Tải bản đầy đủ (.pdf) (192 trang)

Luận án TOÀN văn tổ chức hoạt động khám phá khoa học nhằm phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 3 4 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.31 MB, 192 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phƣơng tiện giao tiếp quan trọng
nhất góp phần tạo nên sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đồng, đồng thời phản
ánh đời sống văn hóa của dân tộc. Cùng với chức năng giao tiếp, ngơn ngữ cịn là
cơng cụ để tƣ duy. Hai chức năng này quan hệ mật thiết với nhau. Ngôn ngữ phản
ánh năng lực tƣ duy, năng lực trí tuệ của mỗi ngƣời và cũng là phƣơng tiện để thể
hiện hiểu biết của con ngƣời về thế giới xung quanh. Khi tƣ duy của con ngƣời phát
triển thì ngơn ngữ cũng phát triển, và ngƣợc lại, khi ngơn ngữ phát triển thì cũng có
nghĩa là tƣ duy phát triển. “Khơng có ngơn ngữ thì khơng có tƣ duy và ngƣợc lại,
khơng có tƣ duy thì ngơn ngữ chỉ là những âm thanh trống rỗng" [10, tr.22].
Giáo dục ngôn ngữ là nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục mầm non. Ngôn ngữ giúp
trẻ biểu đạt nguyện vọng, nhu cầu, là điều kiện để tham gia vào mọi hoạt động xã
hội, từ đó, hình thành nhân cách. Qua các hoạt động ngơn ngữ, trẻ đƣợc phát triển
tồn diện cả về tƣ duy, trí tuệ, thẩm mĩ, đạo đức và các kĩ năng xã hội…Trong các
nhiệm vụ giáo dục ngôn ngữ cho trẻ em, PTVT là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
PTVT giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết, nhận thức thế giới xung quanh, để phát triển tƣ
duy. Trẻ muốn diễn đạt ý nghĩ của bản thân cho ngƣời khác hiểu và hiểu đƣợc ngƣời
khác phụ thuộc rất nhiều vào sự PTVT. Vốn từ là cơ sở để trẻ giao tiếp, phát triển ngôn
ngữ cũng nhƣ mọi lĩnh vực khác.
1.2. Trẻ ở giai đoạn 3 - 4 tuổi có sự phát triển mạnh mẽ về mọi phƣơng diện.
Đây đƣợc xem là “cơ hội vàng” để phát triển ngôn ngữ. Giai đoạn này, trẻ có nhu
cầu giao tiếp, nhận thức thế giới xung quanh, tự khẳng định mình và tham gia vào
các hoạt động. Những nhu cầu này thúc đẩy trẻ khám phá và tạo ra cơ hội gia tăng
vốn từ nhanh chóng. VT của trẻ ở giai đoạn này phát triển nhanh trên mọi phƣơng
diện: số lƣợng từ, cơ cấu từ loại, khả năng hiểu nghĩa của từ… Do đó, cùng với việc
phát triển các thành tố khác nhƣ phát âm, học mẫu câu… thì PTVT là nhiệm vụ
quan trọng trong q trình giáo dục ngơn ngữ cho trẻ, đặc biệt là trẻ MG 3 - 4 tuổi.
1.3. Ở trƣờng mầm non, tất cả các hoạt động đều có thể PTVT cho trẻ. Mỗi




2

hoạt động đều có những ƣu thế riêng, trong đó, KPKH là hoạt động có nhiều lợi thế.
Thơng qua hoạt động này, trẻ không những thu nhận đƣợc vốn kiến thức về các sự
vật hiện tƣợng xung quanh, biết tên gọi các loài cỏ cây hoa lá, các loài động vật…
mà cịn mở rộng VT đa dạng, chính xác hóa và tích cực hóa VT. Trẻ sử dụng từ
ngữ để gọi tên, mô tả các sự vật hiện tƣợng. Khi trực tiếp tham gia hoạt động
KPKH, trẻ đƣợc sờ, đƣợc ngửi, đƣợc nghe, đƣợc cảm nhận bằng các giác quan các
sự vật, hiện tƣợng. Vì vậy, việc tiếp thu kiến thức và lĩnh hội VT của trẻ sẽ gần
với thực tế đời sống hơn và trở nên hiệu quả hơn..
1.4. Thực tế ở các trƣờng mầm non, khi tổ chức hoạt động KPKH, GV thƣờng chú
trọng tới mục tiêu phát triển nhận thức, mà ít chú ý đến phát triển ngơn ngữ nói
chung, PTVT cho trẻ nói riêng. Việc PTVT chƣa đƣợc đặt trong tính hệ thống,
trong sự kết hợp giữa các hoạt động với nhau. Trẻ chƣa có nhiều cơ hội đƣợc giao
tiếp, chia sẻ, diễn đạt ý tƣởng của mình; các hoạt động KPKH chƣa thực sự tạo
đƣợc mơi trƣờng ngơn ngữ tích cực cho trẻ. Mặt khác, đa số GV cịn gặp khó khăn về
biện pháp PTVT cho trẻ trong hoạt động KPKH. Những nhƣợc điểm, khó khăn này
cần đƣợc nghiên cứu để tìm ra các biện pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lƣợng giáo
dục PTVT, phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
1.5. Nghiên cứu về phát triển ngơn ngữ nói chung, PTVT nói riêng cho trẻ đã đƣợc
nhiều tác giả trong và ngoài nƣớc quan tâm. Tuy nhiên, đi sâu nghiên cứu tổ chức
hoạt động KPKH nhƣ là phƣơng tiện để PTVT cho trẻ MG 3 - 4 tuổi vẫn chƣa có
cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ thống. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi
chọn nghiên cứu đề tài “Tổ chức hoạt động khám phá khoa học nhằm phát triển vốn
từ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề xuất biện pháp tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho trẻ
MG 3 - 4 tuổi góp phần giúp trẻ phát triển ngôn ngữ để giao tiếp học tập, và nâng

cao chất lƣợng chăm sóc - giáo dục trẻ ở trƣờng mầm non.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục PTVT cho trẻ MG 3 - 4 tuổi ở trƣờng mầm non.


3

3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho trẻ MG 3 - 4 tuổi ở
trƣờng mầm non.
4. Giả thuyết khoa học
Hoạt động KPKH là một trong những phƣơng tiện hiệu quả để PTVT cho
trẻ 3 - 4 tuổi. Việc tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho trẻ MG 3-4 tuổi đã
có những kết quả nhất định, tuy nhiên vẫn cịn nhiều thiếu sót, vốn từ biểu đạt và
tiếp nhận của trẻ còn một số hạn chế. Nếu xây dựng và thực hiện các biện pháp
tổ chức hoạt động KPKH cho trẻ MG 3 - 4 tuổi một cách có hệ thống từ thiết kế
hoạt động và môi trƣờng hoạt động theo mục tiêu PTVT, tạo cơ hội cho trẻ đƣợc
trải nghiệm khám phá trực tiếp sự vật, hiện tƣợng và sử dụng từ một cách tích
cực, thƣờng xuyên, gắn với đối tƣợng cụ thể trong ngữ cảnh có ý nghĩa, phối hợp
tốt giữa gia đình và nhà trƣờng thì sẽ giúp trẻ phát triển VT tốt hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho
trẻ MG 3 - 4 tuổi ở trƣờng mầm non.
5.2. Khảo sát thực trạng tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho trẻ MG 3 - 4
tuổi ở các trƣờng mầm non tại tỉnh Thanh Hóa.
5.3. Đề xuất và thực nghiệm các biện pháp tổ chức hoạt động KPKH nhằm
PTVT cho trẻ MG 3 - 4 tuổi ở trƣờng mầm non.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu PTVT cho trẻ MG 3 - 4 tuổi gồm vốn từ tiếp nhận và vốn từ
biểu đạt.
Các biện pháp tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho trẻ MG 3 - 4 tuổi
đƣợc thực hiện ở trƣờng mầm non.
6.2. Khách thể và địa bàn nghiên cứu
- Khảo sát thực trạng:
+ 210 GVMN ở 15 trƣờng mầm non cơng lập tại tỉnh Thanh Hóa;


4

+ 120 trẻ 3 - 4 tuổi ở 04 trƣờng (trong 15 trƣờng trên).
- Thực nghiệm: 120 trẻ MG 3 - 4 tuổi ở 02 trƣờng mầm non (trong 15
trƣờng trên).
7. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Cách tiếp cận
- Tiếp cận hoạt động: Sự PTVT của trẻ chỉ có hiệu quả nếu tiến hành thơng
qua các hoạt động phù hợp với hứng thú, khả năng, nhận thức của trẻ, đặc biệt là
hoạt động trải nghiệm, giao tiếp giữa trẻ với bạn bè và ngƣời lớn xung quanh. Ở
trƣờng mầm non, hoạt động KPKH có ƣu thế riêng đối với việc tạo môi trƣờng, tạo
cơ hội cho trẻ đƣợc quan sát, trải nghiệm, tích lũy, giao tiếp. Do vậy, cần lựa chọn
hoạt động với những đối tƣợng phong phú, đa dạng, hấp dẫn, phù hợp với trẻ MG
3- 4 tuổi nhằm giúp trẻ PTVT.
- Tiếp cận hệ thống: Quá trình tổ chức hoạt động KPKH là một bộ phận hợp
thành của quá trình giáo dục trong trƣờng mầm non. Quá trình này bao gồm nhiều
thành tố nhƣ: mục đích, nội dung, phƣơng pháp, phƣơng tiện, đánh giá... Các thành tố
này có vị trí, chức năng nhất định và có tác động qua lại với nhau. Tính hệ thống yêu
cầu khi hƣớng dẫn trẻ KPKH cần đặt trong mối quan hệ với các điều kiện khách quan
khác có ảnh hƣởng đến quá trình tổ chức hoạt động nhƣ: điều kiện kinh tế, xã hội, đặc
điểm của môi trƣờng tự nhiên, xã hội của địa phƣơng, điều kiện của trƣờng mầm non.

- Tiếp cận tích hợp: Vận dụng quan điểm tiếp cận tích hợp, luận án nghiên cứu
tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho trẻ có phối hợp nhiều phƣơng pháp, biện
pháp khác nhau. PTVT cho trẻ cần đƣợc tiến hành tích hợp đan cài thơng qua các hoạt
động và sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Thông qua tổ chức hoạt động KPKH, GV tạo điều
kiện để trẻ trực tiếp tiếp xúc với đối tƣợng bằng các giác quan, tiếp thu VT cùng với
quá trình hình thành biểu tƣợng về các sự vật, hiện tƣợng trong thế giới xung quanh.
- Tiếp cận phát triển: PTVT của trẻ là một q trình liên tục mang tính kế
thừa. Nghiên cứu các biện pháp tổ chức hoạt động KPKH cho trẻ MG 3 - 4 tuổi đƣợc
dựa trên sự phát triển chung của trẻ, ở từng giai đoạn các biện pháp tác động nhằm
củng cố VT đang có, giúp trẻ đạt đƣợc mức độ phát triển cao hơn. Trên cơ sở kế thừa
những kết quả đã đạt đƣợc, tìm kiếm cách thức tác động nhằm nâng cao VT cho trẻ
MG 3 - 4 tuổi thông qua tổ chức hoạt động KPKH ở trƣờng mầm non.


5

7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu lí luận
7.2.1.1. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Thu thập, phân tích, tổng hợp tƣ liệu
khoa học trong và ngồi nƣớc về PTVT cho trẻ MG 3 - 4 tuổi; tổ chức hoạt động
KPKH cho trẻ 3 - 4 tuổi; tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho trẻ MG 3 - 4 tuổi.
7.2.1.2. Phƣơng pháp hệ thống hóa, khái qt hóa lí luận: Sử dụng phƣơng
pháp này nhằm xác định hệ thống khái niệm và quan điểm, xây dựng khung lý
thuyết, thiết kế điều tra, thiết kế thực nghiệm của luận án.
7.2.2. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.2.1. Phƣơng pháp quan sát: Quan sát việc tổ chức hoạt động KPKH cho
trẻ MG 3 - 4 tuổi ở trƣờng mầm non nhằm phát hiện thực trạng, các biện pháp đã
áp dụng, biểu hiện VT của trẻ. Kết quả quan sát đƣợc ghi chép, mô tả và kết hợp
với các thông tin thu thập đƣợc từ các phƣơng pháp nghiên cứu khác để phân
tích, rút ra nhận xét khoa học.

7.2.2.2. Phƣơng pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Sử dụng phiếu hỏi đối với GV
để điều tra thực trạng tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho trẻ MG 3 - 4 tuổi.
7.2.2.3. Phƣơng pháp phỏng vấn: Phỏng vấn trực tiếp GV để có thơng tin về
thực trạng tổ chức hoạt động KPKH; phƣơng pháp, hình thức và những thuận lợi,
khó khăn trong việc tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho trẻ MG 3 - 4 tuổi ở
trƣờng mầm non. Ngồi ra, trị chuyện trực tiếp với trẻ MG 3 - 4 tuổi để thu thập
thêm thông tin về mức độ PTVT của trẻ.
7.2.3.4. Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm: Tổ chức thực nghiệm nhằm
kiểm nghiệm tính khoa học, sự phù hợp, khả thi của biện pháp tổ chức hoạt động
KPKH nhằm PTVT cho trẻ MG 3 - 4 tuổi ở trƣờng mầm non.
7.2.3.5. Phƣơng pháp sử dụng thang đo: Sử dụng thang đo của Pham, G., &
Tipton, T. (2018) nhằm kiểm tra VT tiếp nhận và VT biểu đạt của trẻ MG 3 - 4 tuổi.
Đây là công cụ đƣợc xây dựng theo qui trình chuẩn đƣợc sử dụng nhiều nhất trong
các nghiên cứu về đánh giá năng lực ngơn ngữ của trẻ em nói tiếng Việt đƣợc cơng
bố trong khoảng 5 năm gần đây. Hai nội dung đo của công cụ gồm VT tiếp nhận và
VT biểu đạt là hai năng lực cơ bản trong VT của trẻ. Hệ số alpha Cronbach ở VT


6

tiếp nhận và VT biểu đạt cao hơn 0,71 cho thấy độ tin cậy nội bộ là rất cao. Hiện
nay ở Việt Nam thiếu công cụ đo VT đƣợc chuẩn hóa. Vì vậy, chúng tơi sử dụng
thang đo này để đánh giá VT của trẻ. (xem Phụ lục 5)
7.2.3.6. Phƣơng pháp mô tả chân dung phát triển vốn từ của một số trẻ: Theo
dõi trực tiếp sự tiến bộ về VT của 02 trẻ và mơ tả kết quả đó trong và sau q trình
nghiên cứu.
7.2.3. Phƣơng pháp xử lí số liệu bằng thống kê toán học: Sử dụng phần mềm
SPSS và Microsoft Excel 2010 để xử lí các số liệu thu đƣợc từ khảo sát thực trạng
tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho trẻ và thực nghiệm sƣ phạm.
8. Luận điểm bảo vệ

8.1. Trẻ MG 3 - 4 tuổi có thể phát triển đƣợc VT tiếp nhận và VT biểu đạt tự
nhiên trong quá trình tham gia vào các hoạt động KPKH ở trƣờng mầm non.
8.2. Vốn từ của trẻ MG 3-4 tuổi đƣợc phát triển thông qua trải nghiệm ngơn ngữ.
KPKH là hoạt động có nhiều lợi thế trong việc tạo cơ hội cho trẻ tiếp xúc trực tiếp với
các đối tƣợng sử dụng ngôn ngữ trong bối cảnh có ý nghĩa, là mơi trƣờng tốt cho sự
PTVT. Tổ chức hoạt động KPKH có ảnh hƣởng đến sự PTVT cho trẻ MG 3 - 4 tuổi.
8.3. Các biện pháp tổ chức hoạt động KPKH có tác động tốt đến PTVT cho
trẻ MG 3- 4 tuổi khi đƣợc thiết kế có mục tiêu rõ ràng và tiến hành trong môi
trƣờng thuận lợi, tạo cơ hội cho trẻ đƣợc trải nghiệm ngơn ngữ một cách tự nhiên,
tích cực và thƣờng xuyên.
9. Đóng góp mới của luận án
9.1. Bổ sung, làm phong phú hơn lí luận về PTVT, hoạt động KPKH và tổ
chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho trẻ MG 3 - 4 tuổi.
9.2. Cung cấp thông tin về thực trạng tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT
cho trẻ MG 3 - 4 tuổi của GV ở một số trƣờng mầm non tại tỉnh Thanh Hóa làm cơ
sở khoa học cho các nhà nghiên cứu, quản lí giáo dục mầm non trong xây dựng kế
hoạch phát triển GDMN của địa phƣơng.
9.3. Các biện pháp tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho trẻ MG 3 - 4
tuổi đề xuất trong luận án có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo, cho công tác
nghiên cứu, đào tạo, bồi dƣỡng GV mầm non ở tỉnh Thanh Hóa. Ngồi ra có thể


7

vận dụng sáng tạo các biện pháp này ở các trƣờng mầm non có điều kiện giáo dục
tƣơng đƣơng để góp phần nâng cao chất lƣợng giáo dục trẻ.
10. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Tài liệu tham khảo và Phụ
lục, nội dung của luận án gồm 04 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan và cơ sở lí luận của tổ chức hoạt động khám phá khoa

học nhằm phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi;
Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức hoạt động khám phá khoa học nhằm phát triển
vốn từ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi;
Chƣơng 3: Biện pháp tổ chức hoạt động khám phá khoa học nhằm phát triển
vốn từ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi;
Chƣơng 4: Thực nghiệm sƣ phạm.


8

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
KHÁM PHÁ KHOA HỌC NHẰM PHÁT TRIỂN VỐN TỪ
CHO TRẺ MẪU GIÁO 3 - 4 TUỔI
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu về phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi
PTVT là nội dung đƣợc quan tâm trong các nghiên cứu về phát triển ngơn
ngữ cho trẻ em nói chung, trẻ MG 3 - 4 tuổi nói riêng. Những nghiên cứu về vấn đề
này, tập trung theo các hƣớng sau đây:
Thứ nhất: Những nghiên cứu về tốc độ PTVT của trẻ MG 3-4 tuổi
Ở hƣớng này có thể kể đến các tác giả tiêu biểu nhƣ: Owens [69]; Gard. Gilman
& Gorman [58]; Linda & Catherine [64]; Lƣu Thị Lan [19]; Nguyễn Xuân Khoa [17];
Nguyễn Thị Phƣơng Nga [24]; Nguyễn Thị Hiên và Nguyễn Thị Tƣơi [12]... Các tác
giả trên đều khẳng định bƣớc vào giai đoạn 3-4 tuổi, trẻ có tốc độ phát triển nhanh
về vốn từ. Tuy nhiên, mỗi tác giả đƣa ra các nghiên cứu khác nhau về số lƣợng và
chất lƣợng từ cụ thể mà trẻ đạt đƣợc. Tác giả Owens (1986) cho rằng: “đến 3 tuổi,
hầu nhƣ trẻ đều sử dụng đƣợc các câu đơn từ 3 đến 4 từ, tiếp thu khoảng 900-1000
từ; VT tiếp nhận và VT biểu đạt của trẻ đƣợc mở rộng. Đến 4 tuổi, trẻ đã thành thạo
ngữ pháp cơ bản, tiếp thu khoảng 1500-1600 từ và đa dạng các loại câu hỏi” [69].
Tác giả Gard, Gilman và Gorman (1993) cho rằng: “số lƣợng từ của trẻ 3 tuổi:

425 - 900 từ, 4 tuổi: 1500 từ” [58]. Mặc dù không chỉ rõ số lƣợng từ mà trẻ có
đƣợc ở độ tuổi 3 - 4 nhƣng tác giả Linda Clark & Catherine Ireland (1994) khẳng
định rằng: “ở thời điểm 3 tuổi, trẻ đã có thể nhớ đƣợc những việc xảy ra hơm qua,
lên kế hoạch cho ngày mai, phát âm đã khá hoàn thiện, trẻ có thể nhận thức đƣợc
ngƣời lạ khoảng 85%, có khả năng dùng danh từ để đặt tên đồ vật, dùng tính từ để
miêu tả đồ vật; khi đƣợc 4 tuổi, vốn từ của trẻ tăng lên rõ rệt, câu hỏi của trẻ về
sự vật, hiện tƣợng trong thế giới xung quanhphức tạp hơn, trẻ đã dần nắm đƣợc
quy luật của việc dùng từ (khi nào dùng “một”, khi nào dùng “những”)” [64].
Điều này cũng thể hiện tốc độ PTVT của trẻ MG 3 – 4 tuổi là rất nhanh.


9

Trên ngữ liệu tiếng Việt, tác giả Lƣu Thị Lan, Nguyễn Xuân Khoa, Nguyễn
Thị Phƣơng Nga, Nguyễn Thị Hiên, Nguyễn Thị Tƣơi đã nghiên cứu và đƣa ra các
thông tin về số lƣợng từ trẻ mà trẻ 3- 4 tuổi có đƣợc. Cụ thể, tác giả Lƣu Thị Lan
(1996) cho rằng: “đến 3 tuổi, trẻ có số lƣợng từ là 486, đến cuối 3 tuổi thì số lƣợng từ
của trẻ tăng lên 107%; nhƣng cuối 4 tuổi, số lƣợng từ của trẻ chỉ tăng 40,58% so với
lúc đầu của 4 tuổi (khoảng 1035 từ)” [20]. Nguyễn Xuân Khoa (1999) cho rằng: “đến 3
tuổi, trẻ sử dụng đƣợc 1300 từ, trong đó phần lớn là danh từ và động từ; khi 4 tuổi, vốn
từ của trẻ vào khoảng 1900 – 2000 từ, danh từ, động từ vẫn chiếm ƣu thế, còn tính từ,
các từ loại khác ít sử dụng” [17]. Nguyễn Thị Phƣơng Nga (2006) cho rằng: “Ngôn
ngữ của trẻ 3 tuổi phát triển rất nhanh, vốn từ của trẻ tăng gấp 5 lần so với lúc 2 tuổi,
trẻ có khả năng sử dụng trung bình khoảng 1000 từ, các từ sử dụng có thể phân chia
một cách ƣớc lệ nhƣ sau: 60% danh từ, 20% động từ, 10% danh từ riêng và 10% các
từ loại khác nhau nhƣ tính từ, đại từ...” [24]. Nguyễn Thị Hiên và Nguyễn Thị Tƣơi
cho rằng: “số lƣợng từ mà trẻ tích lũy đƣợc là khoảng 1800 – 1835” [12].
Sở dĩ có nhiều kết quả khác nhau về tốc độ phát triển từ của trẻ MG 3-4 tuổi
nhƣ trên là do các tác giả nghiên cứu vào các thời điểm khác nhau, với đối tƣợng trẻ
ở các vùng miền khác nhau. Thêm nữa, kết quả này còn phụ thuộc vào VT mà tác

giả đề cập là VT tiếp nhận hay VT biểu đạt... Tuy nhiên, các nghiên cứu đều khẳng
định, tốc độ PTVT của trẻ ở giai đoạn 3 - 4 tuổi diễn ra nhanh. Đây là thời điểm
quan trọng để tổ chức hoạt động thúc đẩy sự PTVT cho trẻ.
Thứ hai: Những nghiên cứu về mối quan hệ giữa PTVT với phát triển
ngôn ngữ và nhận thức của trẻ em
Ở hƣớng này có thể kể đến các tác giả tiêu biểu nhƣ: L.S.Vygotsky[46]; E.I.
Tikheeva[39]; Lee Yun Gyung [63]; Paul. L. Morgan [70]… Các tác giả trên đều
khẳng định có mối quan hệ giữa PTVT với phát triển ngôn ngữ và nhận thức của trẻ
em. Cụ thể: L.S.Vygotsky nhấn mạnh, ngôn ngữ là công cụ tâm lí quan trọng nhất
của một nền văn hóa. Theo ông: “hoạt động tinh thần của con ngƣời chính là kết quả
học tập mang tính xã hội chứ khơng phải là học tập mang tính cá thể. Khi gặp phải
những khó khăn trong cuộc sống, trẻ tham gia vào sự hợp tác với ngƣời lớn và bạn


10

cùng trang lứa có năng lực cao hơn; những ngƣời giúp đỡ và khuyến khích trẻ. Trong
mối quan hệ hợp tác này, ngôn ngữ là phƣơng thức đầu tiên mà qua đó con ngƣời
trao đổi các giá trị xã hội, là phƣơng tiện vô cùng quan trọng đối với sự phát triển
của tƣ duy” [46]. E.I. Tikheeva cho rằng: “PTVT hay phát triển ngôn ngữ cho trẻ
phải luôn gắn với việc phát triển nhận thức của trẻ. Nếu nhƣ trẻ phát triển bình
thƣờng thì về mặt ngơn ngữ, mỗi từ mà trẻ học đƣợc sẽ tƣơng ứng với một biểu tƣợng
mà trẻ đã thu nhận trƣớc đó” [39]. Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa ngôn ngữ,
khả năng giao tiếp, nhận thức và xã hội, Lee Yun Gyung cho rằng: “có mối tƣơng
quan giữa ngơn ngữ với kĩ năng điều khiển hành động, cử chỉ; ngôn ngữ với nhận
thức” [63]. “Ngơn ngữ là một trong nhiều hình thức thể hiện tinh thần, là một trong
những công cụ thể hiện tƣ duy, là yếu tố hỗ trợ sự phát triển tƣ duy; q trình phát
triển ngơn ngữ sẽ kéo theo sự phát triển tƣ duy, trí tuệ của trẻ” [53]. Nghiên cứu của
tác giả Paul. L. Morgan và cộng sự đã chỉ rõ, “một trong các yếu tố ảnh hƣởng đến
khả năng ngôn ngữ của trẻ là sự thiếu VT trong diễn đạt cảm xúc, ý tƣởng. Lỗ hổng

vốn từ thƣờng bắt đầu xảy ra với trẻ lúc 2 tuổi và điều này làm tăng nguy cơ phát
triển kém về khả năng đọc sau này” [70]. “Số lƣợng từ mà trẻ có sẽ quyết định khả
năng giao tiếp của trẻ; trẻ biết càng nhiều từ thì sẽ càng lĩnh hội đƣợc nhiều thông
tin, cơ hội tiếp xúc với môi trƣờng xung quanh càng nhiều” [62].
Trên ngữ liệu tiếng Việt, các tác giả: Nguyễn Huy Cẩn [3], [4], [5]; Lƣu Thị
Lan [19], [20] nghiên cứu đặc điểm phát âm VT, tỉ lệ từ loại trẻ sử dụng, đặc điểm
câu, lỗi sai thƣờng gặp trong lời nói của trẻ...; đồng thời khẳng định, sự phát triển
thành tố này là điều kiện, tiền đề cho các thành tố khác của ngôn ngữ phát triển. Tác
giả Nguyễn Thị Oanh [26] khẳng định: “Trẻ học tiếng mẹ đẻ nhờ những ấn tƣợng
tổng quát chứ không tách bạch từng nội dung. Trẻ học nghĩa của từ và khả năng
diễn đạt bằng lời nói một cách mạch lạc thơng qua việc tích cực tiếp xúc với các
cuốn truyện tranh, thông qua việc miêu tả đồ chơi mà trẻ thích...”
Từ các kết quả nghiên cứu của các tác giả trên, ta có thể thấy nghiên cứu VT
và PTVT của trẻ luôn phải đặt trong mối quan hệ với sự phát triển các thành tố khác
của ngôn ngữ.


11

Thứ ba: Những nghiên cứu về các yếu tố ảnh hƣởng đến sự PTVT của trẻ
Ở hƣớng nghiên cứu này có thể kể đến các tác giả Van Kleeck, A [78]; Hoff
E [60]; Catherine L. Taylor, Daniel Christensen, David Lawrence, Francis Mitrou,
Stephen R. Zubrick [54]; Nguyễn Thị Oanh [26]; Lƣu Thị Lan [20]... Các tác giả đã
khẳng định có nhiều yếu tố ảnh hƣởng đến sự PTVT của trẻ nhƣ: “với trẻ 3 - 4 tuổi các
yếu tố gồm: trình độ học vấn của ngƣời mẹ, tâm lí của ngƣời mẹ, tâm lí bất thƣờng
của trẻ, là những yếu tố ảnh hƣởng rõ rệt tới khả năng VT từ hiểu nghĩa và cách sử
dụng của từ ở trẻ” [54]. Ngoài ra, yếu tố bản thân đứa trẻ cũng là ảnh hƣởng đến VT
của trẻ. Theo tác giả Lƣu Thị Lan: “Các cơ quan của cơ thể trẻ liên quan đến hoạt động
nói năng nhƣ: bộ máy phát âm, khả năng nghe là điều kiện thuận lợi để hình thành và
phát triển ngôn ngữ. Nếu nhƣ bản thân đứa trẻ bị khuyết tật hay khơng bình thƣờng các

bộ phận trên thì trẻ sẽ khơng nói đƣợc hoặc nói rất khó khăn” [20]. Lƣu Thị Lan cũng
cho rằng mơi trƣờng văn hóa – giáo dục có ảnh hƣởng lớn đến VT của trẻ “Trình độ văn
hóa của bố mẹ, vai trị của ngƣời lớn trong gia đình nhƣ ơng bà hay anh chị, sự quan
tâm giao tiếp ngôn ngữ của những ngƣời xung quanh đối với trẻ, môi trƣờng sống của
trẻ ở gia đình, nhà trẻ, trƣờng MGđều có ảnh hƣởng trực tiếp tới sự PTVT của trẻ. Các
cháu có số lƣợng từ nhiều là các cháu có đủ các điều kiện tốt nói trên” [20].
Thứ tư: Về đánh giá vốn từ của trẻ
Việc đánh giá VT của trẻ thƣờng tập trung vào đánh giá VT tiếp nhận
(receptive vocabulary) và VT biểu đạt (expressive vocabulary), độ rộng (số lƣợng từ)
và độ sâu (mức độ hiểu nghĩa của từ) VT của trẻ, khả năng học từ mới của trẻ trong
giai đoạn mầm non. “Peabody Picture Vocabulary Test” (tạm dịch là: kiểm tra VT
thông qua tranh “Peabody”) là một phƣơng pháp đánh giá VT tiếp nhận đƣợc sử dụng
phổ biến của nhóm tác giả Douglas M. Dunn, Lloyd và Leota Dunn. Phƣơng pháp
đánh giá này, GV là ngƣời đƣa ra một bức tranh gồm 04 hình ảnh để yêu cầu trẻ chọn
hình tƣơng ứng với từ vựng đƣợc kiểm tra [56]. Đây là công cụ dùng để đánh giá
tiếng Anh Mỹ, đặc biệt là kiểm tra kĩ năng đọc viết của ngƣời tham gia. Công cụ
đánh giá khái niệm cơ bản của Bracken (Bracken Basic Concept Scale) đƣợc sử dụng
phổ biến trong đánh giá VT tiếp nhận; trong đó, ngƣời kiểm tra đƣa ra 03 hình ảnh và
yêu cầu trẻ lựa chọn hình ảnh phù hợp nhất với từ vựng đƣợc kiểm tra. Từ các


12

phƣơng pháp đánh giá cơ bản này, một số nghiên cứu khác đã phát triển công cụ nhằm
đánh giá khả năng biểu đạt trong VT của trẻ mầm non, cụ thể: “Để trẻ chủ động đặt tên
cho tranh minh họa, đƣa ra các câu hỏi dạng “Có/Khơng” liên quan đến từ đƣợc kiểm
tra” [49]; “hoặc yêu cầu trẻ giải thích thêm về nghĩa của từ” [50], [51]. Nhìn chung,
các phƣơng pháp đánh giá VT dựa trên “Peabody Picture Vocabulary Test” có thể
đƣợc sử dụng nhƣ một phƣơng thức tham khảo hữu hiệu cho các nhà nghiên cứu; tuy
nhiên, đối với việc kiểm tra khả năng biểu đạt từ hoặc tính hiệu quả của phƣơng pháp

dạy từ vựng tại trƣờng mầm non, cần có các phƣơng pháp đánh giá kèm theo để tăng
mức độ chính xác.
Phát triển nghiên cứu của Biemiller và Slonim (2001) [51], Vinco (2013) sử
dụng hai phƣơng pháp đánh giá VT biểu đạt của trẻ mầm non là “Test of Preschool
Early Literacy (TOPEL)” - Bài kiểm tra kĩ năng từ vựng cho trẻ mầm non [65] và
“Preschool Assessment of Vocabulary: Expressive and Receptive (PAVER)” [79].
Đối với bài kiểm tra TOPEL, trẻ đƣợc yêu cầu dán nhãn các từ với các tranh minh
họa phù hợp và trả lời các câu hỏi liên quan đến nghĩa của từ đó.
Với phƣơng pháp PAVER, trẻ đƣợc yêu cầu thực hiện đánh giá thơng qua
hai tiêu chí: chỉ đúng hình ảnh minh họa của từ kiểm tra và trả lời đƣợc các câu hỏi
liên quan đến từ đó. Với phần 1 của bài đánh giá về VT tiếp nhận, trẻ đƣợc yêu cầu
lựa chọn hình ảnh minh họa phù hợp với từ kiểm tra trong 04 đáp án; ở phần 2 của
bài đánh giá về vốn từ biểu đạt, trẻ sẽ chủ động đƣa ra từ mục tiêu dựa trên hình ảnh
minh họa, đồng thời trả lời các câu hỏi liên quan đến tính chất của từ đó. Để đánh giá
VT của trẻ nói tiếng Việt, năm 2018, Pham, G., & Tipton, T.[72] đã nghiên cứu và sử
dụng công cụ để đánh giá VT tiếp nhận và VT biểu đạt của trẻ em. Cơng cụ đƣợc
nhóm tác giả xây dựng là các bài tập gọi tên tranh, nhận diện, phân biệt tranh dƣới
dạng trắc nghiệm (test). Bộ công cụ này đƣợc sử dụng ở nhiều nƣớc để nghiên cứu
nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Năm 2019, nhóm tác giả Pham, G. et al. [73] đã sử
dụng bộ công cụ này nghiên cứu khả năng ngôn ngữ của trẻ em Việt Nam. Bài
nghiên cứu này đƣợc đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lời nói – Ngơn ngữ - Thính giác
của Hiệp hội Lời nói – Ngơn ngữ - Thính giác Hoa Kì.
Nhìn chung, các nghiên cứu công cụ đánh giá VT của trẻ mầm non đều kết


13

hợp đồng thời đánh giá VT tiếp nhận và VT biểu đạt. Trong hầu hết các công cụ
đánh giá, bức tranh về từng sự vật, hiện tƣợng, hoạt động đƣợc sử dụng nhƣ là một
phƣơng tiện để kiểm tra VTtiếp nhận và là gợi ý để trẻ đặt câu, sử dụng từ phù hợp

với nội dung của bức tranh.
Thứ năm: Những nghiên cứu về phƣơng pháp, biện pháp phát triển vốn từ
cho trẻ mẫu giáo
Biện pháp giao tiếp, tƣơng tác hàng ngày với trẻ để PTVT: Các tác giả tiêu
biểu nhƣ: Miller, P.H [67]; Miller, P. J. & Mehler, R. A [68]; Penno, Wilkinson &
Moore [71]; Elaine Weitzman Zucker [57], Piasta & Kaderavek [81], Ruston, H.P.
& Schwanenflugel, P.J., Adger [74], Hoyle & Dickinson [48], McKeown và Beck
[49], Girolametto [59], Huttenlocher [61]…Miller, P. H; Miller, P. J. & Mehler, R.
A đã chỉ ra rằng: “Trẻ em có thể sử dụng lời nói của mình để nói chuyện với chính
mình (nói riêng hoặc tự nói), định hƣớng tƣ duy của chúng giúp giải quyết vấn đề
và lên kế hoạch cho những gì chúng sẽ làm” [68]. Các tác giả nhấn mạnh rằng: “Để
thúc đẩy phát triển ngôn ngữ và từ vựng, sự tƣơng tác giữa GV và trẻ em, cách
trình bày và củng cố từ vựng là những yếu tố quan trọng trong việc học của trẻ em.
GV cần giải thích từ và chủ động sử dụngtừ này trong suốt cả ngày trong các hoạt
động khác nhau.” [71]. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra một trong những vấn đề tồn
tại phổ biến là “GV thƣờng khơng nói chuyện và thu hút trẻ nhỏ vào trị chuyện mở
rộng và phát triển ngơn ngữ của chúng, có xu hƣớng dành nhiều thời gian để đƣa ra
phƣơng hƣớng và khi thảo luận về nội dung thƣờng hỏi trẻ những câu hỏi chỉ cần
một hoặc hai từ để trả lời” [81].
Nghiên cứu theo hƣớng này ở Việt Nam có một số tác giả quan tâm nhƣ:
Nguyễn Thị Oanh [26], Nguyễn Thị Hiên, Nguyễn Thị Tƣơi [12]. Các tác giả trên
đều khẳng định vai trò của giao tiếp, tạo tình huống trong giao tiếp, tƣơng tác hàng
ngày đối với PTVT cho trẻ.
Biện pháp đọc sách, kể chuyện, hát và chơi trò chơi… “Tƣơng tác trò chuyện và
hƣớng dẫn của GV, cán bộ nhân viên và các thành viên trong gia đình cũng tạo cơ hội
cho trẻ nhỏ PTVT” [77]. “Kể chuyện - những câu chuyện cá nhân đƣợc tạo ra bởi


14


những đứa trẻ là kết quả của hoạt động trải nghiệm thực tế - là một biện pháp hiệu quả
mà GV có thể sử dụng để gia tăng sự PTVT của trẻ” [68]. “Những trẻ thƣờng xuyên
tiếp xúc với nhiều câu chuyện khác nhau thì VT và độ phức tạp ngữ pháp trong ngơn
ngữ nói của chúng phát triển hơn những đứa trẻ khác” [75]. Theo tác giả Tikheeva E.
I, “một trong những biện pháp hữu hiệu để phát triển ngôn ngữ là cho trẻ quan sát vật
thật, tranh ảnh, kể chuyện, tham quan, hay tổ chức trò chơi” [39]. Tác giả Christ, T.
and Wang, C, đã khẳng định: “Tạo cơ hội cho trẻ sử dụng VT trong hoàn cảnh giao
tiếp có ý nghĩa là một việc làm quan trọng nhằm phát triển VT” [55].
Ở Việt Nam, Nguyễn Thị Oanh cho rằng, nhiệm vụ PTVT cho trẻ MG 5 – 6
tuổi gồm: “(1) PTVT và kĩ năng sử dụng từ ngữ trong lời nói của trẻ; (2) Hình
thành và phát triển cấu trúc ngữ pháp cho trẻ; (3) Giáo dục ngữ âm cho trẻ MG 56 tuổi. Tác giả đã phân tích cách thức PTVT, mở rộng nội dung ý nghĩa từ vựng
cho trẻ MG 5 – 6 tuổi bằng con đƣờng nhận thức thế giới xung quanh thông qua
việc tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động phù hợp nhƣ: vui chơi, học tập,
lao động, dạo chơi, tham quan..., trong đó hoạt động vui chơi và hoạt động học
tập đóng vai trị chủ đạo” [26]. Ngồi ra, đã có một số nghiên cứu lý giải “trẻ lĩnh
hội các thành tố của ngôn ngữ nhƣ thế nào?”; chỉ ra nội dung, phƣơng pháp, hình
thức phát triển từng thành tố của ngơn ngữ; trong đó đều thống nhất sử dụng các
nhóm phƣơng pháp nhƣ dùng lời, trực quan, thực hành và trò chơi...; đồng thời đƣa
ra các biện pháp cụ thể [11], [12], [36], [43],... Các tác giả đã mô tả chi tiết về cách
thức tiến hành các phƣơng pháp/biện pháp PTVT cho trẻ. Tuy nhiên, trẻ giai đoạn
3-4 tuổi vẫn chƣa đƣợc các tác giả quan tâm. Đây là cơ hội để chúng tôi tiếp tục đi
sâu nghiên cứu.
Qua phân tích các cơng trình nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về PTVT
cho trẻ MG 3-4 tuổi có thể thấy nghiên cứu từ góc nhìn này đã nhận đƣợc sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Những nghiên cứu này đã chỉ ra đƣợc mối quan hệ
giữa PTVT với phát triển ngôn ngữ và nhận thức của trẻ; yếu tố ảnh hƣởng đến sự
PTVT, tốc độ PTVT, đánh giá VT cũng nhƣ các phƣơng pháp, biện pháp PTVT cho
trẻ MG. Những nghiên cứu này có vai trị quan trọng, cung cấp một bức tranh khái
quát về vốn từ của trẻ (tốc độ, yếu tố ảnh hƣởng, cách đánh giá, phƣơng pháp phát



15

triển...). Tuy nhiên, các nghiên cứu mới chỉ chú trọng đến nhiệm vụ phát triển VT và
đƣa ra các biện pháp phát triển ngôn ngữ chung cho trẻ. Do vậy, việc xác định nhiệm
vụ, biện pháp và hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục nhằm PTVT có ý nghĩa
lớn đối với phát triển toàn diện cho trẻ MG 3-4 tuổi.
1.1.2. Những nghiên cứu về tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho trẻ mẫu
giáo 3 - 4 tuổi
Thứ nhất: Những nghiên cứu về vai trò của hoạt động khám phá khoa học
đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi
Nghiên cứu theo hƣớng này có những tác giả tiêu biểu nhƣ: Worth, K [80],
Nguyễn Thị Thu Hiền [13]... Các tác giả nhấn mạnh vai trị to lớn của q trình quan
sát, tiếp xúc với thiên nhiên, xã hội đối với việc lĩnh hội kiến thức, phát triển trí tuệ,
ngơn ngữ của trẻ em. Điểm chung trong nghiên cứu của các tác giả này là: Qua hoạt
động KPKH, trẻ đƣợc tìm hiểu thế giới xung quanh, đƣợc khám phá, thử nghiệm,
phát hiện, giải thích, lập luận... Kết quả là trẻ thu đƣợc một số lƣợng từ đáng kể, phát
triển đƣợc năng lực quan sát, tƣ duy, giải quyết vấn đề... Đây là điều kiện để ngôn
ngữ của trẻ đƣợc bộc lộ, phát triển. Worth, K. cho rằng việc dạy và học khoa học
trong lớp học mầm non, giúp trẻ sử dụng và phát triển các kĩ năng quan trọng nhƣ
làm việc nhóm, phát triển ngơn ngữ và hiểu biết tốn học [80].
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền khẳng định “vai trò quan trọng của trị chơi
thí nghiệm trong việc tạo hứng thú, kích thích trẻ tích cực hoạt động, phát triển tính
tị mị, thích khám phá, tìm tịi, phát triển óc quan sát, phán đốn và các năng lực
trí tuệ trong hoạt động KPKH. Qua đó phát triển đƣợc VT nói riêng và ngơn ngữ
nói chung” [13].
Nhìn chung, các nghiên cứu trên chủ yếu phân tích vai trị, ảnh hƣởng của
việc tổ chức hoạt động KPKH tới sự phát triển về mọi mặt của trẻ mầm non nói
chung, chƣa tập trung nghiên cứu biện pháp tổ chức PTVT cho trẻ MG 3 - 4 tuổi.
Thứ hai: Các nghiên cứu về hƣớng dẫn tổ chức hoạt động khám phá khoa học

cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi
Tác giả Marilyn Fleer & Tim Hardy [66] đƣa ra những hƣớng tiếp cận hƣớng


16

dẫn trẻ KPKH. Thomas [37], Bloom [52] xem hoạt động KPKH nhƣ là một phƣơng
tiện để giáo dục phát triển toàn diện cho trẻ MG và xây dựng “ngân hàng” các hoạt
động KPKH cụ thể nhằm hƣớng dẫn GV mầm non tổ chức KPKH cho trẻ một cách
đa dạng, tạo ra các cơ hội để trẻ tham gia hiệu quả, qua đó PTVT cho trẻ.
Tìm hiểu về việc cho trẻ thực hành trải nghiệm trong hoạt động KPKH, tác giả
Janet Humphyryes cho rằng: “Trẻ từ 0 – 6 tuổi luôn khám phá thế giới bằng các giác
quan. Trẻ có thể hiểu tốt hơn khi tham gia vào các hoạt động khám phá thế giới tự
nhiên. GV nên lựa chọn những hoạt động trẻ hứng thú và muốn tìm hiểu. Để giúp trẻ
thực hiện đƣợc điều này, GV tạo cơ hội cho trẻ đƣợc hịa mình vào mơi trƣờng tự
nhiên và dành thời gian để khám phá nó” [16].
Tác giả Nguyễn Thị Nga đề xuất 05 biện pháp tổ chức hoạt động KPKH
nhằm phát triển khả năng suy luận cho trẻ 5 – 6 tuổi [23]. Các tác giả Hoàng Thị
Phƣơng [32], Nguyễn Thị Thanh Thuỷ [38], Trần Thị Ngọc Trâm [42] và Hồ Lam
Hồng [15] hƣớng dẫn tổ chức hoạt động hoặc những nội dung KPKH cụ thể thông
qua việc xây dựng “ngân hàng” các hoạt động KPKH về thiên nhiên vơ sinh, đất,
nƣớc, khơng khí, ánh sáng và thế giới động, thực vật… nhằm phát triển nhận thức
cho trẻ. Đây là những gợi ý quan trọng để chúng tôi đề xuất các biện pháp tổ chức
hoạt động KPKH nhằm PTVT cho trẻ MG 3 - 4 tuổi. Nhìn chung, các nghiên cứu
về tổ chức hoạt động KPKH đã phân tích đƣợc vai trị của việc tổ chức hoạt động
KPKH tới sự phát triển về mọi mặt của trẻ mầm non .
1.1.3. Những nghiên cứu về tổ chức hoạt động khám phá khoa học nhằm phát
triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi
Nghiên cứu về hoạt động KPKH đã đƣợc quan tâm, tuy nhiên nghiên cứu về
tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho trẻ MG nói chung và trẻ MG 3 – 4 tuổi

cịn khá ít. Hƣớng nghiên cứu này, tập trung vào 2 nội dung chính:
Thứ nhất: Nghiên cứu sử dụng bài tập, trị chơi, thí nghiệm... trong q trình
cho trẻ KPKH nhằm PTVT
Tác giả Tikheeva E. I cho rằng, xây dựng hệ thống bài tập, trò chơi khác nhau
sẽ phát triển khả năng tiếp thu, quan sát, các biểu tƣợng, tƣ duy và ngôn ngữ .... cho


17

trẻ MG. Bà đƣa ra một số bài tập mở rộng VT phát triển ý nghĩa từ vựng cho trẻ nhƣ
sau: “(1) Chọn những định ngữ cho vật thể; (2) Đoán những vật thể theo định ngữ;
(3) Chọn những vị ngữ (chỉ hành động) cho vật thể hoặc chọn vật thể căn cứ vào vị
ngữ; (4) So sánh sắc thái của từ; (5) Tiếp tục câu bỏ dở; (6) Thêm các mệnh đề phụ;
(7) Những bộ phận cấu thành của vật thể; (8) Nói thành câu với từ cho sẵn; (9) Giải
câu đố và đặt câu đố; (10) Phân loại vật thể” [39].
Bài tập này cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị trong việc làm giàu VT, phát
triển nội dung của từ, giúp trẻ biết sử dụng từ ngữ đúng trong khi nói. Do đó, chúng
tơi sẽ chọn lọc và vận dụng vào việc tổ chức cho trẻ MG 3 - 4 tuổi lĩnh hội VT trong
hoạt động KPKH.
Thứ hai: Tổ chức hoạt động trải nghiệm và thảo luận về các hoạt động trong
quá trình KPKH nhằm PTVT cho trẻ, có các tác giả Smith [76], Lauren Lowry[62],
Humphyryes [16], Lƣu Thị Lan [20], Đinh Hồng Thái [36], Nguyễn Văn Cẩn [5], Lã
Thị Bắc Lý [21], Bùi Thị Lâm [18], Lê Thị Thanh Sang [35], Nguyễn Thi Minh
Phƣơng [34]... Các tác giả đều tập trung nghiên cứu về sự PTNN của trẻ, các biện pháp
phát triển ngôn ngữ, sử dụng hoạt động KPKH nhƣ là phƣơng tiện để phát triển ngôn
ngữ và đề xuất một số biện pháp tổ chức hoạt động để PTNN cho trẻ mầm non....
Tác giả Smith đã chỉ ra phƣơng pháp kích thích hứng thú tìm hiểu thế giới thực
vật của trẻ em thông qua các hoạt động trồng cây, chăm sóc cây. Qua đó, VT của trẻ về
môi trƣờng xung quanh đƣợc xuất hiện từ đơn giản đến phức tạp. [76] Cũng nghiên
cứu hƣớng này, Lauren Lowry nhấn mạnh, “khi cung cấp từ mới cho trẻ, đặc biệt là

trẻ 3 - 4 tuổi, không nên đƣa nhiều từ cùng một lúc mà nên tạo cơ hội, động viên,
khuyến khích trẻ diễn đạt để trả lời; nên kết hợp dùng cử chỉ, điệu bộ, nét mặt để trẻ
hiểu sâu hơn từ mới đó” [62].
Nhƣ vậy, hoạt động KPKH có ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển mọi mặt của
trẻ, trong đó có PTVT. Số lƣợng từ của trẻ sẽ gia tăng, trẻ hiểu và sử dụng đúng nếu
chúng ta thƣờng xuyên và biết cách giao tiếp với trẻ, dạy trẻ, chơi cùng trẻ. Hoạt
động KPKH giúp trẻ trực tiếp cảm nhận các sự vật, hiện tƣợng, qua đó kích thích
ngơn ngữ để trẻ lĩnh hội đƣợc từ. Các hoạt động KPKH không chỉ giúp cho VT của
trẻ đƣợc mở rộng mà còn giúp trẻ hiểu và lựa chọn, sử dụng từ phù hợp .


18

Tóm lại, có nhiều nghiên cứu về VT, PTVT cho trẻ MG 3-4 tuổi. Đặc biệt,
những nghiên cứu về tổ chức hoạt động khám phá khoa học nói chung, khám phá
khoa học nhằm PTVT cho trẻ nói riêng đã đƣợc quan tâm. Các nghiên cứu theo
hƣớng này cũng đã hƣớng dẫn đƣợc cách tổ chức hoạt động KPKH nhằm phát triển
toàn diện cho trẻ. Tuy nhiên, nghiên cứu tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho
trẻ MG 3-4 tuổi ở Việt Nam đến nay vẫn còn là một khoảng trống. Vì vậy, cần thiết
phải nghiên cứu cách tổ chức hoạt động KPKH để PTVT cho trẻ một cách bài bản,
hệ thống, từ đó xây dựng các biện pháp tổ chức hoạt động KPKH nhằm PTVT cho
trẻ MG 3 - 4 tuổi ở trƣờng mầm non.
1.2. Cơ sở lý luận của tổ chức hoạt động Khám phá khoa học nhằm phát triển
vốn từ cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi
1.2.1. Từ và vốn từ
1.2.1.1. Từ
- Khái niệm:
Có nhiều cách hiểu về từ, tuy nhiên khi đƣa ra khái niệm về từ, ngƣời ta
thƣờng chú ý đến các bình diện chính: hình thức (ngữ âm và cấu tạo); ngữ nghĩa;
ngữ pháp và phong cách.

Theo Từ điển tiếng Việt: “Từ là đơn vị có sẵn trong ngơn ngữ. Từ là đơn
vị nhỏ nhất có cấu tạo ổn định, đƣợc dùng để cấu thành câu.” [29, tr.1035].
Theo nhóm tác giả Lã Thị Bắc Lý, Phan Thị Hồng Xuân và Nguyễn Thị Thu
Nga: “Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngơn ngữ có ý nghĩa và có chức năng độc lập tạo
câu” [22, tr.33].
Trong luận án này, chúng tôi sử dụng khái niệm của Đỗ Hữu Châu: “Từ của
tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ
pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý
nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu” [6, tr.6].
- Phân loại:
Theo Lã Thị Bắc Lý, Phan Thị Hồng Xuân và Nguyễn Thị Thu Nga: “từ loại
tiếng Việt đƣợc chia thành hai lớp lớn và một lớp trung gian” [22].


19

Thực từ: gồm danh từ, động từ, tính từ, số từ. Chúng có đặc điểm: “(1) Có ý
nghĩa từ vựng; (2) Có khả năng làm thành tố chính trong cụm từ chính phụ; (3) Có
khả năng đảm nhiệm các thành phần chính trong câu.” [22]
+ Danh từ: là những từ chỉ sự vật (ngƣời, vật, hiện tƣợng, khái niệm hoặc
đơn vị).
+ Động từ: là những từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật.
+ Tính từ: là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của vật, hoạt động,
trạng thái,...
+ Số từ: là những từ chỉ số lƣợng và thứ tự
Hƣ từ: gồm phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ. Chúng có đặc điểm: “khơng có ý
nghĩa từ vựng, khơng có khả năng làm thành tố chính trong cụm từ chính phụ, khơng
có khả năng đảm nhiệm các thành phần chính trong câu” [22].
Lớp từ trung gian: Là đại từ, có đặc điểm: “(1) Giống thực từ: Có khả
năng đảm nhiệm một số thành phần câu nhƣ chủ ngữ, bổ ngữ; (2) Giống hƣ từ:

Khơng có ý nghĩa từ vựng. Khi thay thế cho từ loại nào thì đại từ mang đặc điểm
của từ loại đó” [22].
1.2.1.2. Vốn từ
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngơn ngữ học, “VT bao gồm toàn thể những
từ và các đơn vị tƣơng đƣơng với từ” [47, tr.428]. Với khái niệm này, “vốn từ’’ đƣợc
hiểu theo nghĩa rộng, tƣơng đƣơng với từ vựng.
Theo Lê Hữu Tỉnh, “VT của cá nhân là toàn bộ các từ và đơn vị tƣơng đƣơng
từ của ngôn ngữ đƣợc lƣu giữ trong trí óc của cá nhân và đƣợc cá nhân đó sử dụng
trong hoạt động giao tiếp” [40, tr.14].
Khái niệm này cho thấy, “từ đƣợc lƣu giữ trong trí óc của cá nhân” tức là
cá nhân đã hiểu đƣợc nghĩa của từ đó (VT tiếp nhận), còn “sử dụng đƣợc từ trong
hoạt động giao tiếp” tức là phải đƣợc biểu hiện ra bên ngoài bằng cách cá nhân đó
vừa phát âm đƣợc vừa sử dụng đƣợc từ trong các hoàn cảnh giao tiếp khác nhau
(VT biểu đạt). Nhƣ vậy, VT của trẻ bao gồm cả những từ/ cụm từ trẻ hiểu, đã có
trong trí não nhƣng chƣa biết cách sử dụng và những từ/cụm từ trẻ đã biết sử dụng
trong giao tiếp.


20

1.2.2. Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi
1.2.2.1. Khái niệm vốn từ của trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi.
Từ khái niệm vốn từ của Lê Hữu Tỉnh [40, tr.14], luận án hiểu:
“VT của trẻ MG 3- 4 tuổi là toàn bộ các từ và đơn vị tƣơng đƣơng từ của
một ngôn ngữ, đƣợc lƣu giữ trong trí óc của trẻ dƣới dạng tiếp nhận (hiểu nghĩa của
từ) hoặc biểu đạt (sử dụng đƣợc từ phù hợp)”
1.2.2.2. Đặc điểm vốn từ của trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mầm non nói chung, trẻ MG 3 – 4 tuổi nói
riêng là một quá trình từ thấp đến cao với các giai đoạn mang những đặc trƣng khác
nhau tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ, ở mỗi giai đoạn có sự kế thừa và phát triển

những thành tựu của giai đoạn trƣớc
- Vốn từ xét về mặt số lƣợng
Trong phần Tổng quan, luận án đã trình bày cụ thể các kết quả nghiên cứu
về số lƣợng từ của trẻ ở những mốc tháng mà trẻ có thể đạt đƣợc. Chúng tơi xin
nhắc lại số liệu của một số tác giả trong nƣớc. Theo Lƣu Thị Lan, trẻ 3 tuổi có số
lƣợng từ là 486. Trẻ 4 tuổi có số lƣợng từ là 724 [20], theo Nguyễn Xuân Khoa trẻ 3
tuổi có số lƣợng từ là 1300, trẻ 4 tuổi có khoảng 1900 – 2000 từ [17].
- Vốn từ xét về mặt cơ cấu từ loại
Xét về cơ cấu từ loại, trẻ MG 3-4 tuổi chủ yếu tiếp thu danh từ và động từ, các
từ loại khác ít hoặc chƣa xuất hiện trong vốn từ của trẻ. Tỉ lệ các từ loại khác tăng lên
theo độ tuổi của trẻ, song mức độ ở các năm có sự khác nhau và ở từng loại cũng
khác nhau. Theo Lƣu Thị Lan, cơ cấu từ loại trong VT của trẻ 4 tuổi gồm: danh từ:
37.91% → 35,36%; động từ: 33,36% → 31,04%; đại từ: 2,82% → 3,61% [20].
Sự tăng giảm của các từ loại trong VT phù hợp với nhận thức của trẻ. Khi
cịn nhỏ thì sự nhận biết của trẻ chủ yếu là các đồ vật, hành động và những ngƣời
thân thiết nhất. Chính vì thế VT của trẻ chủ yếu là các danh từ, động từ chỉ tên gọi
sự vật, hiện tƣợng và hoạt động . Khi lớn hơn, trẻ nhận biết thêm đƣợc các đặc
điểm, tính chất, mối quan hệ của các sự vật, hành động,... do đó các từ loại khác
đƣợc xuất hiện và phát triển phong phú hơn.
Theo các nhà ngữ pháp học chức năng thì động từ là từ loại có vai trị đặc


21

biệt quan trọng đối với trẻ. Động từ giúp trẻ biểu thị đƣợc mong muốn của bản
thân và giúp những ngƣời xung quanh hiểu mong muốn của trẻ. Ví dụ: Khi trẻ
nói ăn mẹ hiểu trẻ đói, cần ăn. Khi trẻ nói đi chơi nghĩa là bé muốn đƣợc đi chơi.
Vì thế, sử dụng tốt động từ sẽ giúp trẻ biết sử dụng các từ loại khác.
- Khả năng hiểu nghĩa từ của trẻ
Khi tiếp thu đƣợc một từ mới, trẻ thƣờng dùng từ đó nhƣ một từ riêng, có

nghĩa là một từ chỉ biểu hiện cho một đối tƣợng duy nhất chứ chƣa thể khái quát
đƣợc cho các đối tƣợng cùng loại. Ví dụ, trẻ dùng từ "áo" để chỉ một cái áo cụ thể
trẻ mặc, sau này khi lớn hơn trẻ mới có thể dùng để khái quát mọi cái áo khác cùng
loại. Điều này cho thấy, khả năng hiểu nghĩa từ tùy thuộc vào sự phát triển nhận
thức của trẻ qua các độ tuổi.
Theo Fedorenko, trẻ em có 5 mức độ hiểu nghĩa khái quát của từ nhƣ sau: Mức độ zêrô (mức độ không): Mỗi sự vật có tên gọi gắn với nó. Trẻ hiểu đƣợc ý
nghĩa gọi tên này: mẹ, bố, bàn, bát, ... (nghĩa biểu danh). - Mức độ 1: Ý nghĩa biểu
hiện ở mức thấp, tên gọi chung của các sự vật cùng loại: búp bê, bóng, cốc, nhà, ...
- Mức độ 2: Khái qt hơn: quả (cam, xồi); xe (máy, ơ tơ); con (gà, cá, heo),... Mức độ 3: mức độ cao hơn trẻ có thể nắm đƣợc nhƣ: phƣơng tiện giao thông: ô
tô, tàu thủy, xe máy, đồ vật; đồ chơi, đồ nấu bếp, đồ dùng học tập... MG 5 - 6 tuổi
- Mức độ 4: Khái quát tối đa, gồm những khái nhiệm trừu tƣợng; số lƣợng, chất
lƣợng, hành động…
Theo đó, trẻ lứa tuổi nhà trẻ hiểu đƣợc ý nghĩa ở mức độ zêrô và 1.Trẻ mẫu
giáo, đặc biệt là mẫu giáo lớn hiểu đƣợc ý nghĩa của từ ở mức độ 2 và 3.Trẻ ở cấp
phổ thông hiểu đƣợc nghĩa của từ ở mức độ 4. [8].
Giai đoạn 3 - 4 tuổi trẻ không chỉ hiểu nghĩa của từ chỉ các sự vật, hành động
cụ thể mà cịn có thể hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất, màu sắc, các mối quan
hệ,... để có thể vận dụng giao tiếp với ngƣời khác. Trẻ có thể hiều đƣợc đặc điểm
của một số loài vật, chẳng hạn nhƣ: con khỉ sống ở đâu, ăn gì... Đây cũng là giai
đoạn trẻ có thể nói đƣợc tên, đặc điểm, cơng dụng của một số phƣơng tiện giao
thông quen thuộc (xe đạp, xe máy, ơ tơ, máy bay, tàu điện,…); Nói đƣợc đặc điểm
của một số con vật (con gà, con chó, con lợn, con khỉ,…); Nói đƣợc đặc điểm của


22

một số loại rau, củ, quả (quả táo, quả nho, quả na, rau cải, củ cà rốt…); Nói đƣợc
chức năng của một số đồ dùng, đồ chơi (bút dùng để viết, tẩy dùng để xóa,...); Nói
đƣợc một số hiện tƣợng thiên nhiên (trời mƣa, trời nắng, gió, sấm, chớp,...).Ở giai
đoạn này, trẻ cịn có thể trả lời và đặt câu hỏi: Ai? Cái gì? Ở đâu? Khi nào? Gọi tên,

mơ tả sự vật qua tranh ảnh; Kể lại sự việc/câu chuyện đƣợc nhìn/nghe kể; Đọc
thuộc một số bài thơ, bài hát, bài đồng dao, kể lại đƣợc câu chuyện ngắn.
VT của trẻ đƣợc chia thành 2 loại: VT thụ động (VT tiếp nhận) bao gồm
những từ trẻ mới chỉ hiểu đƣợc nhƣng chƣa nói đƣợc; VT tích cực (VT biểu đạt)
gồm những từ trẻ hiểu và sử dụng trong giao tiếp, học tập. Chuyển từ VT thụ động
sang VT tích cực (tích cực hóa VT) chính là nội dung và nhiệm vụ quan trọng của
PTVT cho trẻ MG, đặc biệt là 3 - 4 tuổi.
1.2.2.3. Quá trình học từ của trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi
Các nghiên cứu về quá trình học từ của trẻ em đều chỉ ra rằng để học đƣợc
một từ trẻ cần trải qua các giai đoạn nghe → hiểu → bắt chƣớc → nói.
Nghe: Khả năng nghe là tiền đề cho sự phát triển ngơn ngữ. Trẻ nghe đƣợc
mới có thể nói - giao tiếp và phát triển ngôn ngữ. “Giai đoạn MG 3 - 4 tuổi, trẻ tập
trung vào nghe hiểu âm thanh/lời nói. Nghe hiểu âm thanh/ lời nói, gắn với sự vật,
hiện tƣợng cụ thể. Do vậy, các hoạt động KPKH tạo cơ hội cho trẻ đƣợc nghe một
từ nhiều lần trong bối cảnh thực với các đối tƣợng cụ thể. Đây là môi trƣờng tốt để
trẻ đƣợc nghe – hiểu các từ cụ thể” [82].
Hiểu: Là khi trẻ thiết lập đƣợc mối liên hệ giữa một âm thanh lời nói nghe
đƣợc với ý nghĩa của nó. Khả năng hiểu từ của trẻ diễn ra theo trình tự: Hiểu những
từ đầu tiên: Ban đầu trẻ hiểu nghĩa của từ giới hạn trong những ngữ cảnh cụ thể, sau
đó có khả năng nhận biết đƣợc những đồ vật quen thuộc bằng tên thậm chí ngay cả
khi những đồ vật này khơng nằm ở những chỗ quen thuộc. Hiểu danh từ: Danh từ
diễn tả một sự vật có thể nhìn thấy và thao tác đƣợc nên trẻ dễ ghi nhớ. Hiểu động
từ: Hiểu những động từ phản ánh hành động mà trẻ có thể tự thực hiện; hành động
tác động vào đồ vật và hành động tạo ra sự thay đổi trong môi trƣờng. Động từ trừu
tƣợng hơn danh từ, do đó khó học hơn đối với trẻ. Trẻ MG 3 - 4 tuổi có thể hiểu


23

đƣợc động từ và tỉ lệ động từ trong VT của trẻ đang tăng lên, trẻ có thể kết hợp

đƣợc danh từ và động từ khi nói; Hiểu từ chỉ thuộc tính và khơng gian: Trẻ hiểu
đƣợc các tính từ (màu sắc, hình dạng, kích cỡ). Hiểu giới từ: Những từ chỉ không
gian nhƣ “trong”, “trên” và “dƣới” thƣờng đƣợc tiếp thu trƣớc những từ “đằng
trƣớc”, “ở giữa” và “bên dƣới”; Hiểu đại từ: Khi lên 3, sử dụng đƣợc một cách
chuẩn xác các đại từ nhƣ “Con/cháu”, “của con”, “của cháu” [82].
Bắt chƣớc: Là giai đoạn đầu của việc sử dụng từ. Trẻ nhắc lại từ đƣợc ngƣời
lớn nói. Trẻ MG 3 - 4 tuổicó thể bắt chƣớc đƣợc những câu dài 5 - 6 từ. Lời nói của
trẻ phản ánh màu sắc ngôn ngữ của ngƣời lớn sống gần gũi với trẻ. Chính vì vậy, để
giúp trẻ nói đúng từ cần xây dựng môi trƣờng ngôn ngữ mang tính sƣ phạm chuẩn
mực, đặc biệt là mơi trƣờng ngơn ngữ ở gia đình và ở trƣờng, lớp MG [82].
Nói: Đây là bƣớc cuối cùng trong chu trình học từ của trẻ, trẻ sử dụng đƣợc từ
để giao tiếp với những ngƣời xung quanh. cần tạo ra các tình huống kích thích nhu cầu
nói của trẻ. Trẻ cần đƣợc tham gia vào hoạt động giao tiếp, vui chơi, trải nghiệm... để
có nhiều cơ hội đƣợc nghe, hiểu, bắt chƣớc và nói. Hoạt động KPKH là một trong các
hoạt động có nhiều ƣu thế trong việc tạo cơ hội cho trẻ đƣợc giao tiếp, vui chơi, trải
nghiệm để nghe, hiểu, bắt chƣớc, nói [82].
1.2.2.4. Biểu hiện phát triển vốn từ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi
Căn cứ vào khái niệm, đặc điểm PTVT của trẻ; khái niệm, nhiệm vụ và nội
dung PTVT cho trẻ, biểu hiện PTVT của trẻ đƣợc xem xét ở các phƣơng diện sau:
Nhiệm vụ PTVT
STT

cho trẻ MG 3-4

Biểu hiện PTVT của trẻ

tuổi
1.

Tích lũy số lƣợng Số lƣợng vốn từ của trẻ tăng lên, phạm vi vốn từ đƣợc

từ cần thiết cho mở rộng... sau đó tốc độ tăng vốn từ chậm dần theo độ
giao tiếp ngôn ngữ tuổi.
của trẻ

2.

Tạo ra cơ cấu từ Trẻ gọi tên đƣợc các vật, hiện tƣợng (danh từ), mô tả
loại hợp lí trong đƣợc hoạt động trạng thái của sự vật hiện tƣợng con


24

Nhiệm vụ PTVT
STT

cho trẻ MG 3-4

Biểu hiện PTVT của trẻ

tuổi
vốn từ của trẻ

ngƣời (động từ), mơ tả đƣợc tính chất đặc điểm các
trang thái hoạt động (tính từ)

3.

Giúp trẻ lĩnh hội

Thiết lập đƣợc mối quan hệ giữa từ với sự vật hiện


nghĩa của từ (từ tiếp tƣợng tƣơng ứng. Ví dụ: Khi cơ nói từ quả cam, trẻ chỉ
nhận)
4.

tay vào bức tranh có hình quả cam .

Giúp trẻ sử dụng Trẻ sử dụng đƣợc từ để diễn đạt suy nghĩ, ý tƣởng của
đƣợc từ trong những bản thân phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp và giúp cho
ngữ cảnh phù hợp ngƣời khác hiểu mình.
(từ biểu đạt)

1.2.2.5. Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi
* Khái niệm phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi
Khái niệm PTVT đƣợc một số tác giả quan tâm, tùy theo mục đích nghiên cứu,
các tác giả nhấn mạnh đến các đặc điểm khác nhau của PTVT. Trịnh Thị Hà Bắc nhấn
mạnh đến quá trình/cách thức tiến hành và mục tiêu hƣớng tới của PTVT: “PTVT cho
trẻ là việc tổ chức có kế hoạch, khoa học nhằm cung cấp vốn từ, làm giàu vốn từ, nâng
cao khả năng hiểu nghĩa của từ, củng cố và tích cực hoá vốn từ cho trẻ, giúp trẻ biết
vận dụng phù hợp vốn từ đó trong hoạt động giao tiếp” [1, tr.7].
Nhóm tác giả Hồng Thị Oanh, Phạm Thị Việt, Nguyễn Kim Đức nhấn mạnh
đến các mục tiêu của PTVT: “PTVT cho trẻ là giúp trẻ nắm đƣợc nhiều từ, hiểu ý
nghĩa của từ và biết sử dụng trong các tình huống giao tiếp” [27, tr.17].
Nguyễn Thị Phƣơng Nga nhấn mạnh quá trình/cách thức tác động khi cho
rằng: “PTVT cho trẻ là hoạt động có chủ đích, có kế hoạch, nhằm giúp trẻ lĩnh hội
vốn từ có hiệu quả” [24, tr.74]. Cũng theo tác giả, PTVT cho trẻ là cơ sở của phát
triển ngôn ngữ. Đơn vị ngôn ngữ đầu tiên trẻ sử dụng là từ. Trƣờng mầm non có
nhiệm vụ PTVT cho trẻ không chỉ về số lƣợng mà về cả chất lƣợng. Dạy trẻ không
chỉ biết nhiều từ, mà còn phải hiểu từ, sử dụng từ đúng, loại ra những từ khơng hay,
khơng đẹp trong lời nói của trẻ.

Từ nhiều cách tiếp cận khác nhau khi định nghĩa PTVT cho trẻ, luận án hiểu:


25

PTVT cho trẻ MG 3-4 tuổi là quá trình sƣ phạm có mục đích, có kế hoạch nhằm
giúp trẻ gia tăng số lƣợng từ, hiểu nghĩa (VT tiếp nhận) và sử dụng từ (VT biểu
đạt) trong các ngữ cảnh giao tiếp khác nhau.
* Nhiệm vụ phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi
PTVT cho trẻ bao gồm hai mặt: gia tăng về VT tiếp nhận và VT biểu đạt của
trẻ. Cụ thể:
- Tích lũy số lƣợng từ cần thiết cho giao tiếp ngôn ngữ của trẻ: Mặc dù chức
năng cơ bản của từ không phải là giao tiếp nhƣng thiếu từ thì giao tiếp trở nên khó
khăn. Vì vậy, phải cung cấp cho trẻ VT cần thiết. Đó là những từ về mơi trƣờng
xung quanh (ở gia đình, ở trƣờng mầm non) cần cho cuộc sống cá nhân và quan hệ
trong sinh hoạt, học tập, vui chơi của trẻ.
- Tạo ra cơ cấu từ loại hợp lí trong VT của trẻ: Khi PTVT cho trẻ, cần chú
ý tới cơ cấu từ loại sao cho hợp lí. Số lƣợng từ lớn mà cơ cấu từ loại không hợp lí
hoặc thiếu một số từ loại nào đó thì trẻ sẽ khó khăn khi diễn đạt. “Với trẻ 3 - 4
tuổi, cần đảm bảo đủ các từ loại với tỉ lệ vào khoảng: 38% danh từ, 32% động từ,
6,8% tính từ, 7,8% phó từ, 4,7% tình thái từ, 3,1% đại từ, 2,5% số từ, 1,7% quan
hệ từ...” [35]. Nhƣ trên đã nói, động từ thƣờng diễn đạt những hoạt động gần gũi và
gắn với nhu cầu hàng ngày của trẻ do đó cần nâng cao tỉ lệ động từ trong cơ cấu từ
loại, thậm chí cao hơn danh từ.
- Giúp trẻ lĩnh hội nghĩa của từ: Hiểu nghĩa của từ là một nội dung quan
trọng của phát triển ngôn ngữ. Ở trƣờng mầm non, nhiệm vụ này bao gồm: Giúp trẻ
nắm đƣợc ý nghĩa của từ trên cơ sở đối chiếu chính xác chúng với các đồ vật ở xung
quanh, giúp trẻ lĩnh hội đƣợc ý nghĩa khái quát của từ trên cơ sở phân biệt đƣợc
những dấu hiệu đặc trƣng của sự vật và hiện tƣợng, thâm nhập vào thế giới hình
tƣợng của lời nói và biết cách sử dụng chúng. Trong quá trình giao tiếp, dần dần trẻ

lĩnh hội đƣợc ý nghĩa của từ, thậm chí có nhiều nghĩa khác nhau trong một từ (từ
nhiều nghĩa) hay nhiều từ có chung một nghĩa (từ đồng nghĩa).
- Tích cực hóa vốn từ cho trẻ: Trẻ khơng những hiểu từ mà còn phải sử dụng
đƣợc chúng trong giao tiếp. Đây là quá trình biến những từ thụ động thành những từ
chủ động. Việc sử dụng một từ trong nhiều hồn cảnh giao tiếp sẽ làm cho từ ngữ
đó tích cực hóa trong hoạt động của trẻ.


×