tăng lên
bởi khoảng cách kinh tế ngày càng thu hẹp lại do những tiến bộ trong công
nghệ thông tin, giao thông vận tải, cắt giảm thuế quan, tự do hóa các giao
dịch tài chính với bên ngoài, thiết lập những thể chế quốc tế.
Toàn cầu hóa với cuộc cách mạng về công nghệ thông tin đã làm thay đổi
đột ngột hành vi của con người, quá trình hợp tác và việc quản trị nhà nước
nhiều hơn cuộc cách mạng công nghiệp đã chuyển đổi xã hội nông nghiệp trước
đây. Trên thực tế, các thị trường và việc giao lưu buôn bán xuyên quốc gia, tiếp
cận thông tin dễ dàng hơn qua Internet và các phương tiện di động đã khiến thế
giới càng trở nên gần gũi hơn. Mặc dù toàn cầu hóa là tác nhân đột ngột đã biến
đổi các quốc gia trở nên hùng mạnh hoặc suy yếu có sự liên quan đến công nghệ
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp
1
Bài tập nhóm chuyên đề 2
thông tin, thương mại và kinh tế thì những người thắng và kẻ thua chắc chắn sẽ
diễn ra trên thị trường toàn diện.
Toàn cầu hóa kinh tế vừa là trung tâm, vừa là động lực thúc đẩy quá trình
toàn cầu hóa các lĩnh vực khác. Về bản chất, toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng
nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia và khu vực,
tạo ra sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển
hướng tới một nền kinh tế thế giới hội nhập và thống nhất.
Quá trình toàn cầu hóa kinh tế dẫn đến việc những hàng rào kinh tế ngăn
cách giữa các quốc gia dần được dỡ bỏ, điều này đã mở ra những cơ hội thị
trường to lớn cho tất cả các nước, mà trước hết là thị trường xuất - nhập khẩu.
Trong nền kinh tế toàn cầu, cùng với các quan hệ trao đổi hàng hóa dịch
vụ tăng lên mạnh mẽ là sự gia tăng nhanh chóng các dòng lưu chuyển của vốn
đầu tư, công nghệ, kinh nghiệm quản lý,... được đẩy mạnh. Vì vậy, tham gia vào
quá trình toàn cầu hóa, các quốc gia có cơ hội to lớn trong việc thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngoài, tiếp nhận được các công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kinh
nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới, rút ngắn khoảng cách tụt hậu.
Đối với các nước đang phát triển, toàn cầu hóa kinh tế đã tạo điều kiện
cho các quốc gia nhanh chóng tham gia vào quá trình phân công lao động quốc
tế. Từ đó hình thành nên một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và sức cạnh tranh
cao, rút ngắn được tiến trình hiện đại hóa.
Với đặc điểm vẫn đang còn trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường và tham gia ngày càng sâu vào quá trình toàn cầu hóa, vai trò của nhà
nước ở VN khác nhiều so với vai trò của nhà nước ở những nước phát triển. Nếu
thừa nhận vế thứ nhất rằng toàn cầu hóa là một tất yếu khách quan, mà nước ta
không thể không tham gia thì đầu tiên vai trò của nhà nước là phải làm sao để
quá trình này đem lại lợi ích nhiều nhất cho người dân trong nước. Còn quá
nhiều việc phải làm để sao cho nền hành chính nhà nước vận hành theo đúng
thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tham gia toàn cầu
hóa.
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp
2
Bài tập nhóm chuyên đề 2
Xu thế toàn cầu hóa hiện nay đã và đang đẩy mạnh các chủ thể của luật
quốc tế mà chủ yếu là các quốc gia phải nghĩ tới vấn đề đối thoại và hợp tác. Bởi
nó liên quan tới sự phát triển, tồn vong của từng quốc gia khi đặt chân vào sân
chơi quốc tế. Toàn cầu hóa làm cho hệ thống pháp luật của Việt Nam trở thành
hệ thống pháp luật mở. Các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia
cùng với các tập quán quốc tế mà Việt Nam thừa nhận trở thành một bộ phận
trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Việt Nam hiện đang là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế quan trọng
như WTO, APEC…Điều này mang lại vị trí và tiếng nói cho Việt Nam trên
trường quốc tế. Đồng thời, tạo cơ hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế đất
nước. Tuy nhiên, đi kèm với những thời cơ luôn luôn là thách thức. Việc ký kết
các điều ước với các tổ chức quốc tế hay với các quốc gia khác đồng nghĩa với
việc Việt Nam cũng phải chấp nhận những bất lợi do yêu cầu của bên còn lại.
Thực tế đó, đòi hỏi Việt Nam phải nhanh chóng thích nghi với điều kiện hội
nhập và không ngừng đổi mới khắc phục toàn diện các mặt còn hạn chế, góp
phần nâng Việt Nam thành một nước có nền hành chính phát triển.
Thứ hai, khoảng cách kinh tế rút ngắn lại nhanh hơn mức độ mà nền
hành chính công ở các nước có thể quản lý một cách hợp lý.
Tác động của toàn cầu hoá đòi hỏi những thay đổi cơ bản về xã hội, kinh tế,
chính trị và hệ thống hành chính ở mọi nước trên thế giới. Tuy nhiên, tác động
của toàn cầu hoá đối với quản lý công ở mỗi nước cũng có sự khác biệt, đặc biệt
giữa các nước phương Tây và các nước khác, giữa nước phát triển nhiều và các
nước kém phát triển. Bộ máy công vụ cũng có những đáp ứng khác nhau với
những tác động của toàn cầu trong khi môi trường quốc tế đang gia tăng những
tác động, ảnh hưởng đến nền hành chính.
Các nước phát triển đạt được các lợi ích rõ ràng nhiều hơn từ toàn cầu hóa
hơn các nước khác vì bản chất của toàn cầu hóa cũng như hệ thống hành chính
công mạnh mẽ. Ngược lại, rất nhiều nước đang phát triển thu được lợi ích ít hơn
từ toàn cầu hoá bởi vì các nước này có những bất lợi đáng kể trong thương
trường quốc tế cộng với sự yếu kém của hệ thống hành chính. Vấn đề này là bản
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp
3
Bài tập nhóm chuyên đề 2
chất của toàn cầu hoá và hệ thống thị trường toàn cầu đã vượt ra ngoài phạm vi
của hệ thống hành chính công. Và những hạn chế của nền hành chính trong việc
đáp ứng các nhân tố nằm ngoài phạm vi của nền hành chính. Những nhân tố
này liên quan trực tiếp những lý do mà hệ thống hành chính công của các nước
đang phát triển đã không hiệu quả khi ứng phó với toàn cầu hoá và cũng là lý do
các nước đang phát triển đã giành được ít lợi ích hơn từ toàn cầu hoá so với các
nước phát triển.
Toàn cầu hoá đã và đang trở thành nguyên nhân trước tiên, được chủ nghĩa
tư bản và thị trường thúc đẩy nhanh hơn dân chủ, chính trị và hành chính công.
Khi có những thay đổi từ chủ nghĩa tư bản quốc gia tới chủ nghĩa tư bản toàn
cầu, logic của dòng vốn và thị trường dường như thống trị các nguyên tắc dân
chủ. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản cũng tìm kiếm một Nhà nước mạnh cùng với
môi trường ổn định cho sự phát triển thịnh vượng. Các thị trường toàn cầu sẽ
không thực hiện chức năng của nó một cách hiệu quả nếu thiếu sự can thiệp phù
hợp của mỗi nước và quốc tế vào những thất bại của thị trường và trên thực tế
những khiếm khuyết này đã kìm giữ thị trường quốc gia và toàn cầu hoạt động
một cách hiệu quả và công bằng.
Nền hành chính công ở các nước này sẽ không thể đáp ứng hiệu quả trước
khủng hoảng tài chính vì sự tấn công của hệ thống tài chính toàn cầu vượt ngoài
phạm vi của nền hành chính công hoặc sự quản trị nhà nước. Vì thế, các nhà
nước đòi hỏi phụ thuộc lẫn nhau trong việc quản lý các vấn đề trong nước và
quốc tế.
Chủ quyền của các quốc gia đã bị ảnh hưởng và năng lực của các Chính
phủ có thể hiểu rõ và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh và các xung đột về kinh
tế, tài chính, môi trường, sinh thái, văn hoá, lao động và các vấn đề về quyền
con người. Liên quan đến việc bảo vệ môi trường, các chính phủ đang phân vân
trong việc chia sẻ quyền lực, chuyển lên trên cho các tổ chức và thể chế quốc tế
và chuyển xuống dưới cho các tổ chức phi chính phủ và các khu vực hợp tác.
Thứ ba, Toàn cầu hóa tác động đến hầu hết các lĩnh vực quản lý và hạn
chế khả năng hành động độc lập của chính quyền quốc gia.
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp
4
Bài tập nhóm chuyên đề 2
Toàn cầu hóa là một quá trình tác động đến nhiều quốc gia trên thế giới,
trong đó có Việt Nam và ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực Nhà nước quản lý như về
chính trị, xã hội, kinh tế, bộ máy Nhà nước,….
Về kinh tế, toàn cầu hoá tạo ra một sự thay đổi căn bản trong hoạt động
kinh tế của con người, làm thay đổi tính chất và vị trí của thị trường. Nếu như
trước đây, thị trường Việt Nam mang tính quốc gia thì hiện nay, thị trường đã
mang tính quốc tế. Do quá trình toàn cầu hoá, nước ta cũng như các quốc gia
trên thế giới nhanh chóng bị cuốn hút và trở thành một bộ phận phụ thuộc của
nền kinh tế thế giới hoặc quốc tế. Ngoài tính toàn cầu của thị trường thì hàng
hoá và dịch vụ, tài chính và tiền tệ cũng mang tính chất toàn cầu. Một yếu tố
khác không kém quan trọng làm cho thị trường có tính toàn cầu là công nghệ
điện tử mới của thông tin và viễn thông. Chính công nghệ mới đó không chỉ
mang tính kinh tế, mà còn mang tính chính trị và xã hội sâu sắc.
Về xã hội, những nhu cầu của nền kinh tế toàn cầu đã và đang mang lại
những thay đổi to lớn trong thói quen lao động và lối sống của con người ở tất
cả các quốc gia dân tộc. Bên cạnh đó, nước ta cũng đang phải đối mặt với những
vấn đề chung trong sự phát triển của các quốc gia như những vấn đề sinh thái, ô
nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên, vấn đề dân số và sức khoẻ cộng đồng,
sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế.
Về chính trị, toàn cầu hóa ảnh hưởng lớn nhất tới chủ quyền quốc gia.
“Chủ quyền quốc gia” được hiểu là quyền được hoàn toàn định đoạt công việc
xây dựng, thực hiện chính sách quốc gia và quyền không bị can thiệp bởi các
quốc gia bên ngoài. Sự hội nhập về kinh tế tăng lên sẽ kéo theo sự hội nhập về
chính trị dẫn đến sự suy yếu của mô hình quốc gia dân tộc. Toàn cầu hóa luôn
gắn liền với trách nhiệm quốc tế và để thực hiện được những trách nhiệm này,
đôi khi phải chấp nhận hy sinh một phần lợi ích quốc gia, và sâu xa hơn, là một
phần chủ quyền quốc gia (quốc gia không thể hành động hoàn toàn và tuyệt đối
theo ý muốn chủ quan được).
Về bộ máy Nhà nước, tác động của toàn cầu hóa và các nguyên tắc của thị
trường hiện đại đã làm cho nền hành chính chuyển nhanh theo hướng “kinh
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp
5
Bài tập nhóm chuyên đề 2
doanh”. Cũng như việc quản trị kinh doanh, hệ thống hành chính đã phát triển
nhanh hơn, tập trung vào hiệu quả, hiệu lực, năng suất, thực thi, trách nhiệm và
linh hoạt qua việc áp dụng công nghệ chính trong hợp tác phối hợp. Hay nói
cách khác, mô hình hành chính quan liêu đã không còn phù hợp với việc quản lý
hiện đại các tổ chức công. Đồng thời, toàn cầu hóa mang lại nhiều tự do và tự
chủ hơn cho chính quyền cấp dưới nhờ vào cách mạng công nghệ thông tin.
Với những ảnh hưởng đến hầu hết các lĩnh vực quản lý như đã nêu ở trên,
toàn cầu hóa đã có những đóng góp theo hướng có lợi để phát triển nền hành
chính Việt Nam ngày càng hiện đại và phù hợp hơn với thực tiễn. Tuy nhiên, với
toàn cầu hóa, vai trò của Nhà nước ta phần nào bị thu hẹp; làm hạn chế khả năng
hành động độc lập của chính quyền Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế.
Trong quá trình toàn cầu hóa, người ta thường nói tới sự phụ thuộc lẫn
nhau của các quốc gia dân tộc hơn là đề cập đến sự độc lập hoàn toàn của các
quốc gia đó. Có thể nói, không có và không thể có một quốc gia đứng độc lập
hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài trong bối cảnh toàn cầu hoá. Trước
tình hình chung đó, phần nào Việt nam cũng bị chi phối bởi các quốc gia trên
thế giới, các tổ quốc quốc tế về các vấn đề quản lý Nhà nước.
Toàn cầu hóa đã hạn chế năng lực điều hành của Nhà nước ta, không chỉ
trong quan hệ với các quốc gia khác mà còn ở các chính sách trong nước. Hầu
hết các đạo luật chúng ta thông qua trong những năm gần đây là nhằm sửa đổi
cách điều hành đất nước phù hợp với thông lệ quốc tế, hay nói cách khác là theo
khuôn mẫu chung, không được quyền có ngoại lệ.
Chẳng hạn trong lĩnh vực kinh tế, toàn cầu hóa đã gia tăng vai trò của các
tổ chức kinh tế - tài chính và sự hoạt động này ngày càng mạnh mẽ, hiệu quả của
các tổ chức quốc tế liên chính phủ, các lực lượng xuyên quốc gia tác động đến
hoạt động Nhà nước mà trước hết là các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Nhà nước sẽ không còn giữ vai trò quản lý độc tôn trong quốc gia mà phải chia
sẻ quyền lực cho các tổ chức liên quốc gia này. Đồng thời với cơ chế mở cửa tự
do hóa thương mại, tuân theo các quy luật điều tiết của cơ chế thị trường buộc
Nhà nước phải hạn chế sự can thiệp của mình vào hoạt động kinh tế. Nhà nước
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp
6
Bài tập nhóm chuyên đề 2
không thể can thiệp “thô bạo” hay độc quyền quyết định mọi vấn đề của nền
kinh tế quốc gia trái với quy luật chung,…
Đồng thời, việc gia nhập các tổ chức liên chính phủ, tham gia các điều
ước, hiệp ước quốc tế cũng đã hạn chế một số quyền năng của Việt Nam trong
các lĩnh vực về kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng. Trong đó, thách
thức lớn nhất là nguy cơ tiềm tàng sự can thiệp của cộng động quốc tế, các nước
lớn về nền độc lập, tự chủ, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Thứ tư, toàn cầu hóa tác động đến việc tập trung hóa sức mạnh kinh tế
giữa và ngay trong lòng các nước.
Do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, nền kình tế thế giới hiện nay đang
chuyển thành một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thông qua các mạng lưới
công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa đòi hỏi các quyết định kinh tế, dù được đưa
ra ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, đều phải tính tới các yếu tố quốc tế . Từ cuối
thế kỷ XX trở lại đây sự chuyển dịch hàng hóa, dịch vụ và các nguồn vốn đầu tư
giữa các nước gia tăng ngày càng nhanh, tạo ra sự biến đổi về chất so với trước
đây.
Xu thế mới nhất trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới và cũng là xu
thế cơ bản của cạnh tranh quốc tế ngày nay là một mặt, tất cả các nước đều phải
gia tăng thực lực kinh tế của mình và lấy đó làm điểm tựa chính để mở rộng khả
năng tham dự vào cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên phạm vi toàn cầu;
mặt khác, cuộc cạnh tranh quốc tế lấy thực lực kinh tế làm cốt lõi có xu hướng
ngày càng quyết liệt đó cũng khiến cho nền kinh tế thế giới phát triển theo
hướng quốc tế hóa và tập đoàn hóa khu vực.
Toàn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa kinh tế khu vực làm gia tăng sự liên
kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp của các nước, nhưng đồng thời cũng buộc
các doanh nghiệp phải trực tiếp cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt. Tuy
nhiên, toàn cầu hóa hoàn toàn không phải là ‘‘trò chơi’‘ hai bên đều thắng, mà
nó thường gây ra hiệu ứng hai mặt. Có những khu vực, những nước và doanh
nghiệp giàu lên nhanh chóng nhờ toàn cầu hóa; nhưng có những khu vực, những
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp
7
Bài tập nhóm chuyên đề 2
nước và doanh nghiệp bị thua thiệt hoặc thậm chí bị đẩy ra khỏi dòng chảy sôi
động của thương mại và đầu tư quốc tế.
Ngày nay, muốn tránh thua thiệt và được hưởng lợi trong cạnh tranh quốc
tế, thì vấn đề cốt lõi và phải tăng cường thực lực kinh tế và chủ động hội nhập.
Toàn cầu hóa với những áp lực của nó sẽ thúc đẩy các quốc gia tăng
cường, củng cố hơn nữa vai trò, vị trí của mình để chống chọi với sự cạnh tranh
khốc liệt. Nhà nước với quyền lực to lớn của mình sẽ điều chỉnh, sửa đổi những
chế định pháp luật, những đường lối, chính sách cho phù hợp với xu thế chung
của thế giới. Với Việt Nam, nước ta đã đàm phán, ký kết các điều ước, hiệp ước
kinh tế, các hiệp định song phương, đa phương với các quốc gia khác để hình
thành hành lang pháp lý, những cách xử sự chung cho các quốc gia trong hoạt
động kinh tế. Trong khuôn khổ khu vực và quốc gia, nước ta đã tiến hành đàm
phán, ký kết nhiều hiệp định để thỏa thuận cách xử sự chung, hợp lý, có lợi cho
các bên trong hoạt động kinh tế.
Thứ năm, cần phải đẩy mạnh hoạt động quản lý mang tính khu vực và
quốc tế nhằm bảo vệ những nhóm và những quốc gia có khả năng bị tổn
thương trước những tác động xấu của toàn cầu hóa.
Xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đến tất cả các dân tộc trên
thế giới khiến các nền kinh tế của các quốc gia gắn bó hữu cơ và tuỳ thuộc vào
nhau. Trong quá trình toàn cầu hoá nổi lên xu hướng liên kết kinh tế dẫn tới sự
ra đời, rồi hợp nhất của nhiều tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính quốc tế và
khu vực như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF),
Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu âu (EU), khu vực thương mại tự do
Bắc Mỹ (AFTA)…Mặt khác cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề
toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có
sự hợp tác đa phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, đẩy
lùi dịch bệnh hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế…
Tuy nhiên trong xu thế đó, các nước công nghiệp phát triển, đứng đầu là
Mỹ, do có ưu thế về thị trường, nắm được tiến bộ khoa học - công nghệ, có nền
kinh tế phát triển cao, đã ra sức thao túng, chi phối thị trường thế giới, áp đặt
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp
8
Bài tập nhóm chuyên đề 2
điều kiện với những nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp
như bao vây cấm vận, trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nước đang phát
triển và chậm phát triển. Trước tình hình đó các nước đang phát triển đã từng
bước tập hợp nhau lại, đấu tranh chống chính sách tăng cường quyền áp đặt của
Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế bình đẳng, công bằng.
Hiện nay xu thế toàn cầu hoá đang là xu thế phát triển tất yếu của quan hệ
quốc tế và của nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa vừa mang lại cho công tác
quản lý một động lực tích cực vừa đặt ra cho công tác quản lý những thách thức
to lớn. Cơ hội mà toàn cầu hóa đem lại cho các nước khác nhau, các dân tộc
khác nhau không phải lúc nào cũng như nhau. Xét một cách tổng thể, các nước
phát triển kinh tế, giàu có hơn sẽ được chia sẻ cơ hội nhiều hơn các nước nghèo;
điều đó cũng có nghĩa là toàn cầu hóa sẽ làm cho các nước nghèo, các nước
đang phát triển đối mặt vơi nhiều thách thức hơn so với cơ hội. Từ đó tạo ra hố
sâu ngăn cách ngày càng lớn về mức độ của cải và quyền lực giữa các nước
khác nhau.
Trước những thách thức mà toàn cầu hóa mang lại, đòi hỏi các nước phải
điều chỉnh nhiều quy định của pháp luật theo pháp luật và thông lệ quốc tế,
nhiều vấn đề mang tính toàn cầu, đặc biệt là những vấn đề xã hội, những vấn đề
kinh tế xã hội khác đòi hỏi phải có sự tham gia và phối hợp của nhiều cơ quan,
tổ chức khác nhau. Chính vì vậy, chính phủ nhiều nước trên thế giới đang cố
gắng tạo dựng các mối quan hệ hợp tác có hiệu quả giữa các tổ chức hành chính
nhà nước, giữa trung ương với địa phương, giữa các cấp hành chính địa phương
khác nhau, giữa các tổ chức hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội, giữa
các tổ chức trong khu vực công và các tổ chức trong khu vực tư…
Toàn cầu hóa đã dẫn đến những thay đổi về quan điểm quản lý hành chính,
phá vỡ các quan điểm hành chính truyền thống, cách thức quản lý tập trung vào
việc thực hiện công việc và kết quả công việc, tăng cường tính chịu trách nhiệm
trong các hoạt động quản lý; đổi mới theo hướng tinh gọn hệ thống ngân sách,
nhân sự, tinh giản biên chế. Các cơ quan hành chính tăng cường sử dụng các
nguồn lực từ bên ngoài, thông qua mối quan hệ ngày càng chặt chẽ với khu vực
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp
9
Bài tập nhóm chuyên đề 2
tư nhân. Các cơ quan hành chính nhà nước ngày càng thay đổi theo hướng có
nhiều đặc điểm giống với khu vực tư nhân, những thay đổi này diễn ra cả bên
trong (áp dụng cạnh tranh, linh hoạt trong quản lý, điều hành, áp dụng hợp đồng
trong hoạt động của các cơ quan hành chính…) lẫn bên ngoài tổ chức (tăng
cường sự lựa chọn trong cung cấp dịch vụ, đảm bảo hoạt động minh bạch, hiệu
quả, sử dụng các hình thức đấu thầu giữa các tổ chức của nhà nước và tổ chức tư
nhân trong cung cấp dịch vụ công…). Ngoài ra để tăng cường tính hợp tác và
giải quyết các vấn đề khu vực toàn cầu, nền hành chính của các nước đều phải
quan tâm và ghánh vác nghĩa vụ chung đối với những vấn đề loài người như
nghèo đói, bệnh tật, môi trường, tội phạm, ma túy…
Toàn cầu hóa có tác động đến hầu hết các lĩnh vực quản lý của chính quyền
tại hầu hết các nước và hạn chế khả năng hành động độc lập của chính quyền
các quốc gia. Nhiệm vụ đặt ra là phải đẩy mạnh vệc quản lý mang tính khu vực
và quốc tế đối với quá trình này chủ yếu nhằm các mục tiêu: làm chậm lại sự
chuyển hóa từ bên ngoài có tính phá hoại tại bất cứ quốc gia nào; ngăn chặn
phản ứng thái quá; bảo vệ những nhóm và những quốc gia có khả năng bị tổn
thương trước những tác động xấu của việc điều chỉnh hoặc ngày càng bị tụt lại
phía sau. Những hiệp định thương mại đa phương được thể chế hóa trong WTO,
ASEAN tất yếu hạn chế khả năng hành động một các đơn phương của chính phủ
các nước trong việc bảo vệ lợi ích cục bộ của họ.
Ở Việt Nam, những tác động của toàn cầu hóa đã và đang đặt ra hàng loạt
vấn đề như vị thế kinh tế của Việt Nam còn thấp kém hơn nhiều nước trong khu
vực cũng như trên thế giới; những thách thức khi tham gia các tổ chức khu vực
và thế giới như ASEAN, WTO…; sức ép cạnh tranh của quốc tế; sự bành trướng
và gây áp lực về mọi mặt của các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia. Cùng với
đó, các thế lực thù địch và bọn phản động luôn tìm mọi cách, kiếm mọi nguồn
viện trợ để thực hiện các âm mưu chống phá chế độ, phá vỡ sự lãnh đạo duy
nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Toàn cầu hóa không chỉ tạo ra khả năng
phát triển rút ngắn cho Việt Nam, đem đến cho Việt Nam nhiều cơ hội mà còn
đặt Việt Nam trước rất nhiều thách thức. Con đường để vượt qua những thách
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp
10
Bài tập nhóm chuyên đề 2
thức đó không phải là đóng cửa để sống biệt lập với thế giới; mà trái lại phải tích
cực, chủ động hội nhập quốc tế, bồi dưỡng và giáo dục con người nhằm nâng
cao trách nhiệm, ý thức công dân, trách nhiệm với tổ quốc, khơi dậy và phát huy
tinh thần dân tộc của họ. Những tác động của toàn cầu hóa đặt ra vấn phải tiến
hành đổi mới nền hành chính trên cơ sở bảo đảm các nguyên tắc cơ bản; phải
nhận thức và dự báo tốt các xu hướng tác động của toàn cầu hóa đồng thời kiên
trì đấu tranh chống các thế lực thù địch; tiếp tục “đổi mới để thích ứng” vẫn là
sự lựa chọn kịp thời và đúng đắn. Tiến trình này đòi hỏi sự lãnh đạo trí tuệ, vững
vàng, bản lĩnh của Đảng Cộng sản, của Nhà nước và trách nhiệm trước toàn dân
tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, có thể thấy xu thế toàn cầu hóa có những tác động tiêu cực
không nhỏ tới sự phát triển bền vững ở quốc gia đang phát triển như Việt Nam
trên cả bình diện chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường. Vì vậy, Việt Nam
trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới cần chú ý tới những tác động
này. Thực chất đây là “mặt đối lập” của những thuận lợi mà toàn cầu hóa mang
lại cho các quốc gia. Chúng ta không thể tách mình khỏi xu thế này nhưng
chúng ta cần một chiến lược hội nhập bền vững, phát triển kinh tế nhưng phải
đánh giá và có những giải pháp phù hợp cho tất cả những vấn đề đó.
Tóm lại, toàn cầu hóa là xu hướng phát triển khách quan, mang tính quy
luật trong quá trình phát triển của thế giới. Toàn cầu hóa đang tác động sâu sắc
không chỉ đến kinh tế, xã hội mà còn đến cả nền hành chính của tất cả các quốc
gia. Hội nhập quốc tế mang lại những cơ hội phát triển to lớn cho Việt Nam,
nhưng cũng đặt chúng ta trước những thách thức, khó khăn không nhỏ. Điều đó
đòi hỏi nhà nước phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc để có những giải pháp
phù hợp nhằm tận dụng được những cơ hội, vượt qua thách thức,biến những
thách thức thành cơ hội để phát triển, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực
cạnh tranh, đứng vững trong quá trình hội nhập quốc tế.
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp
11
Bài tập nhóm chuyên đề 2
DANH MỤC TÀI LIÊU THAM KHẢO
1. Đoàn Trọng Tuyến (chủ biên), Một số vấn đề về xây dựng và cải cách nền
hành chính nhà nước Việt Nam. Nxb.CTQG, Hà Nội, 1996.
2. Học Viện Hành Chính Quốc Gia, Giáo trình Lý luận hành chính nhà
nước, Hà Nội, 2010.
3. S.Chiavo-Campo và P.S.A.Sundaram, Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành
chính công trong một thế giới cạnh tranh, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2003.
4. Phạm Đức Toàn, Mối quan hệ giữa hành chính công và quản lý công –
Liên hệ Việt Nam.
5. Lê Anh Tuấn, Nền hành chính công trong thời kỳ toàn cầu hóa.
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp
12