PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN NGHĨA HƯNG
TRƯỜNG MẦM NON XÃ NGHĨA LÂM
HỒ SƠ SÁNG KIẾN
“XÂY DỰNG TÍNH TỰ LẬP CHO TRẺ
MẪU GIÁO 3 – 4 TUỔI”
Tác giả: Mai Thị Thơm
Trình độ chun mơn: Cao đẳng sư phạm mầm non
Chức vụ: Giáo viên 3 tuổi
Nơi công tác: Trường mầm non xã Nghĩa Lâm
Nghĩa Lâm, ngày 25 tháng 05 năm 2021
2
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Trường Mầm non Nghĩa Lâm
Tơi:
Tỷ lệ (%) đóng
góp vào việc
Ngày
Số
Họ và tên
TT
Nơi cơng tác
tháng năm (hoặc nơi thường
sinh
trú)
Chức
danh
Trình độ
tạo ra sáng
chun
kiến
mơn
(ghi rõ đối với
từng đồng tác
giả, nếu có)
1
Mai ThịThơm 23/02/1981
Trường Mầm non
xã Nghĩa Lâm
Cao đẳng
Giáo viên sư phạm 100%
mầm non
- Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến:“ Xây dựngtính tự lập cho trẻ
mẫu giao 3-4 tuổi”
- Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến (trường hợp tác giả không đồng thời là chủ đầu
tư tạo ra sáng kiến): Không
- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục
- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Năm học: 2020 –
2021
- Mô tả bản chất của sáng kiến:
+ Giáo viên cần thay đổi cách nhìn nhận về khả năng của trẻ, hãy để trẻ tự
làm những công việc vừa sức.
+ Tạo cơ hội tối đa cho trẻ rèn luyện tính tự lập
+ Nghệ thuật sử dụng lời khen, chê trong giáo dục tính tự lập cho trẻ
3
+ Rèn luyện tính tự lập cho trẻ trong các hoạt động theo chế độ sinh hoạt hàng
ngày đảm bảo tính thường xuyên liên tục.
+ Phối kết hợp với phụ huynh cùng giáo dục tính tự lập cho trẻ.
- Những thơng tin cần được bảo mật (nếu có): Khơng
- Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
+ Cơ sở vật chất, đồ dùng học liệu, đồ dùng đồ chơi, phương tiện trực quan để
phục vụ cho hoạt động giáo dục tính tự lập cho trẻ.
- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tác giả:
+ Các giải pháp đưa ra để giáo dục tính tự lập cho trẻ nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục tính tự lập khi áp dụng vào các hoạt động giáo dục trẻ tại lớp mình
phụ trách, có sự chia sẻ với đồng nghiệp tại đơn vị và chia sẻ với các bậc phụ huynh
của nhóm lớp, chia sẻ với đơn vị bạn tong cụm chun mơn.
+ Bản thân có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, biết vận dụng khéo léo các
phương pháp dạy học theo phương pháp lấy trẻ làm trung tâm khi giáo dục tính tự
lập cho trẻ, có nhiều hình thức đổi mới trong các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ.
+ Bản thân ln cố gắng xây dựng môi trường hoạt động đa dạng, phong phú,
gần gũi hấp dẫn trẻ có lồng ghép nội dung giáo dục. Khi giáo dục tính tự lập cho trẻ,
giúp trẻ tích cực, hứng thú tham gia vào hoạt động đạt hiệu quả hơn.
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Nghĩa Lâm, ngày 26 tháng 05 năm 2021
Người nộp đơn
Mai Thị Thơm
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
4
THƠNG TIN CHUNG
1. Tên sáng kiến: “Xây dựng tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 05 tháng 9 năm 2020 đến ngày 25
tháng 5 năm 2021
4. Tác giả:
Họ và tên: Mai Thị Thơm
Năm sinh: 1981
Trình độ chun mơn: Cao đẳng Sư phạm Mầm non
Chức vụ: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường Mầm non xã Nghĩa Lâm
Địa chỉ liên hệ: Trường Mầm non xã Nghĩa Lâm
Điện thoại: 0842022898
5. Đồng tác giả (nếu có): Khơng
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
- Tên đơn vị: Trường Mầm non xã Nghĩa Lâm
Địa chỉ: Xã Nghĩa Lâm - Nghĩa Hưng - Nam Định
Điện thoại: 02283723673
- Trường Mầm non xã Nghĩa Thành
Địa chỉ: Xã Nghĩa Thành - Nghĩa Hưng - Nam Định
- Trường Mầm non TT Quỹ Nhất
Địa chỉ: Thị trấn Quỹ Nhất - Nghĩa Hưng - Nam Định
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
5
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Hiện nay trong mỗi gia đình đều có rất ít con, nên con cái thường được cha mẹ
nâng niu, chiều chuộng, nhất là những trẻ đang ở trong độ tuổi nhỏ (mầm non).
Các bậc phụ huynh hay nghĩ rằng ở lứa tuổi nhỏ thì các con sẽ khơng thể làm
tốt được việc nào, chính vì thế hiện nay có một sự thật là nhiều trẻ đã 5-6 tuổi thậm
chí là 6-7 tuổi mà vẫn chưa làm được những công việc tự phục vụ bản thân như: tự
xúc cơm ăn, tự mặc quần áo, tự lấy và cất đồ dùng cá nhân.
Việc cha mẹ luôn bao bọc, chiều chuộng con cái một cách q mức, tự mình
làm thay con mọi việc đã vơ tình làm mất đi cơ hội tự lập của con trẻ. Bên cạnh đó,
việc ln được cưng chiều, làm thay mọi việc sẽ làm trẻ thấy mình ln được mọi
người quan tâm, chiều chuộng, chỉ cần địi gì là sẽ được đáp ứng ngay. Từ đó vơ tình
hình thành ở trẻ tính ích kỉ, thái độ bướng bỉnh, lười biếng, mất tự tin, ỷ lại vào
người khác và luôn coi mình là “nhất”.
Hơn thế nữa nhiều cha mẹ cịn nghĩ là quyết định cho con mọi thứ là tốt cho
con, nhiều cha mẹ thì ln lo lắng và theo sát con, không tin vào khả năng của con,
muốn cho con làm nhưng thấy con làm lóng ngóng, vụng về, chậm chạp thì sốt ruột,
khơng cho trẻ làm nữa, để mình làm ln cho nhanh. Chính vì những việc làm như
vậy đã khiến cho con trẻ mất dần đi tính tự lập và dẫn đến hậu quả to lớn khi trẻ
trưởng thành sau này.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, với mong muốn nâng cao tính tự lập cho trẻ tơi
mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài “Xây dựng tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi”
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT
II.1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
a) Ưu điểm:
Được sự phân công của ban giám hiệu nhà trường, tôi phụ trách lớp mẫu giáo
3-4 tuổi. Với sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu về việc rèn tính tự
lập cho trẻ theo các tài liệu chuyên môn, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên, sự chỉ đạo
của các cấp, các ban ngành, tạo điều kiện cho tôi được tiến hành tìm hiểu trong suốt
quá trình nghiên cứu.
- Trẻ đi học chuyên cần cao nên đảm bảo quá trình dạy và học của cơ và trị
khơng bị gián đoạn.
- Đa số trẻ có sức khỏe tốt, nhanh nhẹn tích cực tham gia các hoạt động lao
động của lớp và của trường.
- Bản thân tơi có trình độ chuẩn, có lịng u nghề mến trẻ, tâm huyết với nghề
có tình u thương đối với trẻ, nhiệt tình năng động ham học hỏi.
- Phụ huynh học sinh quan tâm, giúp đỡ và cùng phối hợp với giáo viên trong
cơng tác chăm sóc, ni dưỡng và giáo dục trẻ.
6
b) Nhược điểm:
- Một số rất ít trẻ chưa học qua độ tuổi nhà trẻ nên các kỹ năng tự phục vụ của
trẻ hầu như khơng có mà hồn tồn phụ thuộc vào bố mẹ và cô giáo.
- Do bố mẹ trẻ ln coi trẻ cịn rất nhỏ và non nớt nên quá nuông chiều mà
không để trẻ tự làm lấy một việc gì dù là nhỏ nhất. Một số trẻ trong lớp còn nhút
nhát, chưa mạnh dạn, tự tin khi tham gia vào các hoạt động giáo dục.
- Nhiều phụ huynh còn khá bận rộn, đi làm ăn xa ít có thời gian quan tâm trẻ,
cịn phó mặc cho ông bà đưa đón trẻ nên việc trao đổi thông tin cịn hạn chế dẫn tới
việc khơng cùng phối hợp với giáo viên trong cơng tác chăm sóc ni dưỡng giáo
dục trẻ.
Xuất phát từ nhưng khó khăn và thuận lợi trên nên tơi đã nghiên cứu và thấy
mình phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ để trẻ luôn chủ
động, linh hoạt, tự tin trong cuộc sống. Để thực hiện được điều đó tôi đã nghiên cứu
một số biện pháp sau:
Từ những vấn đề có liên quan đến đề tài tơi tiến hành khảo sát học sinh lớp tôi
đầu năm trên 30 học sinh (lớp 3 tuổi C - Trường mầm non xã Nghĩa Lâm):
Tổng số Trẻ có khả năng tự lập
30
10
Tỷ lệ
33%
Trẻ chưa có khả năng tự lập
20
Tỷ lệ
67%
Cha mẹ nào mà chẳng thương con cái của mình nhưng yêu thương sao cho
đúng cách mới là tốt cho trẻ. Ở lớp tôi một số phụ huynh ngày nào cũng bế con từ
cổng vào tận vào lớp và đặt con ngồi vào ghế trong khi đó những cháu ấy lại rất mập,
rất khỏe mạnh, bởi vì người ta cứ nghĩ là làm như thế là u thương con. Nếu có thể
sao khơng để trẻ tự đi hoặc để trẻ dắt tay bố mẹ vui vẻ đi vào lớp, mà như vậy đâu
phải là bố mẹ khơng thương con. Có những phụ huynh gửicon cho cô rồi mà cứ
quanh quẩn mãi không về được lại dặn dị cơ: Cơ đừng cho cháu ra ngồi kẻo cháu
ốm, cô để ý khỏi các bạn bắt nạt cháu, cô nhắc cháu đi vệ sinh,... tôi theo dõi, thấy tất
cả những trẻ được cưng chiều quá mức đều có tính ích kỉ chỉ biết đến bản thân, lười
biếng, ỷ lại vào cô giáo, bạn bè, vào người khác. Chính vì khơng nhận thức được tầm
quan trọng của việc giúp trẻ sớm tự lập, có phụ huynh đã dần cướp đi khả năng đó
của trẻ.
Tự lập là một đức tính tốt nhưng khơng phải tự nhiên mà có, để hình thành là
cả một quá trình rèn luyện, giáo dục và phải bắt đầu ngay từ khi cịn nhỏ vì đây là độ
7
tuổi trẻ rất hứng thú, thích khám phá những điều mới mẻ, muốn tự mình làm những
việc mình thích. Vì thế trước đây khi tiến hành rèn tính tự lập cho trẻ tơi thường hay
nóng vội, tơi đã dạy trẻ quá nhiều việc một lúc thấy, đồng thời khi hướng dẫn vì sợ
trẻ khơng hiểu tơi phải giải thích rất nhiều lần, từ đó trẻ tiếp nhận nhiều cái mới một
lúc khơng phù hợp với khả năng của mình. Sau một thời gian thực hiện tôi nhận ra
rằng cần chờ trẻ tiếp thu, thuần thục việc này rồi mới hướng dẫn trẻ làm việc khác.
Và khi hướng dẫn tôi đã làm mẫu rất chậm từ đầu đến cuối làm sao để các con nhìn
rõ và ln tạo cho trẻ sự thoải mái và hứng thú với việc trẻ làm. Sau khi hướng dẫn
trẻ, tôi đã cho trẻ thực hành luôn nên trẻ nhớ rất nhanh và rất thích thú.
Bên cạnh đó có những trẻ chưa tự làm được tơi đã trách mắng trẻ khiến trẻ trở
nên rụt rè và mất tự tin với khả năng của mình. Chính vì thế trong q trình nghiên
cứu đề tài, tơi đã thay đổi và thực hiện các biện pháp để giải quyết vấn đề như:
II.2. Mơ tả giải pháp sau khi có sáng kiến
a) Để trẻ tự làm những công việc nhỏ, vừa sức:
Trẻ mới đến trường chưa có thói quen tự cất và lấy đồ dùng cá nhân của mình
như: Tự cất (lấy) ba lô; tự cởi (đội) mũ; cởi (mặc) áo; đi (cất) giầy dép...Một phần là
do trẻ chưa được rèn luyện mặt khác là do phụ huynh quá nuông chiều con cái dẫn
đến trẻ luôn bị thụ động trong các hoạt động.
Chính vì thế muốn hình thành thói quen tốt cho trẻ trước tiên tôi đã lập ra
danh sách một số công việc tự phục vụ mà trẻ lớp tôi có khả năng làm được như: Tự
cất, lấy đồ dùng cá nhân, tự đi vệ sinh, tự dọn dẹp đồ chơi sau khi chơi xong, tự rửa
tay bằng xà phòng, lau bàn ăn, sắp xếp bàn ghế, lấy và cất gối đúng nơi quy định,
nhặt lá rụng, bỏ rác vào thùng...
Muốn trẻ đạt được việc tự lập hoàn toàn trong một kĩ năng nào đó trước tiên
cơ cần phải cho trẻ trải qua quá trình hướng dẫn, quá trình hướng dẫn bao gồm:
hướng dẫn bằng lời và hướng dẫn bằng cả hành động mẫu, vừa nói vừa làm cùng trẻ.
Lúc đầu tôi và trẻ cùng dọn dẹp, sau một thời gian trẻ chơi xong đã bắt đầu
hình thành thói quen cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định. Tôi động viên trẻ phải
hồn thành cơng việc được giao để trẻ cảm thấy là mình đã lớn. Ngồi ra tơi cũng
luôn theo dõi sát sao trẻ, dạy trẻ tự làm, nếu trẻ chưa thành thạo thì tơi sẽ hướng dẫn
trẻ làm lại không nên vội vàng làm thay, làm hộ hết cho trẻ dẫn đến trẻ có tính lười
biếng, dựa dẫm ỷ lại không muốn làm, tôi không áp đặt cho trẻ mà khéo léo rèn kĩ
năng tự phục vụ bảnthân ở mọi lúc mọi nơi, trong các thời điểm thích hợp, từ đó hình
thành cáchành động và thói quen tốt cho trẻ trong sinh hoạt hàng ngày. Đôi khi tơi
cũng có thể đưa ra một số cơng việc có mức độ khó khăn cao để thử thách trẻ.
8
Hình ảnh: Trẻ dọn đồ chơi giúp cơ
b) Rèn luyện, duy trì tính tự lập cho trẻ:
Phần lớn trẻ 3 tuổi đã có khả năng làm một số việc đơn giản, trẻ đã có ý thức
về điều đó và ln muốn chứng tỏ, thử thách năng lực của mình trong các hoạt động
sinh hoạt hằng ngày. Vì vậy tơi đã tạo ra các tình huống để thu hút trẻ làm nhiều hơn
như: Cất ba lô, dép, đồ dùng cá nhân vào ngăn tủ của mình, tự cởi mặc quần áo, đi và
cởi dày dép, tự xúc cơm ăn, lấy nước uống,biết cất dọng đồ dùng đồ chơi, giúp cô
phơi khăn lên giá...dần dần sẽ hình thành ở trẻ tính tự giác, tự quyết định, tự xoay sở
của mình và khi đó cơ cần tạo ra mơi trường gần gũi an tồn giúp con phát huy tính
tự lập của bản thân.
Bởi bất cứ đứa trẻ nào cũng có năng lực tự lập, chỉ cần người lớn khuyến
khích và cho cơ hội được thức hiện những điều trẻ có thể làm.Tạo mơi trương thuận
lợi, cơ hội tối đa cho trẻ chính là một trong những điều kiện giúp trẻ phát huy tính tự
lập của mình. Qua đó bản thân trẻ sẽ ý thức được những công việc, hoạt động mà
chúng làm khi khơng có người lớn bên cạnh.
Ví dụ: Trong giờ đón trẻ tôi đã để cho một số trẻ phơi khăn lên giá giúp cô
giáo:
9
H
ình ảnh: Trẻ đang phơi khăn lên giá
Ngược lại nếu cô không tạo ra được môi trường thuận lợi cho trẻ hoạt động thì
trẻ khó có thể thực hiện được công việc trẻ mong muốn sinh ra chán nản dần dần mất
khả năng tự lập.
c) Sử dụng lời động viên, khen, chê:
Trẻ nhỏ rất thích được người lớn khen ngợi động viên, đặc biệt là khi được cô
giáo động viên khen ngợi trẻ lại càng thích hơn vì được cơ giáo khen sẽ giúp trẻ
hứng thú tích cực, chủ động tự tin vào bản thân mình hơn, và mong muốn được thực
hiện các công việc tiếp theo. Việc khen ngợi cần được khen như hành động cơng
nhận trẻ đã hồn thành cơng việc gì đó cho dù trẻ hồn thành ở mức sơ sài nhất.
Chính vì vậy mà cơ cần đưa ra lời khen tích cực sau mỗi việc mà trẻ đã làm nhưng
10
không khen ngợi quá mức. Cụ thể tôi đã đưa ra những lời nhận xét tích cực như:
Cảm ơn con vì con đã sắp xếp đồ dùng đồ chơi gọn gàng giúp cô, con đã đi vệ sinh
đúng nơi quy định rồi đó, cơ rất vui khi con đã giúp cô lau sạch sẽ lá cây, sắp xếp
dép lên giá gọn gàng…
Ví dụ: Khi cháu Thư tự đi vào lớp cất đồ dùng cá nhân vào tủ của mình mà
khơng khóc nhè và khơng cần bố mẹ giúp đỡ, cháu có sự tiến bộ rõ rệt sau 1 tháng đi
học nên tôi đã khen ngợi động viên Thư bằng những câu nói tích cực: Hơm nay con
đi học rất ngoan, biết tự giác vào lớp và cất đồ dùng của mình! Cơ rất vui!
Ngồi những lời khen ngợi động viên trẻ, tơi sử dụng ngơn ngữ cơ thể của
mình kèm theo lời khen ngợi đó. Tơi nhìn trẻ bằng ánh mắt trìu mến, nhẹ nhàng xoa
đầu và âu yếm trẻ vào lịng. Tơi nhận thấy trẻ rất vui vẻ và có xu hướng điều chỉnh
hành vi tốt lên theo lời khen của cô giáo.
Trong những trường hợp cá biệt trẻ đã có thói quen ỉ lại vào người khác,
khơng có ý thức tự lập tôi thường giành nhiều thời gian hơn động khích lệ trẻ, giáo
dục nhẹ nhàng từ từ bằng các mẩu chuyện kể ngắn, các bài thơ, bài hát có tính giáo
dục hành vi tự lập cao. Qua đó có thể giúp trẻ nhìn nhận lại và tự điều chỉnh hành vi
của mình.
Ví dụ: Cháu Minh thời gian đầu mới đi học thường khơng có thói quen cất dồ
dùng đồ chơi sau khi chơi, tôi thường giao nhiệm vụ luôn cho bé rất cụ thể: Con hãy
đi cất đồ chơi bằng gỗ vào rổ cho cô. Và thường kể cho bé nghe câu chuyện tôi sưu
tầm để thông qua hình tượng nhân vật giáo dục trẻ.
Tơi cũng khơng quá kỳ vọng vào kết quả của trẻ, đòi hỏi trẻ phải có tính tự lập
ln trong một thời gian ngắn, tơi rất tơn trọng q trình thay đổi và cố gắng rèn
luyện tính tự lập của trẻ. Dù trẻ chỉ có hành động nhỏ nhưng tiến bộ tơi đều tuyên
dương khen ngợi trẻ trước cả lớp để trẻ có động lực cố gắng hơn.
Ví dụ: Hơm nay bạn Phát đã cất gọn đồ dùng đồ chơi gọn gàng, cả lớp hãy
thưởng cho bạn một tràng pháo tay khen ngợi bạn nào!
d) Rèn luyện tính tự lập cho trẻ trong các hoạt động theo chế độ sinh hoạt
hàng ngày đảm bảo tính bền vững, thường xun liên tục.
* Giờ đón, trả trẻ:
Khi đón trẻ từ tay phụ huynh tơi thường hay quan tâm trao đổi nhẹ nhàng và
cởi mở với phụ huynh về tình hình của trẻ trên lớp, trao đổi với phụ huynh tầm quan
trọng của việc giáo dục tính tự lập cho trẻ khi ở nhà: Rửa mặt, chải tóc, đánh răng, ăn
mặc gọn gàng sạch sẽ, tự lấy đồ dùng cá nhân trước khi đến trường.
Khi trẻ mới bắt đầu đến lớp tôi hướng dẫn trẻ gấp quần áo, mũ, khăn,... gọn
gàng bỏ vào ba lô rồi cất vào ngăn tủ cá nhân của mình để khi cần tìm sẽ dễ dàng và
nhanh chóng. Trước khi ra về trẻ tự kiểm tra lại đồ dùng của mình. Sau một số lần tôi
11
nhắc nhở và ngày nào trẻ cũng được thực hành lặp lại các thao tác đó nên trẻ cất và
lấy đồ dùng rất thành thạo và không cần đến sự giúp đỡ của cơ giáo nữa.
Hình ảnh: Trẻ cất ba lô vào tủ cá nhân.
* Trong giờ hoạt động học:
Hiện nay chúng ta đang thực hiện chương giáo dục mầm non với quan điểm:
“Lấy trẻ làm trung tâm” thì sự hợp tác giữa cô với trẻ, giữa trẻ với trẻ là vơ cùng
quan trọng. Nó giúp trẻ tăng mối quan hệ qua lại, ràng buộc từ đó trẻ có trách nhiệm
hơn trong công việc, biết chủ động và nâng cao tinh thần, nâng cao tính tự lập ở trẻ.
Trong nội dung kiến thức của bài học có liên quan tơi thường lồng ghép việc
giáo dục cho trẻ một số kỹ năng tự phục vụ để hướng dẫn trẻ như: Cách rửa tay bằng
xà phịng, cách chải tóc, cách cài cúc, cách gấp quần áo,... Khi hướng dẫn trẻ một kĩ
năng nào đó, tơi hướng dẫn một cách chậm rãi, từng thao tác một. Thấy trẻ đã nắm
được thao tác này thì tơi mới chuyển sang thao tác khác.
Những buổi học mà cần đến đồ dùng của trẻ, tôi thường chuẩn bị đồ dùng đặt
sẵn trên bàn và yêu cầu trẻ tự lên lấy đồ dùng học tập về vị trí ngồi của mình, kết
thúc giờ học cũng vậy trẻ tự thu gom đồ dùng, dụng cụ cất gọn gàng ngăn nắp đúng
12
nơi qui định. Mỗi khi được tự mình lấy, cất đồ dùng học tập như vậy tôi thấy trẻ rất
vui vẻ, tích cực, hứng thú giúp trẻ nâng cao tính tự lập, thấy được niềm vui khi tự
mình phục vụ bản thân mà khơng thấy bị ép buộc.
Hình ảnh: Trẻ tự lấy đồ dùng và thực hành trong giờ học
* Giờ hoạt động vui chơi ngoài trời:
Ở độ tuổi này trẻ rất thích làm mọi việc mà ln muốn thể hiện mình bằng
mọi cơng việc mặc dù khơng cần biết kết quả của nó ra làm sao. Miễn rằng chúng
làm xong là cảm thấy mãn nguyện lắm rồi. Nhưng chính người lớn chúng ta cần phải
uốn nắn sao cho những hành động, những việc làm của trẻ chở nên có ích và có ý
nghĩa. Chính vì thế tơi thường tổ chức cho trẻ tham gia một số hoạt động như: Gieo
hạt, trồng cây, nhặt lá rụng, nhổ cỏ, bắt sâu, tưới nước, nhặt rác bỏ vào thùng,...Tôi
chia trẻ thành các nhóm nhỏ (mỗi nhóm 3-5 trẻ) và hướng dẫn mỗi nhóm một cơng
việc khác nhau.
Thấy trẻ gặp khó khăn khi thực hiện những kỹ năng mới tôi tham gia cùng làm
với trẻ tơi kết hợp trị chuyện để trẻ hiểu vì sao cần chăm sóc cây, con vật, cho trẻ
13
hiểu ý nghĩa tác dụng của việc đang làm giúp trẻ thân thiện với mơi trường, có ý thức
bảo vệ môi trường, yêu mến cảnh vật thiên nhiên, yêu lao động,...Và khi trẻ tự mình
làm hồn thành tốt nhiệm vụ do cô giao và được khen, trẻ thấy tự tin vào bản thân,
trẻ trở nên năng động, tích cực tham gia các hoạt động của lớp.
Hình ảnh: Bé đang trồng cây
14
Hình ảnh: Trẻ lao động nhặt cỏ cho cây
Hình ảnh: Trẻ đang tưới cây
* Giờ hoạt động vui chơi trong góc:
15
Đây là hoạt động được trẻ u thích nhất vì ở đây trẻ được tự do sáng tạo,tự
do khám phá và trải nghiệm “ Học mà chơi,chơi mà học” nhằm giúp trẻ thỏa mãn
các nhu cầu vui chơi và nhận thức, đồng thời nhằm giáo dục và phát triển toàn diện
cho trẻ.
Hình ảnh: Trẻ vui chơi trong góc chơi của lớp
Trong quá trình chơi trẻ học hỏi được cách ứng sử giao tiếp, yêu thương các
bạn trong lớp, trẻ yêu thiên nhiên và thế giới đồ vật. Góp phần hình thành kỹ năng tự
lập, tự phục vụ cho trẻ ngay từ những ngày đầu tiên. Vì vậy trong hoạt động này tơi
gợi ý để trẻ tự chọn góc chơi, vai chơi, hướng dẫn trẻ cách sử dụng đồ chơi vàtạo
tình huống cho trẻ tự giải quyết vấn đề, để trẻ tự chơi, tự khám phá và tìm hiểu, tơi
chỉ giúp đỡ khi trẻ thực sự cần.
Đôi khi tôi cũng chơi cùng với trẻ giúp trẻ khám phá những điều mới lạ hấp
dẫn và khơng can thiệp q sâu vào trị chơi của trẻ, đồng thời khi tham gia trị chơi
thì trẻ sẽ chơi hết mình khơng gị bó và lúc này trẻ mới thực sự là trẻ. Trẻ thực hiện
vai chơi bằng hết khả năng của mình và trẻ có thể trải nghiệm được cuộc sống xung
quanh, điều này giúp trẻ tự tin hơn mạnh dạn hơn khi tiếp xúc với cuộc sống thực tế.
Thơng qua trị chơi trẻ được nhập vào vai chơi mà quên mất mình là trẻ con do
đó giúp trẻ tự tin, tự lập hơn trong cuộc sống. Khi hết giờ chơi trẻ tự cất đồ chơi gọn
gàng, ngăn nắp vào đúng nơi quy định, tôi động viên khuyến khích trẻ giờ sau chơi
tốt hơn.
16
Hình ảnh: Trẻ đang chơi trị chơi bán hàng
17
Hình ảnh: Trẻ đang chơi trị chơi đóng vai bác sĩ
* Hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân:
Đây là các hoạt động nhằm hình thành một số nề nếp, ý thức tự phục vụ của
trẻ. Nó là một hoạt động quan trọng cần phải hình thành cho trẻ ngay từ khi cịn nhỏ,
vì thói quen này giúp cho trẻ có ý thức chủ động, tự giác trong ăn uống, vệ sinh.
Đầu năm trẻ lớp tơi vẫn cịn bỡ ngỡ chưa biết nhiều về các kỹ năng tự phục vụ
bản thân, tơi cịn phải giúp đỡ trẻ rất nhiều như: vệ sinh cá nhân rửa mặt, rửa tay, đeo
yếm ăn, trộn cơm, xúc cơm ăn… Sau một thời gian được cô rèn luyện trẻ đã biết tự
vệ sinh cá nhân, tự đeo yếm ăn, tự trộn cơm, xúc cơm ăn, cịn biết giúp cơ chia ăn
đến cho các bạn… Tơi luôn tạo điều kiện để trẻ tự làm, tự trải nghiệm công việc khi
trẻ thực hiện tất cả các công việc đó tơi đều quan sát động viên và tơi chỉ giúp đỡ khi
nào thực sự cần thiết. Không những trẻ đã biết tự phục vụ cho mình mà trẻ lớp tơi
cịn biết giúp cơ làm một số cơng việc.
Ví dụ: Lớp tơi có trẻ thích gấp khăn tơi liền nhờ trẻ gấp khăn bỏ vào đĩa, có
khi loay hoay làm rơi hết đĩa xuống sàn tôi không tỏ ra khó chịu mà ngược lại tơi nhẹ
nhàng hướng dẫn, động viên trẻ, các trẻ khác thấy thế cũng xin cô được làm giờ trẻ
của tôi làm rất thành thạo và trẻ nào cũng muốn được giúp cô. Cứ như vậy hằng ngày
18
tôi đều hỏi trẻ ai muốn giúp cô gấp khăn, chia thìa, hay chia cơm vào bàn cho các
bạn nào? Rất nhiều trẻ xung phong muốn làm giúp cô. Để trẻ nào cũng được làm mỗi
ngày tơi nhờ một nhóm trẻ khác nhau giúp mình. Sau khi ăn xong trẻ nào cũng đã
biết xếp bát thìa của mình vào rổ, nhặt thức ăn rơi vãi vào đĩa, cất ghế vào đúng nơi
quy định, rồi tự đi lau miệng, uống nước, đi vệ sinh.
Hình ảnh: Trẻ đang gấp khăn lau tay để chia cho các bàn ăn
Đến giờ đi ngủ cô kê phản ngủ, một số trẻ đã biết giúp cô trải chiếu lên phản
sau đó trẻ đi lấy gối của mình và vào chỗ ngủ. Khi ngủ dậy trẻ cất gối vào nơi quy
định và trẻ cịn biết giúp cơ gấp, chăn chiếu.
19
Hình ảnh: Trẻ đang trải chiếu
Để giúp trẻ thực hiện các thói quen tự phục vụ một cách phấn khởi và nhớ lâu
tôi đã kết hợp sử dụng những bài thơ, bài hát giáo dục vệ sinh để trẻ đọc hàng ngày,
giúp trẻ ăn vào tiềm thức và nhớ lâu các nội dung giáo dục trẻ. Mỗi lần đến giờ vệ
sinh rửa tay, rửa mặt trẻ thường đọc bài thơ và thực hiện hành động như một thói
quen.
Ví dụ: Một số bài thơ giáo dục vệ sinh như:
Miếng xà phòng nho nhỏ
Em lau khô bàn tay
Em xát lên bàn tay
Đôi bàn tay be bé
Nước máy đây trong vắt
Nay rửa sạch xinh xinh
Em rửa đơi bàn tay
Tất cả lớp chúng mình
Khăn mặt đây thơm phức
Cùng giơ tay vỗ vỗ.
(Bài thơ: Rửa tay - Phạm Mai Chi)
20
Hình ảnh: Bé đang rửa tay
Một tay chẳng làm được
Cơ cất giọng nhỏ nhẹ
Bé phải lau hai tay
Làm thế nào nữa đây?
Bắt đầu từ mắt này
Bé gấp đôi khăn ngay
Lau từ trong ra nhé
Lau hai bên má đỏ
Nhích khăn lên các bé
Gấp đôi một lần nữa
Lau sống mũi xuống đi
Lau cái cổ, cái cằm
Sau đó đến cái gì?
Mắt bé nhìn chăm chăm
Cái miệng xinh của bé
Kìa cơ khen bé giỏi.
( Bài thơ: Bé tập rửa mặt – Sưu tầm)
21
Hình ảnh: Trẻ đang rửa mặt
* Hoạt động chiều:
Hoạt động chiều tôi thường ôn luyện các kỹ năng tự phục vụ như tập cho trẻ
rửa tay, rửa mặt mặc quần áo, gấp quần áo gọn gàng, đúng cách. Tôi đãhướng dẫn
cho trẻ thực hành kỹ năng tự phục vụ một cách cụ thể nhất. Những kĩ năng này
không chỉ giúp trẻ có khả năng thích nghi tốt mà cịn giúp trẻ rèn luyện tính tự giác,
tự lập. Từ đó trẻ được thể hiện cá tính mạnh mẽ nhất của mình. Các bé sẽ cảm thấy
tò mò với mọi thứ và sẽ rất cố gắng để học hỏi những điều mới mẻ. Vì vậy đây là
thời điểm thích hợp nhất để cô rèn luyện kĩ năng cần thiết cho trẻ.
Bên cạnh đó tơi thường để trẻ chơi và hoạt động tự do theo ý thích, trẻ thường
tự lấy đồ chơi, tự chọn đồ chơi để chơi cùng nhóm bạn mà trẻ yêu thích. Trẻ được tự
do thể hiện tính cách, sở thích, và sáng tạo của bản thân khi tham gia các trị chơi do
tự trẻ được lựa chọn. Tính tự lập từ đó được hình thành một cách rất tự nhiên.
22
Hình ảnh: Trẻ hoạt động trong trị chơi tìm cơn trùng cùng nhóm bạn.
Hình ảnh: Trẻ tập làm thí nghiệm với dầu ăn và nước
e) Trao đổi, phối kết hợp với phụ huynh cùng giáo dục tính tự lập cho trẻ
Trẻ cần phải tự lập ở mọi lúc mọi nơi, ở nhà cũng như ở trường. Với phương
châm “Trường học là nhà, nhà là trường học”thì việc phối kết hợp với phụ huynh là
23
điều vơ cùng quan trọng để giáo dục trẻ, vì phụ huynh là trợ thủ đắc lực trong việc
chăm sóc và giáo dục trẻ.
Thời gian trẻ đến trường còn nhiều hơn so với thời gian trẻ ở nhà. Những bài
học trẻ được học đúng yêu cầu phát triển ở từng độ tuổi. Tuy nhiên để cơng tác chăm
sóc giáo dục trẻ ở trường đạt kết quả tốt nhất, tránh trường hợp cơ giáo ở lớp thì giáo
dục trẻ tính tự lập, cịn về nhà cha mẹ lại ln làm giúp trẻ mọi việc.
Chính vì khơng muốn tình trạng đó khơng xảy ra nên tôi thường xuyên trao
đổi, tư vấn với phụ huynh để cho phụ huynh hiểulà làm thế nào là cho trẻ tự lập, tự
làm những việc trong khả năng của trẻ.Bố mẹ chỉ là người làm mẫu và hướng dẫn và
sau đó để trẻ tự làm rồi người lớn động viên khen ngợi trẻ để trẻ có tự tin và có động
lực làm tốt.
Tuyên truyền với phụ huynh về sự phát triển tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ, nội
quy, nề nếp lớp học trao đổi thực tế khả năng của từng cháu cho phụ huynh thấy khả
năng của con mình và từ đó tìm ra giải pháp tốt nhất để hình thành cho trẻ một thói
quen và nề nếp tốt.
Tôi thường hay trao đổi thông tin của trẻ trong những giờ đón trả trẻ, trong các
buổi họp phụ huynh, và đăng bài trên trang web của trường, trên nhóm Zalo của lớp
về mọi vấn đề như: Ở lớp cháu làm giúp cô được rất nhiều việc như: Gấp khăn ăn,
chai cơm cho bạn, trải chiếu lên sạp,…Ở nhà cháu có hay giúp đỡ ơng bà bố mẹ
những cơng việc nhỏ khơng? Cháu thường thích làm những việc gì giúp bố mẹ? Bố
mẹ có để cho con tự phục vụ bản thân với những công việc vừa sức của trẻ khơng?...
Ví dụ: Đi giày, dép, đội mũ, mặc quần áo, tự xúc cơm ăn…
Qua đó cha mẹ ý thức được khả năng của con mình ở trên lớp từ đó có biện
pháp kết hợp giáo dục tốt giữa gia đình và nhà trường. Gia đình phải tạo cơ hội cho
trẻ thấy được những việc làm tốt của trẻ và giải thích cho trẻ hiểu và động viên trẻ để
lần sau trẻ làm tốt hơn.
Cô trao đổi với phụ huynh trong thời gian của trẻ ở nhà, phụ huynh ln phải
động viên khuyến khích trẻ tự phục vụ khơng nên làm hộ trẻ để trẻ ỉ lại. Phụ huynh
khuyến khích trẻ để trẻ biết giúp bố mẹ những cơng việc nhà vừa sức với trẻ như
nhặt rau, quét nhà, gấp quần áo,…Cô thường xuyên trao đổi với phụ huynh để nắm
bắt được tình hình của trẻ để động viên khuyến khích trẻ kịp thời.
VD: Trong giờ nêu gương cơ nêu tên những bạn chăm ngoan về nhà biết giúp
đỡ bố mẹ để các bạn khác noi theo.
Sau khi thường xuyên trao đổi tư vấn với phụ huynh về một số biện pháp giáo
dục tính tự lập cho trẻ một số phụ huynh đã chia sẻ qua Zalo với cô giáo về hình ảnh
mà con mình đã làm giúp bố mẹ một số công việc khi ở nhà với tâm thế hào hứng,
vui vẻ và phấn khởi.
24
Hình ảnh: Bé giúp bố mẹ việc nhà
Ở góc tun truyền tơi dán một số hình ảnh của chính các con của lớp như: Bé
tự thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong, tự xách đồ, tự xúc ăn, tự gấp quần áo, tự rửa
mặt, tự rửa tay bằng xà phịng.
Hình ảnh: Tun truyền tới các bậc cha mẹ.
25
Với lịng quyết tâm, nhiệt huyết của tơi, giáo viên cùng lớp và sự phối hợp
nhịp nhàng từ phía phụ huynh, tôi đã thấy sự thay đổi rõ rệt của trẻ lớp tơi. Đó là sự
mạnh dạn, tự tin, tính tự lập trong cơng việc đã hình thành trong đại đa số trẻ lớp tôi.
III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI:
III.1. Hiệu quả kinh tế.
Sau một năm học áp dụng sáng kiến: “Một số biện pháp giáo dục tính tự lập
cho trẻ 3-4 tuổi”. Cha mẹ cảm thấy hài lịng với những gì mà trẻ đã làm được, tin
tưởng vào kết quả giáo dục của nhà trường và giáo viên từ đó các bậc phụ huynh
thơng cảm, chia sẻ những khó khăn của cơ giáo và đã cung cấp nguyên vật liệu, phụ
giúp giáo viên trang trí lớp, làm đồ dùng đồ chơi, ủng hộ cây hoa, cây cảnh, chai lọ,
lon bia, bìa cát tơg ...và nhiều ngun vật liệu phế thải khác. Nhờ sự đóng góp tranh
ảnh, sách báo, nguyên liệu làm đồ dùng đồ chơi của phụ huynh học sinh ước tính số
tiền làm lợi khoảng 1,3 triệu đồng.
III.2. Hiệu quả về mặt xã hội.
a)
Giá trị làm lợi cho môi trường:
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng
thuận hợp tác của trẻ, sự ủng hộ tích cực của nhà trường, các bậc cha mẹ đã giúp tôi
đạt được một số kết quả trong thể hiện ở các kết quả sau:
Tổng số Trẻ có khả năng tự lập
30
30
Tỷ lệ
100%
Trẻ chưa có khả năng tự lập
0
Tỷ lệ
0%
Qua các biện pháp khác nhau trẻ được thực hành, trải nghiệm, được tự thỏa
mãn nhu cầu tự lập, tôi thấy học sinh lớp tôi ngày càng hứng thú tham gia các hoạt
động của lớp và đặc biệt trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong mọi hoạt động, các kỹ năng
tự phụ vụ, kỹ năng giữ gìn vệ sinh, bảo vệ mơi trường, kỹ năng giúp đỡ mọi người
trở nên tốt hơn, không cần cô giáo phải nhắc nhở mà trẻ thực hiện một cách tự
nguyện và thích thú. Phần lớn trẻ đã thực hiện được các hoạt động: Lấy cất đồ dùng
đúng nơi qui định, tự rửa tay, rửa mặt trước khi ăn, biết tự xả nước sau khi đi vệ sinh
và biết rửa tay bằng xà phòng, chuẩn bị bàn ăn, giường ngủ cùng cô, nhặt rác bỏ vào
thùng rác, sắp xếp đồ dùng, đồ chơi sau khi chơi, chuẩn bị đồ dùng cá nhân trước khi
ra về,...
Quan sát trẻ lớp mình, tơi thấy khơng cịn hình ảnh bố mẹ bế trẻ vào lớp hay
hình ảnh bố mẹ xách túi cho con, mà trẻ tự đeo cặp, tự để cặp, dép, đồ dùng ngay
ngắn vào trong tủ cá nhân của mình, biết tự chào cơ,…Từ đó những thói quen tốt của
trẻ được hình thành và sẽ phát triển bền vững. Trẻ năng động, sáng tạo, tự tìm hiểu,
khám phá và giải quyết cơng việc một cách hứng thú.
Qua việc hướng dẫn cho trẻ về tính tự lập trong việc giữ gìn vệ sinh cá nhân