Tải bản đầy đủ (.pdf) (257 trang)

Luận án nghệ thuật trưng bày bảo tàng ở việt nam (nghiên cứu bảo tàng lịch sử quốc gia, bảo tàng lịch sử quân sự việt nam, bảo tàng dân tộc học việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.26 MB, 257 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
1.1. Trên thế giới hiện nay quốc gia nào cũng đều có bảo tàng với các
hình thức và quy mơ xây dựng khác nhau do nhu cầu của xã hội của từng
quốc gia. Bảo tàng được ra đời xuất phát từ nhu cầu của cuộc sống và phục vụ
rất đắc lực cho cuộc sống của con người. Bảo tàng là một thiết chế văn hóa
được quan tâm chú trọng phát triển nhằm quảng bá lịch sử và văn hóa, là
niềm tự hào của mỗi một quốc gia trên thế giới. Hệ thống bảo tàng ở Việt
Nam hình thành từ sớm, phong phú và có số lượng bảo tàng khá nhiều so với
các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch đăng trên cổng thông tin điện tử ngày 08 tháng 02 năm 2019,
Việt Nam có 162 bảo tàng, trong đó có 126 bảo tàng cơng lập và 36 bảo tàng
ngồi cơng lập. Mặc dù có nhiều bảo tàng, nhưng có ít bảo tàng có NTTB
hiện đại, vẫn thiếu sự hấp dẫn, thu hút với khách tham quan. Do đó việc nâng
cấp các bảo tàng, phát triển đổi mới trong trưng bày bào tàng ở nước ta hiện
nay cả về lượng và chất là một nhu cầu cần thiết.
1.2. Vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trong những năm gần
đây được các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu khoa học đặc biệt quan tâm và
chú trọng hơn. Di sản văn hóa là cội rễ của bản sắc văn hóa, là tài sản vơ giá
của mỗi dân tộc mỗi quốc gia chính vì vậy việc bảo tồn, phát huy và phát triển
văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, nhất là trong giai
đoạn hiện nay khi văn hóa được xem là nguồn lực nội sinh quan trọng trong
quá trình phát triển bền vững đất nước. Nói về vấn đề này Giáo sư Trương
Quốc Bình thành viên Hội đồng Di sản Văn hóa quốc gia đã nhận định “Việc
bảo tồn các di sản văn hóa là một trong những hoạt động gắn liền với việc bảo
vệ và phát huy bản sắc dân tộc - tạo dựng sự phát triển của tương lai của mỗi
dân tộc từ những mối liên kết đặc thù của quá khứ và hiện tại” [27, tr.33].



2

Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa là một nhiệm vụ quan trọng của
bảo tàng. Bên cạnh đó nhiệm vụ của người làm bảo tàng bảo tàng là đưa nhận
thức về bảo tồn và phát huy di sản đến công chúng trong xã hội một cách hiệu
quả nhất, vậy muốn truyền tải được bản sắc văn hóa và các nội dung của bảo
tàng đó đến với công chúng trong nước và thế giới, hoạt động sáng tác NTTB sẽ
là phương tiền truyền tải, là cầu nối giữa hiện vật nội dung của bảo tàng tới đông
đảo quần chúng, hay nói theo cách khác NTTB là ngơn ngữ đặc trưng của bảo
tàng, tác giả Đặng Văn Bài, nguyên Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa cho rằng
“trưng bày là ngôn ngữ đặc trưng của bảo tàng” [3].
1.3. Thông qua hiện vật trưng bày, là những vật chứng, chứng tích cịn
lưu lại và đang được giữ gìn tại các bảo tàng, đây là cơ sở để công chúng hiểu
sâu sắc hơn về lịch sử và cội nguồn, từ đó giúp cơng chúng có ý thức nhiều
hơn việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc. Trên thế giới,
mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có lịch sử phát triển của riêng mình, Việt Nam
một đất nước gắn liền với lịch sử chống giặc ngoại xâm, từ thời vua Hùng
dựng nước giữ nước, trải qua rất nhiều biến cố với hơn một nghìn năm Bắc
thuộc, chiến đấu với quân đội phương Bắc, rồi các cuộc kháng chiến trường kì
trong thế kỷ XX… Bên cạnh đó văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất
trong đa dạng với những sáng tạo độc đáo của 54 dân tộc. Tất cả những giá trị
văn hóa đó được tái hiện thông qua các hiện vật trưng bày, từ các chủ đề về lịch
sử hình thành phát triển, về lịch sử chiến tranh, về các nền văn hóa độc đáo của
các dân tộc trên đất nước Việt Nam đã được giới thiệu và trưng bày cụ thể
trong ba bảo tàng lớn là BTLSQG, BTLSQSVN, BTDTHVN thông qua
NTTB được truyền tải đến công chúng một cách rất sinh động, đây là ba bảo
tàng mang tính quốc gia thuộc loại hình bảo tàng lịch sử xã hội, mỗi một bảo
tàng có đặc điểm và nội dung riêng nhưng đều là những bảo tàng hàng đầu có hệ
thống trưng bày đặc trưng và rất tiêu biểu cho ba lĩnh vực là lịch sử hình thành



3

phát triển của đất nước, lịch sử quân sự Việt Nam và sự đa dạng của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
1.4. Trong bảo tàng, hoạt động NTTB là một trong những hoạt động rất
quan trọng nhằm tạo ra sức hấp dẫn đối với công chúng, NTTB bảo tàng cũng
như các loại hình nghệ thuật khác, địi hỏi người họa sỹ thiết kế phải có sự
sáng tạo, biết áp dụng phương pháp và giải pháp nghệ thuật, tổ chức không
gian trưng bày một cách hợp lý và khoa học cho từng loại hình bảo tàng nhằm
chuyển tải được ý tưởng nghệ thuật cũng như nội dung trưng bày của bảo
tàng. Trong những năm gần đây, vấn đề NTTB bảo tàng mới được đề cập đến
nhiều, tuy nhiên chưa có cơng trình nào có những đánh giá, tổng kết từ đó đưa
ra được những giải pháp có tính lý luận, với loại hình nghệ thuật này. Do đó
cần hình thành một cơng trình khoa học đầy đủ, cụ thể và khách quan về các
biểu hiện, đặc trưng về NTTB, để góp phần vào việc hoàn thiện các hoạt động
của bảo tàng Việt Nam hiện nay.
1.5. Với cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngành bảo
tàng Việt Nam cũng cần có một sức sống mới, một mơ hình trưng bày mới,
vấn đề này cũng đưa ra nhiều thách thức với hệ thống bảo tàng Việt Nam.
Nếu không cập nhật những cái mới, những công nghệ mới của các nước tiên
tiến trên thế giới thì bảo tàng tại Việt Nam sẽ tụt hậu, không đáp ứng đưoc sự
phát triển chung của xã hội, nhu cầu hưởng thụ văn hóa với trình độ dân trí
cao của số đơng cơng chúng tham quan. Chính vì vậy việc nắm bắt, nghiên
cứu sáng tác NTTB bảo tàng tại Việt Nam là vấn đề có tính cấp thiết và có ý
nghĩa thực tiễn to lớn. Do đặc thù công việc liên quan đến thiết kế và thi cơng
các cơng trình văn hóa, NCS là một họa sỹ thiết kế nội thất đã trực tiếp thiết
kế trưng bày một số bảo tàng trong nước, bản thân ln học hỏi tìm hiểu
những phong cách trưng bày mới, những xu hướng trưng bày mới, NCS nhận
thấy tầm quan trọng của hoạt động sáng tác NTTB và sự cần thiết nghiên cứu

xu hướng thiết kế mới của thế giới ứng dụng vào NTTB bảo tàng ở nước ta


4

hiện nay, để có một trưng bày sinh động và hấp dẫn. Tuy nhiên hiện nay các
tài liệu và công trình nghiên cứu chuyên sâu cho NTTB bảo tàng chưa có hệ
thống nghiên cứu một cách tồn diện về vấn đề này, cơng tác lý luận và phê
bình mỹ thuật lĩnh vực NTTB bảo tàng ở Việt Nam nhìn chung chưa được đề
cập đến nhiều. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra là cần phải hướng tới những tiếp cận
mang tính khoa học, áp dụng những thành tựu mới của các nước trên thế giới
để nâng cao chất lượng thẩm mỹ cho NTTB tại các bảo tàng ở Việt Nam.
Theo những vấn đề được đặt ra như đã nêu ở trên, nhằm hệ thống một
cách cụ thể và rõ ràng, mang tính khoa học qua góc nhìn của nghệ thuật và mỹ
thuật tạo hình khơng gian trong NTTB bảo tàng, NCS đã lựa chọn đề tài Nghệ
thuật trưng bày bảo tàng ở Việt Nam (Nghiên cứu: Bảo tàng Lịch sử Quốc
gia, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam), để
làm luận án Tiến sĩ ngành Lý luận và lịch sử mỹ thuật trên cơ sở kế thừa
những thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước, từ những bài học kinh
nghiệm thực tế về trưng bày bảo tàng để làm rõ hình thức biểu hiện và vai trò
của NTTB trong bảo tàng ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu hình thức biểu hiện của NTTB bảo tàng ở Việt Nam. Từ đó
làm rõ giá trị thẩm mỹ NTTB của BTLSQG, BTLSQSVN, BTDTHVN và xu
hướng phát triển thẩm mỹ của NTTB bảo tàng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các khái niệm và thuật ngữ liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Vận dụng cơ sở lý thuyết để nhận diện hình thức biểu hiện của NTTB
bảo tàng ở Việt Nam, làm rõ hình thức biểu hiện NTTB ở BTLSQG,

BTLSQSVN, BTDTHVN thông qua các yếu tố cấu thành: cấu trúc mặt bằng,
tạo hình nghệ thuật, ánh sáng, hiện vật trưng bày và kỹ thuật công nghệ.


5

- Nhận định chung của NTTB bảo tàng ở Việt Nam. Từ đó làm rõ sự
cần thiết phải đổi mới NTTB bảo tàng.
- Nhận định vai trị và vị trí của NTTB trong bảo tàng.
- Dự đoán xu hướng phát triển của NTTB bảo tàng ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là NTTB ở BTLSQG, BTLSQSVN,
BTDTHVN.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: Nghiên cứu NTTB ở các không gian bảo tàng:
BTLSQG, BTLSQSVN, BTDTHVN. Đây là ba bào tàng mang tính quốc gia,
có lịch sử lâu đời và không gian trưng bày độc đáo riêng biệt ở Việt Nam.
Ngồi ra luận cịn mở rộng đề cập so sánh NTTB ở một số bảo tàng trên thế
giời và Việt Nam để thấy được sự tương đồng và khác biệt trong NTTB.
Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu các đối tượng trên từ năm 2011 đến
năm 2020. Ngày 26/09/2011 BTLSQG được thành lập theo Quyết định số
1674/QĐ-TTg ngày của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam trên cơ sở sát nhập
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. NCS nhận
thấy sự ra đời của BTLSQG có sự ảnh hưởng lớn đến NTTB, là giai đoạn có
nhiều biến chuyển trong NTTB bảo tàng ở Việt Nam. Năm 2020, cùng với
Quyết định số 156/2005/QĐ-TTg ngày 23/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng Việt Nam đến năm 2020, đây
là một văn bản pháp lý quan trọng có tính định hướng cho sự phát triển của
ngành bảo tàng Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu và phương pháp tiếp cận
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu thứ cấp: Phân tích, tổng hợp
các tài liệu thứ cấp là các cơng trình khoa học liên quan đến nội dung đề tài


6

luận án, các hình ảnh thực tế và bản vẽ thiết kế, trưng bày, tổ chức không gian
nội thất bảo tàng bao gồm: đề cương nội dung trưng bày, mặt bằng, mặt đứng,
phối cảnh, ảnh chụp thực tế. Phương pháp này giúp NCS tiếp cận đối tượng
nghiên cứu trong sự vận động và phát triển. Bên cạnh đó nhận diện các hình
thức biểu hiện nghệ thuật, chỉ ra hạn chế và rút ra các bài học kinh nghiệm.
Phương pháp điền dã: Qua điền dã thực địa tại các bảo tàng lớn hệ
thống trưng bày đặc trưng trên cả nước, đặc biệt là ba bảo tàng tiêu biểu của
bảo tàng lịch sử và xã hội: BTLSQG, BTLSQSVN, BTDTHVN. Phương pháp
này giúp NCS thu thập xác minh các dữ liệu thực tế, quay phim, chụp hình tại
các bảo tàng này, phân tích và nhận định hình thức biểu hiện của NTTB.
Phương pháp thống kê, phân loại: Áp dụng phương pháp thống kê,
phân loại trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án để xác định các không gian
trưng bày bảo tàng tiêu biểu từ năm 2011 đến năm 2020, cụ thể là ba bảo tàng
BTLSQG, BTLSQSVN, BTDTHVN để đánh giá về giá trị NTTB.
Phương pháp so sánh: So sánh giữa các hình thức biểu hiện khác nhau
của NTTB tại các bảo tàng khác nhau ở Việt Nam và trên thế giới, sự khác
nhau về ngơn ngữ thiết kế, tạo hình nghệ thuật, ứng dụng vật liệu, ánh sáng,
về cơng nghệ, từ đó có cơ sở khoa học để đưa ra các nhận định về NTTB.
4.2. Phương pháp tiếp cận
Phương pháp tiếp cận liên ngành: Luận án vận dụng phương pháp tiếp
cận liên ngành để có góc nhìn bao qt với đối tượng nghiên cứu. Trên cơ sở
sử dụng kết quả nghiên cứu của lĩnh vực nghệ thuật học, lịch sử và văn hóa

học. Sử dụng phương pháp phân tích mỹ thuật học xác định và nhận định về
đặc trưng, về các biểu hiện nghệ thuật thị giác trong tạo hình của NTTB bảo
tàng thông qua các nguyên lý mỹ thuật học, nguyên lý design. Nghiên cứu
luận án tiếp cận lịch sử để NCS có cái nhìn tổng quan về NTTB bảo tàng
thơng qua ba bảo tàng tiêu biểu là BTLSQG, BTLSQSVN, BTDTHVN ở Việt


7

Nam, qua đó nắm rõ quy luật hình thành của đối tượng nghiên cứu và đưa ra
những dự đoán xu hướng phát triển NTTB bảo tàng ở Việt Nam.
5. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: NTTB bảo tàng ở Việt Nam có những vấn đề gì? Nó được
biểu hiện thơng qua phương tiện biểu hiện nghệ thuật nào?
Câu hỏi 2: Hình thức biểu hiện NTTB ở BTLSQG, BTLSQSVN,
BTDTHVN trong giai đoạn hiện nay được biểu hiện như thế nào?
Câu hỏi 3: Hiệu quả và vai trò của NTTB trong bảo tàng ở Việt Nam?
Xu hướng phát triển thẩm mỹ của NTTB bảo tàng trong xu thế hội nhập và
phát triển của đất nước hiện nay?
6. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết thứ nhất: NTTB bảo tàng ở Việt Nam là một loại hình nghệ
thuật thuộc lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng. NTTB bảo tàng ở Việt Nam được biểu
hiện trong nội dung ý tưởng và hình thức thể hiện, thơng qua các yếu tố thị giác
tác động đến thị giác, đến cảm xúc của người xem. Với giả thuyết này, mục tiêu
của NCS nhằm xác định và nhận diện các yếu tố cấu thành nghệ thuật NTTB
tại các bảo tàng và làm rõ các vấn đề liên quan đến trưng bày bảo tàng với
tính khoa học và đặc thù rất riêng biệt. Một khơng gian trưng bày đẹp, có bố
cục khoa học và hợp lý, với sự kết hợp của nhiều loại hình nghệ thuật khác hỗ
trợ, nó tác động và tạo nên một sự cuốn hút, lôi cuốn, ấn tượng và gây nên một
cảm xúc mạnh mẽ cho người xem.

Giả thuyết thứ hai: NTTB ở BTLSQG, BTLSQSVN, BTDTHVN được
biểu hiện rất khác nhau trong các không gian trưng bày của mỗi bảo tàng. Mỗi
một bảo tàng đều có một giá trị thẩm mỹ riêng do quy mơ trưng bày, loại
hình, tính chất và nội dung của các bảo tàng khác nhau. Với giả thuyết này,
mục tiêu của NCS là tìm hiểu bản chất thẩm mỹ của đối tượng nghiên cứu.
Nhận định và phân tích những nét riêng, những ưu điểm và hạn chế của hình


8

thức biểu hiện NTTB thơng qua BTLSQG, BTLSQSVN, BTDTHVN. Nó tác
động một cách trực tiếp đến cơ quan thụ cảm thẩm mỹ cho người tham quan.
Giả thuyết thứ ba: NTTB bảo tàng ở Việt Nam có những giá trị thẩm mỹ
riêng có dấu ấn bản sắc riêng. Bên cạnh đó bảo tàng Việt Nam cùng với sự tác
động mạnh mẽ của nền khoa học và công nghệ phát triển của các nước trên thế
giới vì vậy xuất hiện nhiều hạn chế và bất cập trong NTTB bảo tàng. Với giả
thuyết này, mục tiêu của NCS là nhìn nhận được những giá trị thẩm mỹ, ưu và
nhược điểm của NTTB bảo tàng ở Việt Nam trong quá trình phát triển của đất
nước, để thấy rõ thực trạng của NTTB bảo tàng ở Việt Nam từ đó đề cập đến
vấn đề đổi mới hoạt động NTTB bảo tàng. Qua đó thấy được vai trị quan
trọng của NTTB với sự hồn thiện của một bảo tàng. Với sự phát triển của
khoa học và công nghệ như hiện nay đã mang đến những xu hướng phát triển
thẩm mỹ mới cho hình thức nghệ thuật này qua đó xác định được vai trị của
cơng nghệ hiện đại với NTTB bảo tàng. Và cuối cùng ngoài việc ứng dụng
những xu hướng trưng bày mời hiện đại, NCS mong muốn xây dựng NTTB
bảo tàng ở Việt Nam với tiêu chí “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án là một cơng trình nghiên cứu khoa học về NTTB bảo tàng,
thông qua nghiên cứu tiếp thu từ hệ thống trưng bày của các bảo tàng trên thế

giới, kết quả đã góp phần vào xây dựng cơ sở lý luận cho trưng bày bảo tàng
nhằm nâng cao chất lượng thẩm mỹ cho NTTB của các bảo tàng Việt Nam.
Luận án từ kết quả nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng NTTB
ở BTLSQG, BTLSQSVN, BTDTHVN một cách khách quan, đưa ra một số
nhận định về NTTB bảo tàng nhằm góp phần vào việc kiện tồn và q trình
đổi mới hệ thống NTTB bảo tàng ở Việt Nam hiện nay.
Luận án góp phần nâng cao nhận thức về vai trị và vị trí của NTTB
trong việc tổ chức thành cơng một cơng trình bảo tàng, nghiên cứu đã khẳng


9

định NTTB bảo tàng là một ngành hoạt động văn hóa và khoa học kỹ thuật, là
một bộ phận có vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành bảo tàng và
của chuyên ngành mỹ thuật ứng dụng hiện đại.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án là cơng trình nghiên cứu đầu tiên về NTTB bảo tàng, góp phần
giải quyết các vấn đề tồn tại trong hoạt NTTB bảo tàng ở Việt Nam. Kết quả
nghiên cứu này có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo và ứng dụng vào thực
tiễn về NTTB bảo tàng cho các công ty thiết kế về mỹ thuật, các họa sỹ thiết
kế trưng bày, các cán bộ chuyên môn phụ trách trưng bày bảo tàng. Kết quả
nghiên cứu cịn có ý nghĩa định hướng nhằm đưa hoạt động NTTB bảo tàng ở
Việt Nam ngày càng có sự ảnh hưởng cao trong khu vực và trên thế giới.
Luận án góp phần bổ sung cho cơ sở khoa học, tài liệu tham khảo trong
đào tạo chuyên ngành thiết kế nội ngoại thất phục vụ cho công việc giảng dạy
thiết kế nội ngoại thất nói riêng và thiết kế đồ án trưng bày bảo tàng nói
chung ở một số trường đại học đào tạo về lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng.
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu (9 trang), Kết luận (5 trang), Tài liệu tham khảo
(11 trang) và Phụ lục (78 trang), nội dung của luận án được kết cấu thành 3

chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát
về đối tượng nghiên cứu (56 trang).
Chương 2: Hình thức biểu hiện của nghệ thuật trưng bày bảo tàng ở Bảo
tàng Lịch sử Quốc gia, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam (48 trang).
Chương 3: Những bàn luận và xu hướng nghệ thuật trưng bày bảo tàng
ở Việt Nam (50 trang).


10

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
KHÁI QUÁT VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Với mục đích và những nhiệm vụ cụ thể của luận án, NCS rất có ý thức
rằng ngoài việc xác định rõ đối tượng nghiên cứu, hệ thống lý thuyết áp dụng,
phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu thì việc hệ thống các tài liệu
nghiên cứu có liên quan đến nghệ thuật NTTB bảo tàng, các khía cạnh của mỹ
thuật ứng dụng, đây là một bước đi quan trọng trong việc nghiên cứu đối với
luận án của mình. Qua quá trình tìm hiểu tham khảo và tập hợp tư liệu của các
cơng trình đã cơng bố, NCS đã khai thác và kế thừa những thành tựu đạt được
của các cơng trình đó có liên quan đến đề tài luận án. Sau khi phân tích và có
những khoảng trống trong nghiên cứu đó, NCS đã áp dụng những phương
pháp biện luận và đưa ra những cách tiếp cận phù hợp nhất, mang lại hiệu quả
cao trong quá trình nghiên cứu luận án. Trên cơ sở hệ thống các tài liệu liên
quan, NCS đã phân chia những công trình nghiên cứu đã cơng bố có liên quan
đến luận án của NCS thành ba nhóm như sau: thứ nhất là nhóm Những cơng
trình liên quan đến mỹ học và hình thái học nghệ thuật; thứ hai là nhóm

Những cơng trình liên quan đến mỹ thuật học và mỹ thuật ứng dụng; thứ ba là
nhóm Những cơng trình liên quan đến NTTB bảo tàng.
1.1.1. Những cơng trình liên quan đến mỹ học và hình thái học nghệ thuật
Năm 1996, cuốn Mỹ học với tư cách là một nhà khoa học [60] của Đỗ
Huy, Nxb Chính trị quốc gia. Ấn phẩm này cho thấy sự hình thành và phát
triển của khoa học mỹ học, những nguyên lý, phạm trù cơ bản của biện chứng
về: cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả… trong quan điểm Mác - xít.
Năm 2002, cuốn Mỹ học [36] của Denis Huisman, do Huyền Giang
dịch, Nxb Thế giới, đã đưa ra một cách nhìn tổng quan về toàn bộ hệ thống


11

mỹ học thế giới từ giai đoạn đầu cho đến thời hiện đại. Tác giả Denis
Huisman đưa ra tập hợp các cách tiếp cận về mỹ học, triết học, tâm lý học và
xã hội học, cách tiếp cận đó đề cập đến bản chất, tiêu chuẩn và các giá trị của
nghệ thuật. Hình thái học nghệ thuật đã được nhiều nhà mỹ học Mác - xít
nghiên cứu gắn với truyền thống mỹ học châu Âu. Các nghiên cứu về nghệ
thuật tĩnh, nghệ thuật động, nghệ thuật từ ngữ, nghệ thuật miêu tả, nghệ thuật
ứng dụng của những nhà mỹ học Mác - xít đã đạt được khá nhiều thành tựu
quan trọng trong việc làm sáng tỏ các loại hình lớn, loại hình con, loại thể
nghệ thuật. Mấu chốt của những nghiên cứu này là cần kết hợp các giá trị mỹ
học truyền thông với các giá trị hiện đại. Mỹ học Mác - xít coi hình thái học
và nghệ thuật khơng có ranh giới siêu hình. Ngun tắc tính thống nhất của
phương pháp logich và phương pháp lịch sử trong nghiên cứu hình thái học
nghệ thuật có ý nghĩa to lớn.
Năm 2004, cuốn Hình thái học của nghệ thuật [79] của M.Cagan, do
Phan Ngọc biên dịch. Trong lĩnh vực mỹ học, cuốn sách hình thái học nghệ
thuật (Morfologia Iskusjtva) của M.Cagan, Giáo sư Mỹ học trường đại học
S.Pêtébua là một tác phẩm chuyên khảo đầu tiên một cách có hệ thống heo

quan điểm Mác-xít về cơ cấu nội tại của thế giới nghệ thuật. Hình thái học
nghệ thuật là một tác phẩm lớn nghiên cứu cơ cấu toàn bộ thế giới của nghệ
thuật, tác giả chú ý đến phát hiện tất cả những cấp độ căn bản của sự phân
chia hoạt động sáng tạo nghệ thuật. “Hình thái nghệ thuật học là khoa học
nhận thức những quy luật tổ chức bên trong của thế giới nghệ thuật với tư cách
là một hệ thống những lớp, những nhóm, những loại hình (loại hình lớn, loại
hình con) và các thể của nó” [79, tr.7]. Các luận điểm này, giúp NCS lý giải về
cách thức phân định đồng thời nêu ra bản chất giao biến giữa các loại hình, loại
thể của nghệ thuật nói chung và của loại hình NTTB bảo tàng nói riêng.


12

Đối với một người làm cơng tác nghiên cứu, ngồi các vấn đề chính là
lý thuyết nghiên cứu, xác định tính mới trong đề tài nghiên cứu, việc nghiên
cứu các tài liệu liên quan đến đề tài là một cơ sở khoa học, là nền tảng vững
chắc cho luận án.
1.1.2. Những cơng trình liên quan đến mỹ thuật học và mỹ thuật ứng dụng
1.1.2.1. Mỹ thuật học
Năm 2006, cuốn Văn học và các loại hình nghệ thuật [87] của Lê Lưu
Oanh, Nxb Đại học sư phạm. Cuốn sách giới thiệu về một số vấn đề cơ bản
của nghệ thuật có liên quan chặt chẽ với các nội dung cần hiểu biết về lí luận
luận văn học như đối tượng nối dung, nguồn gốc sáng tạo và chức năng xã hội
thẩm mỹ của của nghệ thuật, cuốn sách cũng giới thiệu một số đặc trưng thẩm
mỹ của nghệ thuật Việt Nam… Ấn phẩm này giúp cho NCS có một cái nhìn
về chức năng thẩm mỹ của nghệ thuật để NCS có thể biện luận các luận điểm
của mình trong quá trình nghiên cứu.
Năm 2011, cuốn Nghệ thuật học [71] của Đỗ Văn Khang chủ biên, Nxb
Thông tin và truyền thông. Cuốn sách đã phân tích các học thuyết cũ về nguồn
gốc nghệ thuật, các thành tựu cơ bản của nghệ thuật phương Tây, nghệ thuật

phương Đông, nghệ thuật hiện đại, đề cập đến bản chất và phương pháp sáng
tác cơ bản của nghệ thuật, với một chương phân tích về tác phẩm và hình tượng
là cơ sở để khám phá, sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật, nội dung này ghi rõ:
Nghệ thuật khác với các hình thái xã hội khác, nó được coi là hình
thái đặc thù. Vì trong nghệ thuật, nghệ sĩ và người thưởng thức đều
đắm mình trong khâu trung gian, đó là vì hình tượng nghệ thuật.
Nghệ sĩ dùng hình tượng để gửi thơng điệp đến cơng chúng. Công
chúng thưởng thức nghệ thuật là thưởng thức các hình tượng nghệ
thuật do nghệ sĩ sáng tạo ra [71, tr.228].


13

NCS rất đồng thuận với quan niệm này, trong NTTB bảo tàng việc
người họa sĩ thiết kế phải đưa ra được hình tượng nghệ thuật trong khơng gian
trưng bày là gì qua đó sẽ truyền tải đến người tham quan một cách tích cực
nhất. Ấn phẩm cũng đã phân tích cách thưởng thức nghệ thuật thơng qua các
loại hình loại thể, thưởng thức nghệ thuật là thưởng thức các tác phẩm nghệ
thuật cụ thể. Qua đó giúp NCS có cái nhìn tổng thể về nguồn gốc và hình
tượng nghệ thuật thơng qua các loại hình nghệ thuật thị giác.
1.1.2.2. Mỹ thuật ứng dụng
Trong lĩnh vực thiết kế mỹ thuật ứng dụng, có nhiều tác giả đã nghiên
cứu về những hệ thống lý thuyết về chuyên ngành thiết kế, phương pháp luận
design, về tạo hình, nguyên lý thị giác… đây là những cuốn tài liệu chuyên biệt
dành cho lĩnh vực mỹ thuật công nghiệp. Sau đây là một vài tài liệu tiêu biểu
mà NCS thấy liên quan nhiều đến quá trình nghiên cứu luận án của mình:
Năm 1996, cuốn Thiết kế nội thất [43] của tác giả Francis D.K.Chinh,
được biên dịch từ nhóm dịch giả Thái Hồng, Văn Đồn, Nguyễn Thanh
Ngun, hiệu đính Nguyễn Kim Chi thiên về những nguyên lý thiết kế và
những mối quan hệ thiết kế về công năng, cấu trúc, chất lượng thẩm mỹ có

vai trị quyết định trong không gian nội thất, nghiên cứu hiển thị về bản chất
và thiết kế những bố cục nội thất hàm chứa nội dung và hình thức sinh động.
Năm 2000, cuốn Ecgônômi trong thiết kế và sản xuất [83] của tác giả
Nguyễn Bạch Ngọc, tác giả đã nêu ra các nguyên tắc quy chuẩn Ecgônômi
trong thiết kế nội thất, các chỉ số về nhân trắc học theo tiêu chuẩn của người
Việt Nam được áp dụng vào không gian và trang thiết bị nội thất phục vụ con
người. Đây là một trong những cuốn sách mà NCS nhận thấy rất gần và quan
trọng trong việc làm thiết kế nội thất, tất cả các sản phẩm mỹ thuật ứng dụng
trong đó có NTTB bảo tàng sinh ra đều được phục vụ cho con người, vậy thì


14

điều đầu tiên những sản phẩm đó phải đảm bảo cơng năng và các tiêu chí đảm
bảo phục vụ con người một cách tốt nhất.
Năm 2003, cuốn Cơ sở phương pháp luận Design [108] được xuất bản
lần đầu vào năm 2003 và tái bản năm 2012 của tác giả Lê Huy Văn biên soạn
và đưa ra những kiến thức về phương pháp luận Design. Ấn phẩm viết:
Tạo dáng công nghiệp nằm trong quá trình chuẩn bị và phát triển
của sản phẩm và hệ thống sản phẩm mà trong đó yếu tố thẩm mỹ là
một thành phần thống nhất gắn bó hữu cơ với các thành phần khác
như khoa học, công nghệ, thiết kế… nhằm tối ưu hóa về giá trị sử
dụng, thỏa mãn các nhu cầu về văn hóa - thẩm mỹ của chế độ xã
hội thích hợp với những điều kiện của nền sản xuất công nghiệp
phát triển [108, tr.7].
Qua đó NCS có thể sử dụng khái niệm tạo dáng một cách rộng rãi cho
các sản phẩm được sản xuất bằng phương pháp công nghiệp, liên hệ với luận
án của NCS với NTTB bảo tàng, thì yếu tố tạo hình yếu tố thẩm mỹ là rất
quan trọng nó có phù hợp với thị hiếu của công chúng và xã hội hay khơng,
có phù hợp về văn hóa đặc thù của nền văn hóa Việt nam hay khơng… với cơ

sở này sẽ giải quyết được phương pháp thiết kế trưng bày và thi cơng thích
hợp cho từng bảo tàng.
Năm 2006, cuốn Những nền tảng của mỹ thuật - Lý thuyết và thực hành
[88] của Ocvirk, Stinson, Wigg, Bone, Cayton, Lê Thành dịch, Nxb Mỹ thuật.
Nội dung cuốn sách này trình bầy đầy đủ các yếu tố hình thành cơ bản của
ngành mỹ thuật và cả một chặng đường phát triển, từ bố cục, đường nét, sắc
độ, hình dạng, màu sắc, đến cấu trúc cơ bản, rồi không gian của nghệ thuật
chiều thứ ba và cả nội dung, phong cách… rất chi tiết. Ấn phẩm này đã cung
cấp đầy đủ chi tiết các thành tố cấu thành của một nghệ thuật, giúp cho NCS
nắm vững những thành tố cấu thành tố đó ứng dụng vào việc trưng bày bảo


15

tàng, với các tỷ lệ, bố cục, màu sắc, ánh sáng, hình dạng… thơng qua nghệ
thuật thị giá truyền tải đến người xem, đây là một trong những điều kiện rất
căn bản cho một họa sĩ sáng tác thiết kế các cơng trình mỹ thuật ứng dụng.
Năm 2012, cuốn Ngun lý design thị giác [63] của Nguyễn Hồng
Hưng, Nxb Đại học Quốc gia. Cuốn sách đề cập tới mối quan hệ của thị giác,
ánh sáng, hình thể, màu sắc, trong phạm vi thiết kế, đây là nền tảng cơ bản,
bước đầu chuẩn bị cho các nhà họa sĩ thiết kế thao tác những khác biệt những
sáng tạo của nhận thức cái đẹp trong lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng. Ấn phẩm có
giá trị cho luận án với những đánh giá thực tiễn của các bảo tàng với ngơn
ngữ tạo hình đối với NTTB bảo tàng, trong trưng bày bảo tàng thì ngơn ngữ
tạo hình là một trong những thành tố quan trọng quyết định cho một khơng
gian trưng bày có hấp dẫn hay khơng có thu hút người xem hay khơng.
Năm 2016, cuốn Cơ sở tạo hình [64] của Đỗ Trọng Hưng, Nxb Mỹ
thuật. Nghệ thuật tạo hình tác động đến đời sống hằng ngày cho dù chúng ta
có phải là ngoài am tường hay tham tham gia trực tiếp vào nghệ thuật này hay
không. Những bức tranh hội họa, những tác phẩm điêu khắc mang lại sự hứng

khởi và khiến ta suy tưởng. Những ngôi nhà chúng ta ở, những cơng sở, bảo
tàng, cơng trình văn hóa to sinh hoạt trong đó cho cảm giác dễ chịu và tiện
nghi hay không… Tất cả những sản phẩm này đều gắn với nghệ thuật tạo
hình, nghệ thuật thị giác. Ấn phẩm với bảy chương gồm hệ thống lý thuyết và
bài thực hành, cuốn sách này đã hệ thống một cách căn bản lý thuyết và thực
hành nhằm tìm hiểu hiểu về nghệ thuật tạo hình cho các họa sĩ thiết kế, cuốn
sách xác nhận những yếu tố căn bản làm nên một tác phẩm, một sản phẩm
mang chất tạo hình, giúp nhận dạng cơ chế, cấu trúc của hình thể trong mối
tương quan nội tại và với môi trường xung quanh.
Năm 2017, cuốn Hình, Khơng gian và cách nhìn [46] của Graham
Collier, Vương Tử Lâm, Phạm Long dịch, Phạm Văn Thiều hiệu đính, Nxb


16

Mỹ thuật. Ấn phẩm là một trong những tài liệu đầu tiên được dùng cho các
khóa học căn bản về vẽ và thiết kế, cuốn sách đã giới thiệu những phương
pháp cơ bản để tạo hình một cách sinh động và sau nữa là nhằm kích thích tư
duy cảm xúc như một đáp ứng cá nhân. Một yếu tố nữa mà NCS rất đồng
quan điểm trong cuốn sách nữa là cuốn sách khơng chỉ rèn luyện tính khách
quan trong cách nhìn và trong thực tế tạo hình của bức vẽ mà nó cịn khuyến
khích người học mạnh dạn áp dụng những kiến thức này vẽ theo phản ứng
chủ quan của mình. Đây là điểm rất thú vị của cuốn sách, tiếp tục lý giải tinh
tế tế hơn cái gọi là nhân tố sáng tạo đó là những cách thức mà trí tưởng tượng
của người nghệ sĩ biến những trải nghiệm thị giá thành những dạng thức mới
thì ta gọi là nghệ thuật. Sự sáng tạo trong nghệ thuật, trong công trình mỹ
thuật ứng dụng là điều rất quan trọng cho người họa sĩ thiết kế, nó quyết định
thành bại của cơng trình đó, nên với ý nghĩa của cuốn sách này là điều không
thể thiếu trong sáng tác NTTB bảo tàng.
1.1.3. Những cơng trình liên quan đến nghệ thuật trưng bày bảo tàng

Đây là nhóm những tài liệu liên quan trực tiếp đến đề tài của luận án, vì
vậy NCS đã chia ra theo từng thời gian cụ thể như sau:
Năm 1963, cuốn Nghệ thuật trang trí triển lãm và bảo tàng [73] của
Ngô Lao, do Trần Công Tả dịch, Nxb Văn hóa - Nghệ thuật. Nội dung cuốn
sách đã đề cập đên các vấn đề trong công tác trưng bày nghệ thuật của triển
lãm và bảo tàng. Trong đó nêu rõ trình tự của cơng việc thiết kế, các giải pháp
thực tiễn trong việc bố trí trong các phịng trưng bày, cách sử dụng ánh sáng,
màu sắc, minh họa… trong trang trí. Đây là một cuốn sách cẩm nang về các
vấn đề lý luận thực tiễn trang trí triển lãm và bảo tàng trong một giai đoạn
nhất định, mặc dù sách đã ra đời từ rất lâu, nhưng giá trị về những nền tảng
của trang trí trưng bày bảo tàng vẫn rất giá trị và có nhiều nội dung giúp cho


17

NCS đã vận dụng để tham khảo và cơ bản nhất các vấn đề liên quan đến thiết
kế trang trí trưng bày bảo tàng.
Năm 1980, cuốn Sổ tay công tác bảo tàng [107] của Lâm Đình Trường,
Mai Khắc Ứng, Phạm Xanh, Đặng Văn Bài, Nxb Văn Hóa, cũng nêu rất rõ về
các bước triển khai tổ chức trưng bảo tàng:
Công tác trưng bày là khâu chủ yếu trong toàn bộ các mặt hoạt
động của một bảo tàng. Chưa có trưng bày cũng có thể coi như
chưa có bảo tàng. Nhờ có cơng tác trưng bày các bảo tàng mới có
cơ sở liên hệ với quần chúng. Và chỉ qua công tác trưng bày, các
bảo tàng mới thể hiện được nội dung và quan điểm của nó một các
đầy đủ nhất. Cũng trên cơ sở, hiện vật được đem ra trưng bày một
cách lơ gích các bảo tàng mới làm trọng nhiệm vụ tuyên truyền đại
chúng [107, tr.130].
Năm 1999, cuốn Phương pháp viết chú thích trưng bày [30] của
Christine Mullen Kreamer, đây là tài liệu tập huấn cho cán bộ BTDTHVN.

Theo Christine Mullen Kreamer, một giám tuyển của Bảo tàng Nghệ thuật
châu Phi của Mỹ, cho rằng thước đo để đánh giá sự thành công của một bảo
tàng là cảm giác thoải mái và sự hứng thú do bảo tàng đem lại cho người xem
khi đi lại và quan sát các hiện vật, cuộc trưng bày lý tưởng phải thỏa mãn
những điều kiện dưới đây:
Trưng bày được tổ chức tốt; Khách tham quan cảm thấy thoải mái, dễ
chịu; Khách tham quan có thể dễ dàng thưởng thức; Trưng bày mang
lại nhiều kinh nghiệm bổ ích cho khách tham quan; Đảm bảo khơng
làm cho khách tham quan bị chống ngợp hoặc thờ ơ; Hướng vào thỏa
mãn kiến thức và các mối quan tâm của khách tham quan [30, tr.39].
Năm 2000, cuốn Cơ sở bảo tàng [101] của Timothy Ambrose và
Crispin Paine do Lê Thúy Hồn dịch, hiệu đính PGS.TS Phạm Mai Hùng và


18

Triệu Văn Hiển. Cuốn sách đã chỉ ra những cách thức, các bước triển khai của
toàn bộ bảo tàng trong đó có cơng tác thiết kế trưng bày bảo tàng, một trong
những nội dung quan trọng của bảo tàng. Tác giả đã nêu rõ “những quá trình
khác nhau mà quá trình dàn dựng và thiết kế buộc phải thực hiện, và những
kỹ năng khác nhau mà q trình đó sẽ cần đến khi thực hiện công việc” [101,
tr.207]. Các quá trình đó sơ bộ gồm các giai đoạn như sau: một là lập kế
hoạch, hai là thiết kế sơ bộ, ba là giai đoạn thiết kế cuối cùng, bốn là các bản
hợp đồng, năm là dàn dựng và trưng bày, sáu là trưng bày các hiện vật vào tủ,
bẩy là mở cửa đón cơng chúng và quảng cáo cho bảo tàng, tám là sau khi mở
cửa bảo tàng. Đó là các giai đoạn để tiến hành cho công việc thiết kế trưng
bày, các bước được tiến hành một cách chặt chẽ và rất khoa học do vậy việc
lập dự án cho quy trình này một cách cẩn thận và hợp lý là điều rất cần thiết
cho các họa sĩ thiết kế và các cán bộ chuyên môn của bảo tàng.
Năm 2001, cuốn Cẩm nang bảo tàng [44] của Gary Edson và David

Dean. Đã chỉ rõ những cách thức, các bước triển khai của tồn bộ bảo tàng
trong đó có cơng tác trưng bày bảo tàng, một trong những nội dung quan
trọng của bảo tàng.
Năm 2002, cuốn Sổ tay công tác trưng bày bảo tàng [97] của Nguyễn
Thịnh biên soạn, Nxb Văn hóa Thơng tin, đã đề cập đến lý thuyết về bảo tàng
và chức năng nghiên cứu khoa học của bảo tàng, sự hình thành và phát triển
hệ thống bảo tàng khảo cứu địa phương ở nước ta, nội dung và phương pháp
trưng bày trong bảo tàng khảo cứu địa phương.
Năm 2006, cuốn Sự nghiệp bảo tàng nước Nga [67] của Kaulen M.E
chủ biên, Cục Di sản văn hoá đã cho xuất bản tài liệu - tiếng Nga ra tiếng Việt
và xuất bản. Bảo tàng học Nga, vốn rất gần gũi, gắn bó mật thiết và có những
ảnh hưởng lớn đối với quá trình hình thành và phát triển của các bảo tàng ở
Việt Nam [67, tr.6]. Tác giả đã viết “Công tác nghiên cứu khoa học là nền


19

tảng của hoạt động chức năng, là một trong những hướng đi hàng đầu trong
hoạt động của bất kỳ bảo tàng nào…” [67, tr.257]. Công tác nghiên cứu khoa
học trong các bảo tàng phát triển theo hai khuynh hướng: hướng thứ nhất là
nghiên cứu sưu tập bảo tàng và những di sản văn hóa, hướng thứ hai là
nghiên cứu bảo tàng học. Những nghiên cứu khoa học chia thành những
nhóm sau: nghiên cứu cơ bản (nền tàng); nghiên cứu ứng dụng; nghiên cứu
khoa học. Mỗi hướng nghiên cứu đều có những cấu phần nghiên cứu sau: Bổ
sung sưu tập; Công tác kho - khoa học; Công tác trưng bày - triển lãm; Hoạt
động giáo dục - văn hóa [67, tr.263]. NCS đề cập đến vấn đề Công tác trưng
bày - triển lãm trong bảo tàng, hướng nghiên cứu này là tạo lập tài liệu khoa
học cho các cuộc triển lãm hay trưng bày bao gồm: Quan điểm khoa học; Cơ
cấu đề tài; Kế hoạch trưng bày chuyên đề; Kịch bản [67, tr.265]. Như vậy
công tác trưng bày bảo tàng là công việc thiết kế khoa học, với đề tài của

NCS là NTTB là một trong những công tác thiết kế khoa học này và là một
hoạt động nghiên cứu khoa học của bảo tàng. Cuốn sách viết về lịch sử phát
triển công tác bảo tàng ở nước Nga và định nghĩa bảo tàng học cấu thành nên
cơ sở lý luận của hoạt động bảo tàng.
Năm 2006, cuốn Nguyên lý thiết kế bảo tàng [113] của Tạ Trường
Xuân, Nxb Xây dựng, đã giới thiệu những nét cơ bản cần thiết để thiết kế, để
xây dựng một nhà bảo tàng. Cuốn sách gồm có 04 chương đi từ khái quát
chung về bảo tàng, các bộ phận của bảo tàng, bố cục hình khối của bảo tàng
đến những vấn đề liên quan đến kỹ thuật trang thiết bị đồ đạc trong nội ngoại
thất và các vấn đề liên quan đến kinh tế, an toàn trong bảo tàng, NCS nhận
thấy đây là một tài liệu liên quan nhiều đến luận án trong việc xác định về mặt
bố cục cấu trúc không gian trong bảo tàng để từ đó có những định hướng cho
NTTB bảo tàng.


20

Năm 2006, Luận án tiến sĩ Bảo tàng Việt Nam thực trạng và những giải
pháp chính nhằm kiện tồn hệ thống bảo tàng trong phạm vi cả nước [78] của
tác giả Lê Thị Minh Lý hoàn thành năm 2006, Luận án tiến sĩ Văn hóa học.
Nội dung luận án có tính hệ thống tồn diện về bảo tàng Việt Nam, đánh giá
một cách tổng quát nhiều hoạt động bảo tàng, góp phần nhận thức sâu sắc hơn
về vai trị và vị trí của bảo tàng và hoạt động bảo tàng để ghóp phần khẳng
định bảo tàng học là một khoa học. Luận án đã nhận định rõ đổi mới và phát
triển bảo tàng nước ta vừa là một nhu cầu vừa là tất yếu trong chiến lược cơng
nghiệp hóa và hiện đại hóa. Với tính thực tiễn của luận án thể hiện ở việc
khảo sát và đánh giá thực trạng ở các bảo tàng ở Việt Nam, góp phần giải
quyết các yếu kém bất cập trong hoạt động bảo tàng hiện nay, luận án cũng đã
đề xuất được giải pháp chính về quản lý nhằm kiện tồn và phát triển hệ thống
bảo tàng. Qua đó NCS cũng tiếp nhận và tiếp thu nhiều những phân tích đóng

góp của luận án một cách chi tiết và cụ thể về thực trạng bảo tàng Việt Nam.
Năm 2008, Luận án tiến sĩ Các bảo tàng quốc gia Lào với nhiệm vụ
giáo dục truyền thống Lịch sử - Văn hóa [91] của tác giả Sỉ Thon
ChănThaVơng hồn thành năm 2008, Luận án tiến sĩ Văn hóa học. Nội dung
luận án đã nêu lịch sử hình thành và phát triển của các bảo tàng quốc gia Lào
bao gồm: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Lào, Bảo tàng Quân đội Nhân dân Lào,
Bảo tàng Cay-Sỏn Phôn Vi Hản, đây là những bảo tàng quốc gia hàng đầu của
đất nước bạn Lào, tác giả đã phân tích sự hình thành phát triển, hệ thống trưng
bày, thực trạng hoạt động giáo dục truyền thống lịch sử - văn hóa và đưa ra
các giải pháp để nâng cao hoạt động giáo dục của các bảo tàng này. Đây là
luận án là cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu hệ thống về lịch sử hình
thành và phát triển của các Bảo tàng quốc gia Lào. Thông qua luận án này,
NCS có thêm dữ liệu và cơ sở để phân tích và so sánh các nội dụng nghiên
cứu về thực trạng về trưng bày bảo tàng của Việt Nam với Lào, luận án của


21

NCS cũng nghiên cứu các bảo tàng mang tính chất quốc gia thuộc lĩnh vực
Lịch sử và Văn hóa của Việt Nam, rất gần với tính chất của những bảo tàng
quốc gia Lào.
Năm 2008, cuốn Cơ sở bảo tàng học [54] của Nguyễn Thị Huệ (chủ
biên), Phan Khanh, Nguyễn Thịnh, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Ấn phẩm
là một cuốn giáo trình để phục vụ cho cơng tác giảng dậy và nghiên cứu học
tập của các sinh viên ngành bảo tàng trong các trường đại học, cao đẳng và
các trường văn hóa nghệ thuật. Nội dung của giáo trình được chia thành 05
chương: Chương I, Bảo tàng học - một bộ môn khoa học, chương này đã
khẳng định bảo tàng học là một bộ mơn khoa học có một hệ thống lý thuyết,
các yếu tố hợp thành, có đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng; Chương
II, Khái quát lịch sử bảo tàng trên thế giới và Việt Nam: chương này đề cập

đến nguồn gốc và sự ra đời quá trình hình thành và phát triển bảo tàng trên thế
giới qua các thời kỳ lịch sử; Chương III, Bảo tàng - Đặc trưng và chức năng:
chương này đề cập đến các khái niệm về bảo tàng của một số nước trên thế
giới, của ICOM và của Việt Nam, phân tích đặc trưng và chứng năng riêng
của bảo tàng; Chương IV, Hiện vật bảo tàng và hiện vật trưng bày của bảo
tàng: chương này hệ thống các lý thuyết về hiện vật gốc, hiện vật bảo tàng,
nhấn mạnh vai trò của hiện vật trong nghiên cứu khoa học trong trưng bày và
trong toàn bộ hoạt động của bảo tàng; Chương V, Phân loại bảo tàng: trình
bày khái niệm, mục đích, cơ sở phân loại bảo tàng, giới thiệu các loại hình
bảo tàng. Tóm lại cuốn sách đã hệ thống những kiến thức cơ bản nhất về lý
luận bảo tàng học, là nguồn tư liệu rất quan trọng trong công tác nghiên cứu
đối tượng khoa học của NCS.
Năm 2008, cuốn Cơ sở bảo tàng học Trung Quốc [90] của Vương
Hoàng Quân chủ biên, Nxb Thế Giới. Đây là cuốn sách chuyên ngành có giá
trị về lịch sử bảo tàng học, lý luận và thực tiễn từ những công việc nghiệp vụ
của bảo tàng. Cuốn sách là bức tranh tổng thể về sự ra đời, tổ chức và hoạt


22

động của các bảo tàng ở Trung Quốc cũng như nhiều nước trên thế giới. Với
bảo tàng tại Việt Nam đặc biệt có nhiều ảnh hưởng về NTTB rất tương đồng
với nhau. Cuốn sách có 24 chương đã viết đầy đủ các hoạt động liên quan đến
các công tác bảo tàng của Trung Quốc, trong đó có 03 chương trong phần
cơng tác chun mơn bảo tàng có đề cập và phân tích rõ liên quan đến các
hoạt động NTTB bảo tàng. Cuốn sách có nội dung rất căn bản có liên quan
trực tiếp luận án của NCS.
Năm 2009, cơng trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ do tác giả Võ Thị
Thu Thủy chủ trì nghiệm thu năm 2009 với đề tài Nghiên cứu phong cách
Việt Nam trong thiết kế nội thất [100]. Đây là cơng trình khoa học đề cập đến

những vấn đề yếu tố truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa Việt khi được
ứng dụng trong thiết kế nội thất. Với đề tài của luận án, NCS nhận thấy các
cơng trình trưng bày bảo tàng, với thời đại 4.0 có rất nhiều xu hướng mới
được du nhập từ nước ngồi vào Việt Nam, chính vì vậy yếu tố “thuần Việt”,
phong cách Việt cần được phát huy mạnh mẽ hơn, để giao lưu học hỏi những
kinh nghiệm những cái mới cái tốt, khoa học công nghệ, nhưng không đánh
mất tinh thần Việt… Đặc biệt, phong cách Việt cần được đề cao hơn trong
NTTB bảo tàng, vì các bảo tàng ngồi phục vụ cơng chúng người dân Việt
Nam cịn phục vụ số lượng lớn các du khách trên thế giới đến Việt Nam thăm
quan đi du lịch, thông qua bảo tàng để nói lên phong cách thiết kế của chúng
ta khác với phương Tây chính là phong cách Việt, đó chính là đậm đà, bản
sắc, dân tộc đây là cái nét riêng trong NTTB bảo tàng của mỗi một quốc gia.
Năm 2012, cuốn Thiết kế trưng bày di sản - Lý thuyết và thực hành [99]
của Nguyễn Thịnh, Nxb Xây dựng. Cuốn sách này gồm 5 chương: Chương I,
Những vấn đề về lý thuyết trong bày; Chương II, Thiết kế nội dung trưng bày;
Chương III, Nghiên cứu và thiết kế hình thức nghệ thuật trưng bày; Chương
IV, Dự án trưng bày; Chương IV, Thi công trưng bày và đánh giá trưng bày.
Qua cuốn sách tác giả giới thiệu các bước tiến hành về một cuộc trưng bày di


23

sản thành công, từ lý thuyết đến thực hành bằng những ví dụ cụ thể. Tác giả
đã chọn cách giải quyết bằng cách, đi từ lý thuyết trưng bày với những khái
niệm, phương pháp và đặc biệt nhấn mạnh mục tiêu cần quan tâm hàng đầu là
hướng tới công chúng, đến những vấn đề cụ thể về quá trình thiết kế là thiết
kế nội dung và thiết kế hình thức nghệ thuật. Trong ấn phẩm này, tác giả cũng
nêu rõ những kinh nghiệm của công tác trưng bày của các bảo tàng trên thế
giới. Ấn phẩm một tài liệu rất đáng quý và quan trọng trong quá trình nghiên
cứu của NCS.

Năm 2017, cuốn Để có một bảo tàng sống động [103] của Võ Quang
Trọng, Nguyễn Duy Thiệu đồng chủ biên, Nxb Thế Giới. Ấn phẩm đã có
những chia sẽ về các lĩnh vực trưng bày, công việc liên quan đến xây dựng
bảo tàng, tìm kiếm sưu tầm hiện vật, bảo quản hiện vật, thiết kế trưng bày.
Các bài viết khá chi tiết, khiến cho người đọc hiểu được các giai đoạn để kiến
tạo nên một BTDTHVN như ngày nay. Đồng thời từ đó cũng nhận ra được
tầm quan trọng của từng cơng đoạn tìm kiếm hiện vật, xây dựng nội dung
trưng bày, thi công trưng bày. NTTB theo lối truyền thống và theo xu hướng
hiện đại.
Năm 2019, Luận án tiến sĩ Nghệ thuật trưng bày tại các triển lãm
thương mại “Vietnam Motor Show” từ năm 2012 đến năm 2017 [81] của tác
giả Hồ Nam, hoàn thành năm 2019, Luận án tiến sĩ Lý luận và lịch sử mỹ
thuật. Nội dung luận án đã nêu rõ về những hình thức biểu hiện của nghệ
thuật trưng bày tại các triển lãm thương mại, một đề tài rất gần với đề tài của
NCS có mối tương đồng và liên quan trực tiếp đến NTTB bảo tàng, tác giả đã
nhận định “Nghệ thuật trưng bày tại các triển lãm thương mại Vietnam Motor
Show là những tác phẩm nghệ thuật tạo hình tồn vẹn có tính chiếm lĩnh
khơng gian. Nó có nội dung hàm chứa và các hình thức biểu hiện đa dạng,
sinh động theo quy luật mỹ học và nghệ thuật học” [81, tr.149]. NCS đồng
tình với quan điểm trên của tác giả Hồ Nam, NTTB bảo tàng cũng là những


24

tác phẩm nghệ thuật tạo hình, có tính chiếm lĩnh khơng gian bởi những hiện
vật có thể khối lớn, nó làm cho bảo tàng có linh hồn có sự sống và là cầu nối
đến với công chúng. Với luận án này, NCS vận dụng những nghiên cứu liên
quan đến NTTB vào đề tài của mình một cách có chọn lọc.
Luật Di sản văn hóa quy định trong điều 51 về việc xếp hạng bảo tàng
căn cứ vào các tiêu chuẩn sau đây:

+ Số lượng và giá trị các sưu tập
+ Chất lượng bảo quản và trưng bày sưu tập
+ Cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật
+ Mức độ chuẩn hóa đội ngũ các bộ chun mơn, nghiệp vụ [76, tr.33].
NCS nhận thấy một trong những tiêu chi đánh giá xếp hạng bảo tàng,
thì phần trưng bày bảo tàng là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh
giá và xếp hạng bảo tàng. Có thể khẳng định, với các nội dung phong phú và
chi tiết của các cuốn sách trên đã được đông đảo các cán bộ, cán bộ quản lý
bảo tàng, các họa sĩ thiết kế của Việt Nam, các giảng viên, sinh viên các
trường đào tạo về bảo tàng, về mỹ thuật ứng dụng, tham khảo, vận dụng và
học tập. Qua đó NCS cũng vận dụng nhiều lý thuyết về trưng bày, để áp dụng
cho các nghiên cứu trong luận án, có nhiều ấn phẩm đã có cách đây nhiều
năm về trước tuy khơng mang được giá trị của thời đại ngày nay, nhưng có
giá trị trong việc biện luận hình thức biểu hiện của loai hình nghệ thuật này.
1.2. Cơ sở lý luận của đề tài
1.2.1. Một số thuật ngữ và khái niệm liên quan
1.2.1.1. Nhóm khái niệm, thuật ngữ về nghệ thuật và thiết kế
Nghệ thuật
Khái niệm Nghệ thuật, theo Từ điển Mỹ thuật: “Theo nghĩa rộng nhất
thì nghệ thuật là tất cả phương pháp tiến hành và sản phẩm của tài khéo, trí
tưởng tượng và sự sáng tạo của con người; ngược lại với tự nhiên” [74, tr.61].
Theo Từ điển Triết học đã khái niệm nghệ thuật được viết là “Nghệ thuật -


25

hình thái đặc thù của ý thức xã hội và của hoạt động con người; phản ánh hiện
thực dưới những hình tượng nghệ thuật; là một trong những phương pháp
quan trọng nhất để nắm bắt thế giới bằng thẩm mỹ” [85, tr.380].
Thiết kế

Theo Từ điển mỹ thuật phổ thơng, thì động từ thiết kế là “sáng tạo ra
mẫu đồ vật theo ý tưởng của các nhà mĩ học bằng bản vẽ, phác thảo, phác
họa, mơ hình nhằm đạt tới mức hồn thiện để có thể áp dụng vào sản xuất
cơng nghiệp. Thiết kế tiếng Anh là design” [82, tr.130]. Theo cuốn Lịch sử
Design xuất bản năm 2012, tác giả Lê Huy Văn đã viết “Danh từ Design có
xuất xứ từ gốc chữ Latinh disegno, có từ thời Phục hưng, có nghĩa là phác
thảo, thuật vẽ (drawing), thiết kế, bản vẽ, là cơ sở của mọi nghệ thuật thị giác,
công việc của sáng tạo” [110, tr.8].
1.2.1.2. Nhóm khái niệm, thuật ngữ về Bảo tàng
Q trình nghiên cứu và giải thích về nguồn gốc của bảo tàng cho đến
nay vẫn tồn tại nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau, một số học giả giải thích
nguồn gốc bảo tàng theo lối duy danh, dựa vào ngôn ngữ học (thành ngữ), các
học giả này cho rằng:
Bảo tàng bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ Museion nghĩa là miếu thờ,
đó Nữ thần Muse. Muse là Nữ thần bảo vệ cho Nghệ thuật, văn học
và Thơ ca của thời Hy Lạp cổ đại. Ở Hy Lạp thời kỳ này con người
đã sưu tầm thu thập các bức tượng tranh thờ và nhiều thế kỷ sau,
người Hy Lạp vẫn sưu tầm tìm kiếm các tác phẩm nghệ thuật để gìn
giữ bảo quản tại các Kho báu vật của mình. Các miếu, đền này đã
được xây dựng trên ngọn đồi Hêlicon ở Athena. Vì vậy, nhiều nước
ở châu Âu người thời sau dã bắt chước thời cổ đại dùng từ Muse để
chỉ nơi gìn giữ các tác phẩm nghệ thuật là bảo tàng [54, tr.64].


×