Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

tóm tắt luận án nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn việt nam sau 1975 (qua truyện ngắn của nguyễn minh châu, nguyễn khải, ma văn kháng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.85 KB, 27 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN




NGUYỄN THỊ BÍCH




NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975
(QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU,
NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62.22.01.21




TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN









THÁI NGUYÊN - NĂM 2014

Công trình được hoàn thành tại:
Trƣờng Đại học Sƣ phạm - Đại học Thái Nguyên



Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Nguyễn Bích Thu
2. PGS. TS. Đào Thủy Nguyên

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:


Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án họp tại:
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên
Vào hồi giờ phút, ngày tháng năm 20



Có thể tìm hiểu Luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm học liệu Đại học Thái Nguyên
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tự sự xuất hiện từ rất lâu, gắn với sự hình thành và phát
triển của lịch sử loài người nhưng tự sự học thì phải đến thế kỉ XX
mới được các nhà nghiên cứu tìm hiểu và trở thành một lĩnh vực học
thuật được quan tâm. Ở Việt Nam, tự sự học đã nhanh chóng trở
thành lĩnh vực thu hút các nhà nghiên cứu. Lí thuyết tự sự nghiên cứu
nhiều phương diện như cốt truyện, nhân vật, người kể chuyện, ngôi
kể, điểm nhìn, giọng điệu Luận án của chúng tôi vận dụng lí thuyết
về ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật trong cấu trúc văn bản
truyện kể để nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam
sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,
Ma Văn Kháng).
1.2. Sau 1975, nhà văn - nhân vật và bạn đọc được đặt trong
mối quan hệ đa chiều để tranh biện và đi tìm chân lí. Truyện ngắn đã
chứng tỏ là thể loại năng động, có khả năng nắm bắt vấn đề một cách
nhanh nhạy, kịp thời mà vẫn chuyển tải được những vấn đề quan
trọng của xã hội đương thời. Thể loại này mang trong nó những dấu
hiệu của sự vận động và biến đổi với nhiều khuynh hướng khác nhau:
truyện ngắn viết theo lối truyền thống và tuân thủ những đặc trưng
vốn có của thể loại; truyện ngắn cách tân trên nền truyền thống;
truyện ngắn cách tân theo hướng hiện đại. Chúng tôi đi sâu nghiên
cứu truyện ngắn của ba tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,
Ma Văn Kháng (những nhà văn sáng tác theo khuynh hướng cách tân
trên nền truyền thống) từ góc nhìn tự sự để thấy được sự đổi mới
trong tư duy nghệ thuật và sự vận động của cấu trúc thể loại trong bối
cảnh mới.



2
1.3. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải và Ma Văn Kháng là
những đại biểu tiêu biểu của phong trào đổi mới văn học Việt Nam
sau 1975. Nguyễn Minh Châu có một vị trí đặc biệt quan trọng -
người “tiền trạm đổi mới” (Phong Lê) trong nền văn học đương đại
Việt Nam. Nguyễn Khải đã thể hiện trong sáng tác của mình nhãn
quan tỉnh táo trước hiện thực đời sống. Còn Ma Văn Kháng là cây
bút chuyên nghiệp đầy bản lĩnh, tài năng. Con người trước lăng kính
của các nhà văn là đối tượng để “đào bới bản thể ở chiều sâu tâm
hồn” (Lã Nguyên).
Với những lí do như vậy, chúng tôi đi sâu nghiên cứu về “Nghệ
thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng)”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng
ở phương diện ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật.
- Tìm ra những điểm chung thế hệ, điểm riêng trong phong cách
của từng tác giả và khẳng định đóng góp của ba nhà văn trong sự vận
động, đổi mới thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Vận dụng lý thuyết tự sự học hiện đại để tìm hiểu và phân tích
truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma
Văn Kháng nhằm làm nổi bật giá trị nghệ thuật và nội dung tư tưởng
của các tác phẩm, thấy được điểm chung, điểm riêng, khẳng định vai
trò, vị trí của ba nhà văn trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam
sau 1975.



3
- Đối sánh với truyện ngắn Việt Nam sau 1975 để nhận ra những
nét riêng biệt, những thành công và giới hạn của thế hệ nhà văn mở
đường, đặc điểm truyện ngắn Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn tự sự.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghệ thuật tự sự trên các
bình diện cơ bản ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu trần thuật trong
truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Nghệ thuật tự sự bao gồm nhiều
phương diện. Ở luận án này, chúng tôi tập trung nghiên cứu vấn đề
ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật. Đó là những yếu tố nổi
bật tạo nên phong cách nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng.
- Phạm vi tư liệu:
+ Đề tài chủ yếu khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhưng tập trung vào
những truyện ngắn sáng tác sau 1975. Trong đó, chúng tôi chú ý
những tác phẩm trong tuyển tập truyện ngắn của ba nhà văn: Tuyển
tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (2006) của Nhà xuất bản Văn
học; Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải (2007) của Nhà xuất bản
Hội Nhà văn; Truyện ngắn chọn lọc Ma Văn Kháng (2002) của
Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Một số truyện ngắn tiêu biểu của các nhà
văn cùng thế hệ và khác thế hệ (các nhà văn “6X”, “7X”, “8X”,
“9X”) để so sánh.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận án sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp tiếp cận

tự sự học; phương pháp thống kê; phương pháp hệ thống; phươngpháp


4
loại hình, phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại; phương
pháp so sánh; phương pháp tổng hợp.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án vận dụng những thành tựu nghiên cứu tự sự học trên
thế giới và ở Việt Nam để tìm hiểu một số phương diện cơ bản của
nghệ thuật tự sự như: ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu trần thuật trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. Từ
thực tiễn sáng tác, từ sự đối chiếu, so sánh truyện ngắn của ba nhà
văn ở hai giai đoạn trước - sau 1975 và so sánh với truyện ngắn của
các tác giả khác, luận án chỉ ra sự đổi mới, những thành công và hạn
chế về tổ chức tự sự trong truyện ngắn của ba cây viết “gạo cội” -
tiêu biểu cho thế hệ nhà văn “mở đường” trong quá trình sự vận
động, đổi mới của truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975.
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về
nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 qua ba tác giả
đã có vị trí và đóng góp to lớn trong nền văn học Việt Nam hiện -
đương đại.
Luận án góp một tài liệu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu,
giảng dạy, học tập về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở trường đại
học, cao đẳng, trung học.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Nội dung luận án gồm:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Một số vấn đề cơ bản của tự sự học. Khái lược về
truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Chương 3: Ngôi kể và điểm nhìn trong truyện ngắn sau 1975

của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng
Chương 4: Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn sau 1975
của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng


5
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái lƣợc tình hình nghiên cứu lí thuyết tự sự
Tự sự học là “một nhánh của thi pháp học hiện đại”. Chủ
nghĩa hình thức Nga với những tên tuổi V. Shklovski (1893 - 1984),
B. Eikhenbaum (1886 - 1959), B. Tomachevski (1890 - 1957)… đặt
nền móng cho những cơ sở ban đầu của lí thuyết tự sự. Họ đã bước
đầu đề cập đến nhiều phương diện cơ bản của cấu trúc tự sự ở
phương diện lí thuyết như kết cấu tác phẩm, cốt truyện, nhân vật hay
nghệ thuật tổ chức thời gian… Chủ nghĩa hình thức Nga đặt viên
gạch đầu tiên cho lí thuyết tự sự học nhưng góp phần hình thành bộ
môn tự sự học thì phải kể đến Chủ nghĩa cấu trúc với những tên tuổi
như R. Barthes, Tz. Todorov, A. J. Greimas, G. Genette… Tiếp theo
phải kể đến các nhà tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa như M. Bakhtin,
I. U. Lotman, B. Uspenski… Lí thuyết tự sự học hiện đại bao gồm các
thành phần cơ bản: người kể chuyện, điểm nhìn, dòng ý thức, không gian,
thời gian, giọng điệu trần thuật…
Ở Việt Nam, một số nhà nghiên cứu đã quan tâm tìm hiểu và
dịch thuật các công trình về tự sự học như Trần Đình Sử, Cao Kim
Lan, Lê Phong Tuyết, Phan Thu Hiền, Nguyễn Đức Dân, Phương
Lựu, Lê Huy Bắc, Đặng Anh Đào… Các tác giả đã góp phần làm rõ
các những vấn đề cơ bản của tự sự học như: thời gian và không gian
trần thuật, cấu trúc của văn bản trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, tình
huống trần thuật, điểm nhìn, giọng điệu, ngôi phát ngôn…

1.2. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong
truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Trước thành tựu của công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau
1975, đặc biệt là thể loại truyện ngắn, các nhà nghiên cứu phê bình


6
đã tập trung bút lực nhằm giúp bạn đọc tiếp cận và thẩm định những
cách tân mới mẻ trong “bước ngoặt” của dòng chảy văn học hiện đại
Việt Nam. Luận án quan tâm đến những công trình, luận văn, luận
án, bài viết nghiên cứu từ góc nhìn tự sự của các tác giả như Nguyễn
Thị Bình, Phùng Ngọc Kiếm, Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Văn
Hiếu, Phan Cự Đệ, Nguyễn Thị Huệ, Nguyễn Thị Thu Thủy, Lê Thị
Hương Thuỷ, Ngô Thu Thuỷ… Những công trình nghiên cứu này tập
trung đi sâu vào những phương diện của nghệ thuật tự sự trong
truyện ngắn Việt Nam đương đại như cách xây dựng nhân vật, giọng
điệu, điểm nhìn, ngôn ngữ, kết cấu và cốt truyện, khoảnh khắc và tình
huống, thời gian và không gian trần thuật…
1.3. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong
truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma
Văn Kháng
1.3.1. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong
truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu
Có thể kể đến một số công trình, luận án, luận văn, bài viết của
Tôn Phương Lan, Nguyễn Văn Long, Trịnh Thu Tuyết, Phạm Thị
Thanh Nga, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Tri Nguyên… Các công
trình này đã có những đóng góp khoa học ý nghĩa. Song, vấn đề ngôi
kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật lại không phải là trọng tâm của
nhiệm vụ nghiên cứu.
1.3.2. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong

truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Khải
Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình tâm huyết tìm hiểu về sáng tác
Nguyễn Khải như Lại Nguyên Ân, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ,
Nguyễn Văn Hạnh, Đoàn Trọng Huy, Chu Nga, Vương Trí Nhàn,
Đào Thuỷ Nguyên, Huỳnh Như Phương, Trần Đình Sử, Bích Thu


7
Song, các tác giả chủ yếu đi sâu tìm hiểu về Nguyễn Khải với những
chặng đường văn học gắn với dân tộc và thời đại; giá trị các sáng tác;
phong cách tác giả; chuyện văn, chuyện đời của nhà văn chứ chưa đi sâu
tìm hiểu nghệ thuật tự sự trong văn xuôi nói chung và trong truyện
ngắn của ông nói riêng.
1.3.2. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong
truyện ngắn sau 1975 Ma Văn Kháng
Luận án quan tâm khảo sát bài viết và công trình nghiên cứu của tác
giả Đỗ Phương Thảo, Lã Nguyên, Nguyễn Thị Huệ, Phong Lê,
Nguyễn Ngọc Thiện… và nhận thấy, các tác giả này đã quan tâm đến
việc tìm hiểu sáng tác Ma Văn Kháng từ phương diện tự sự học, song
chưa toàn diện và còn nhiều lời ngỏ.
Qua việc khảo sát lịch sử vấn đề nghiên cứu, chúng tôi đi đến một số
nhận định sau:
- Ở nước ngoài, nghiên cứu văn học dựa trên lí thuyết tự sự là
hướng nghiên cứu được quan tâm.
- Ở Việt Nam, những công trình vận dụng lí thuyết tự sự học để
nghiên cứu tác phẩm văn học chưa phổ biến.
- Đã có những công trình luận văn, luận án bàn về các yếu tố
của của cấu trúc tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Khải, Ma Văn Kháng nhưng chỉ nghiên cứu từng tác giả.
- Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng là những

tác giả được bàn, được viết rất nhiều trong những năm qua. Tuy
nhiên, việc tiếp cận, nghiên cứu sáng tác của họ từ góc độ tự sự học
thì vẫn còn những khoảng “thưa vắng”, chưa có công trình nghiên
cứu hệ thống về truyện ngắn của ba nhà văn tiêu biểu cho thế hệ “mở
đường”, tiên phong trong đổi mới thể loại ở một chặng đường chuyển
tiếp đầy khó khăn của văn xuôi hiện đại Việt Nam.


8
CHƢƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TỰ SỰ HỌC.
KHÁI LƢỢC VỀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975
2.1. Một số vấn đề cơ bản của tự sự học
2.1.1. Người kể chuyện (NKC)
Người kể chuyện thực chất là những “sinh thể” trên giấy, tồn
tại trong thế giới hư cấu và tưởng tượng, là nhân vật do tác giả sáng
tạo ra có nhiệm vụ tổ chức kết cấu tác phẩm và môi giới, dẫn dắt
người đọc tiếp cận thế giới nghệ thuật, thay mặt nhà văn bày tỏ quan
điểm về con người, cuộc đời và nghệ thuật. Người kể chuyện có mối
quan hệ với các yếu tố trong cấu trúc văn bản như điểm nhìn, tiêu
điểm, tiêu cự, ngôn ngữ, nhân vật, không gian, thời gian, người quan
sát, người được tiêu điểm hóa… và các yếu tố khác như người nghe
chuyện, tác giả hàm ẩn, tác giả thực và độc giả thực. Người kể
chuyện được chia thành ba kiểu: người kể chuyện ở ngôi thứ ba
(NT3); người kể chuyện ở ngôi thứ nhất (NT1); người kể chuyện ở
ngôi thứ hai.
2.1.2. Điểm nhìn nghệ thuật (ĐNNT)
Điểm nhìn trong ĐNNT không chỉ là “vị trí từ đó người trần
thuật nhìn ra và miêu tả sự vật” mà nó còn mang tính chất tâm lí, là
“chỗ đứng” thể hiện lập trường, tư tưởng, quan điểm của nhà văn.

Trên cơ sở tiếp thu và vận dụng lí thuyết tự sự học, luận án tiến hành
khảo sát và phân loại các hình thức: tự sự NT3 (điểm nhìn bên ngoài,
điểm nhìn bên trong, điểm nhìn phức hợp); tự sự NT1 (điểm nhìn đơn
tuyến, điểm nhìn đa tuyến).
2.1.3. Giọng điệu trần thuật
Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức
của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn


9
quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm
thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm.
Giọng điệu thể hiện phong cách nhà văn nhưng giọng điệu cũng chịu
sự chi phối của thời đại, gắn liền với thời đại. Mỗi giai đoạn văn học
mang một âm hưởng đặc trưng, một giọng điệu riêng. Sự đa sắc thái
về giọng điệu được thể hiện ngay trong từng tác giả và từng tác phẩm
trên cơ sở một giọng điệu “chủ âm”.
2.2. Khái lƣợc về truyện ngắn Việt Nam sau 1975
2.2.1. Quá trình vận động của truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975
đến nay
2.2.1.1. Giai đoạn từ 1975 đến 1985 - những tín hiệu đổi mới
Sau 1975, đề tài chiến tranh và những vấn đề thời sự - chính trị
vẫn là cảm hứng và mối quan tâm của văn học. Tuy nhiên, trong hoạt
động sáng tác đã xuất hiện một số tác phẩm văn học đi "chệch"
đường ray của tư duy nghệ thuật giai đoạn trước, tìm kiếm hướng
khai thác mới - khai thác chiều sâu tâm lý và nỗi đau thân phận
con người.
2.2.1.2. Giai đoạn từ 1986 đến nay - đổi mới và phát triển
Những cây bút truyện ngắn từng sống và viết trong chiến tranh,
những cây bút thế hệ “7X”, “8X” với ý thức đổi mới văn học ngày

càng mạnh mẽ đã rất nỗ lực để khẳng địng bản lĩnh và cá tính sáng
tạo của mình.
2.2.2. Đổi mới tư duy nghệ thuật
2.2.2.1. Từ hiện thực chiến tranh sang hiện thực thời bình
Sau 1975, từ cái nhìn một chiều đến cái nhìn đa chiều, “biên độ
hiện thực” đã được nới rộng, truyện ngắn Việt Nam có điều kiện
chiếm lĩnh đời sống nhiều hơn.


10
2.2.2.2. Từ con người sử thi sang con người đời thường
Con người được đặt trong mối quan hệ đời thường với tất cả
những biểu hiện tốt - xấu. Mỗi con người là “một thế giới riêng” đòi
hỏi nhà văn phải khám phá bằng cái nhìn biện chứng.
2.2.2.3. Từ trần thuật theo quan điểm sử thi sang trần thuật theo quan điểm
đời tư, thế sự
Quá trình vận động và đổi mới của văn học sau 1975 gắn với
quá trình đổi mới của nghệ thuật trần thuật: gia tăng điểm nhìn trần
thuật là cơ sở để xuất hiện nhiều kiểu giọng điệu trong trần thuật,
nhãn quan ngôn ngữ của văn xuôi dân chủ và cởi mở hơn.
2.2.3. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng trong
dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam sau 1975
2.2.3.1. Nguyễn Minh Châu - “người tiên phong” trong công cuộc
đổi mới văn học dân tộc
Từ những trang văn trữ tình đậm sắc màu lãng mạn với vẻ đẹp
rạng rỡ, hào sảng của cuộc sống và con người trong chiến tranh,
Nguyễn Minh Châu trở về cuộc sống đời thường với nỗi day dứt, trăn
trở về số phận con người và sự phát triển của đất nước sau cơn binh lửa.
2.2.3.2. Nguyễn Khải với đối thoại nhiều chiều về những vấn đề nhân
sinh, nhân thế

Sau 1975, sáng tác của Nguyễn Khải đã mở rộng, khơi sâu khả
năng nhận thức và tự ý thức của con người trước hiện thực. Nhà văn
đặt nhân vật trong đối thoại nhiều chiều để soi chiếu chân lí đời sống.
2.2.3.3. Ma Văn Kháng và một chặng đường mới trên hành trình
nghệ thuật
Cách nhìn cuộc sống và con người của Ma Văn Kháng từ sau
1975 đã đạt đến độ sâu sắc, giàu chiêm nghiệm. Trong công cuộc “khai
mở” nền văn học mới, sáng tác của Ma Văn Kháng thể hiện sự đổi mới
trong cách chiếm lĩnh hiện thực và cái nhìn mới về con người.


11
CHƢƠNG 3
NGÔI KỂ VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN NGẮN
SAU 1975 CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI,
MA VĂN KHÁNG
3.1. Truyện ngắn kể theo ngôi thứ ba của Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng
3.1.1. Người kể chuyện ẩn mình kể theo điểm nhìn bên ngoài (ĐNBN)
Vận dụng lối kể NT3 theo ĐNBN, Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng miêu tả một cách khách quan những gì
nghe thấy, nhìn thấy. Người đọc tiếp nhận sự việc một cách dân chủ,
bình đẳng mà không chịu sự định hướng của bất cứ điểm nhìn nào.
Hầu hết các tác phẩm kể ở NT3 theo ĐNBN của ba nhà văn này đều
được kể lại một cách thuần tuý bởi một NKC ẩn mình trong tác phẩm
(Móng vuốt thời gian, Seo ly, kẻ khuấy động tình trƣờng, Hoa
gạo đỏ… - Ma Văn Kháng; Lũ trẻ ở dãy K, Hƣơng và Phai -
Nguyễn Minh Châu; Nơi về - Nguyễn Khải).
Các truyện kể ở NT3 theo ĐNBN của Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng thường có nội dung đơn giản. Không

gian của truyện cũng là những không gian quen thuộc, nhỏ hẹp như
những khu chung cư, khu gia đình, khu phố nhỏ…Nhân vật thiên về
tự biểu hiện mình qua những hành động, lời nói, cử chỉ. Nếu có trạng
thái tâm lí thì cảm xúc chủ yếu được thể hiện qua những biểu hiện
bên ngoài. Đó cũng là xu thế chung của văn học Việt Nam sau 1975.
Cánh cửa dân chủ của tư duy nghệ thuật đã được mở rộng. Những
chuyện thường ngày mang theo tinh thần dân chủ “ùa” vào các sáng
tác văn chương. Qua đó, cuộc sống tự nó phô ra tất cả vẻ thô ráp, xù
xì, tươi nguyên, sống động và chân thật như vốn có. Trong ba nhà


12
văn, Ma Văn Kháng là người sử dụng hình thức kể này nhiều hơn cả.
Có thể nói, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng đã
đóng góp không nhỏ vào công cuộc đổi mới văn học với mảng truyện
ngắn kể ở NT3 theo ĐNBN.
3.1.2. Người kể chuyện ẩn mình kể theo điểm nhìn bên trong (ĐNBT)
Các truyện ngắn tự sự NT3 theo ĐNBT của Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng đều được kể theo điểm nhìn cố
định của nhân vật. Nhân vật mang điểm nhìn thường là nhân vật
chính. Người kể chuyện “nương theo giác quan, tâm hồn nhân vật để
cảm nhận thế giới”. Anh ta không phải là một “thượng đế toàn
thông” điều gì cũng biết. Anh ta chỉ biết từ một nhân vật và trong
phạm vi ý thức của nhân vật ấy. Vị trí quan sát của NKC rất gần và ít
di động. Người kể là người hiểu nhân vật sâu sắc hơn bất cứ ai. Sự
biết của anh ta ngang bằng với sự biết của nhân vật về chính bản thân
nó. Nhân vật không thiên về hành động, nói năng mà chìm trong
những suy nghĩ triền miên (Bến quê - Nguyễn Minh Châu, Đàn bà -
Nguyễn Khải, Bến bờ, Mẹ và con, Đợi chờ… - Ma Văn Kháng)
Với hình thức kể chuyện này, NKC sẽ tạo cho người đọc ảo

tưởng về tính chân thực của câu chuyện. Thế giới bên trong của nhân
vật được miêu tả trực tiếp với sự phân tích, bình luận của NKC. Việc
NKC di chuyển điểm nhìn trần thuật vào bên trong đã thể hiện đầy đủ
hơn khả năng chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật
về con người của các nhà văn. Những truyện ngắn này được tạo dựng
từ cốt truyện tâm lý và thiên về biểu hiện tư tưởng nhiều hơn sự kiện.
Người đọc thường xuyên bắt gặp trong truyện những lời kể mang
tính chất nửa trực tiếp. Người kể chuyện thiên về “kể tư tưởng” nên
trong truyện thường xuất hiện trường từ vựng chỉ ý thức và cảm giác
của nhân vật. Nổi bật về hình tượng NKC trong những truyện ngắn ấy


13
là người kể đặc biệt tinh tế, từng trải, hiểu đời và hiểu người. Với hình
thức tự sự này, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng đã
hài hoà giữa truyền thống và cách tân, là cầu nối và khởi động cho sự
đổi mới văn học Việt Nam sau 1975.
3.1.3. Người kể chuyện ẩn mình dịch chuyển điểm nhìn
Những truyện ngắn Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng vận dụng phương thức tự sự này
luôn có sự dịch chuyển điểm nhìn linh hoạt. Tính di động của điểm
nhìn thể hiện ở sự thay đổi vị trí quan sát (chủ thể kể) hoặc vị trí được
quan sát (đối tượng kể). Nhà văn giới hạn điểm nhìn tự sự vào “nhãn
quan” của nhân vật (Cơn giông; Mẹ con chị Hằng; Khách ở quê ra
và Phiên chợ Giát - Nguyễn Minh Châu; Luật trời, Ông cháu -
Nguyễn Khải; Trái chín mùa thu, Ngày đẹp trời, Một chốn
nƣơng, Heo may, gió lộng… - Ma Văn Kháng). Người kể chuyện
được hình dung như một con người cụ thể có đặc điểm tâm lý, tính
cách, có lập trường tư tưởng và nhận thức riêng ở một vị trí thời gian,
không gian nhất định.

Ở các truyện ngắn này, sự việc chỉ là “con đường đi vào thế
giới nghệ thuật” của nhà văn. Khi đến được “thế giới nghệ thuật”,
người đọc phải tự thẩm thấu theo lăng kính chủ quan của mình bởi
không còn NKC “đạo diễn” định hướng mọi cách nhìn, cách nghĩ
cho độc giả. Và như vậy, người đọc cũng là một “thành viên” trong
cuộc tranh luận, đối thoại để đi tìm chân lí. Nguyễn Minh Châu
thường nắm bắt tâm lí nhân vật một cách tinh nhạy, nhìn ra những
tình huống có vấn đề ở những sự việc tưởng như bằng phẳng.
Nguyễn Khải quan tâm đến sự kiện, bám nhiều vào hiện thực để triển
khai mạch trần thuật. Ma Văn Kháng lại thường bắt đầu từ thông tin
bên ngoài rồi dẫn người đọc vào thế giới nội tâm nhân vật.


14
3.2. Truyện ngắn kể theo ngôi thứ nhất của Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng
3.2.1. Người kể chuyện xưng “tôi” duy nhất kể theo điểm nhìn đơn
tuyến (ĐNĐT)
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng chọn một
nhân vật xưng “tôi” duy nhất để kể chuyện. “Tôi” có thể không phải
là nhân vật chính nhưng điểm nhìn của anh ta luôn là trung tâm định
hướng (Bức tranh, Sắm vai, Một lần đối chứng… - Nguyễn Minh
Châu; Ngƣời ngu, Phía khuất mặt ngƣời… - Nguyễn Khải; Ngƣời
giúp việc, Suối mơ, Chị Thiên của tôi, Thầy Khiển… - Ma Văn
Kháng). Bên cạnh đó có hiện tượng một NKC mang hai điểm nhìn
của chính “tôi”: “tôi” của hiện tại và “tôi” của quá khứ. Cái “tôi” là
những con người cụ thể, hiện hữu, xác định, có quan điểm, tư tưởng
và đạo đức (hầu hết là nhà văn, nhà thơ, nhà báo, hoạ sĩ…). Truyện
thường có kết cấu: mở ra là hiện tại - hồi tưởng quá khứ - kết thúc là
hiện tại với những suy tưởng, chiêm nghiệm. Thế giới nghệ thuật là

thế giới “một thời đã xa” nay chỉ còn “vang bóng”. Điều các tác
phẩm hướng tới là vấn đề “đôi mắt”, là cái nhìn, suy nghĩ của “tôi”,
“cái ý thức của tôi”. Có thể nói, truyện kể ở NT1 với NKC xưng
“tôi” duy nhất thường mang màu sắc “phản tỉnh”. Trong nhiều tác
phẩm, người đọc có cảm giác không chỉ lắng nghe “tôi” kể chuyện
mà còn đồng cảm và cùng thức tỉnh với tâm trạng, nỗi niềm của
“tôi”. Nhịp điệu kể hòa với điệu tâm hồn lúc trầm lắng, suy tư, lúc
nao nao, thổn thức… Vì vậy, chiếm ưu thế trong các truyện ngắn này
là lời kể với sự xuất hiện thường trực những tập hợp từ như: “một
hôm”, “đêm ấy”, “từ đó”, “ngày hôm đó”, “sáng hôm sau”, “khi
trở lại”, “mỗi ngày”…Những từ ngữ này đã đưa người đọc hoà nhập
vào dòng hồi ức của NKC.


15
Hình thức trần thuật NT1 theo ĐNĐT đã tạo điều kiện cho nhà
văn khai thác nội tâm và những trải nghiệm cá nhân một cách sâu
sắc. Điều này xuất phát từ nhu cầu nhận thức lại trong văn học thời kì
đổi mới. Nguyễn Minh Châu thâm trầm, da diết; Nguyễn Khải sắc
sảo, giàu suy tư, triết luận; Ma Văn Kháng thấm đượm ân tình.
3.2.2. Nhiều người kể chuyện xưng “tôi” kể theo điểm nhìn đa
tuyến (ĐNĐaT)
Lối tự sự theo ĐNĐaT không phổ biến trong sáng tác của Nguyễn
Khải, Nguyễn Minh Châu và Ma Văn Kháng. Người kể chuyện “tôi” giữ
vai trò giới thiệu nhân vật, dẫn ra câu chuyện rồi sau đó “bàn giao” việc kể
cho một cái “tôi” khác (Ngƣời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành; Mùa
trái cóc ở Miền Nam - Nguyễn Minh Châu; Chuyện tình của mỗi ngƣời
- Nguyễn Khải) hoặc tham gia vào các tình tiết và giao lưu với các nhân
vật (Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ lau - Nguyễn Minh Châu; Một ngƣời
Hà Nội, Nắng chiều - Nguyễn Khải; Tóc Huyền màu bạc trắng, Nhiên!

Nghệ sĩ múa - Ma Văn Kháng) hoặc là nhiều NKC lồng ghép hai mạch
kể trong thế đối sánh, tạo ra hình thức truyện lồng truyện (Mùa trái cóc ở
Miền Nam - Nguyễn Minh Châu; Chị Mai - Nguyễn Khải…).
Những cái “tôi” ấy không bao giờ đứng yên mà nó luôn vận động,
luôn tư duy để thực hiện hai chức năng nhận thức và tự ý thức. Vì vậy,
“tôi” không phải chỉ kể chuyện (miêu tả những gì mắt thấy, tai nghe) mà
còn kể tâm trạng (kể về những gì “tôi cảm”, “tôi nghĩ”, “tôi tư duy”). Đó
là hình thức kể - suy ngẫm, kể - tự ý thức, kể - độc thoại, kể - đối thoại,
tranh biện. Nó có khả năng tác động tới cả lí trí và tình cảm của người
đọc. Vì thế, kết thúc câu chuyện họ kể bao giờ cũng là những nhận
thức về lẽ phải, về lẽ sống cao đẹp xứng đáng với hai chữ Con
Người. Đây là sự đổi mới về nghệ thuật trần thuật của văn học Việt Nam
sau 1975 so với văn học truyền thống và văn học trước đó.


16
CHƢƠNG 4
GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
SAU 1975 CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI,
MA VĂN KHÁNG

4.1. Giọng điệu khẳng định, ngợi ca
Giọng điệu khẳng định, ngợi ca trong văn học Việt Nam sau
1975 đã nhạt dần chất sử thi cùng âm hưởng hào sảng. Với niềm tin
thiết tha, với tâm lí “dưỡng thiện”, các nhà văn luôn trăn trở, tìm tòi
để khám phá vẻ đẹp từ con người và cuộc đời. Giọng điệu khẳng
định, ngợi ca trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Khải, Ma Văn Kháng được thể hiện phong phú, đa dạng. Mỗi tác giả
một “tạng” riêng nhưng giọng điệu ấy đều được cất lên từ tình yêu
sâu nặng với cuộc đời, từ trái tim nhân hậu “nhìn” ra vẻ đẹp của con

người trong bộn bề lo toan, từ niềm tự hào về vẻ đẹp thiên nhiên, quê
hương, đất nước và những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc
(Ngƣời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cơn giông, Cỏ lau,
Khách ở quê ra, Chiếc thuyền ngoài xa, Phiên chợ Giát - Nguyễn
Minh Châu; Hai ông già ở Đồng Tháp Mƣời, Chuyện tình của mỗi
ngƣời, Chị Mai, Một ngƣời Hà Nội, Một bàn tay và chín bàn tay -
Nguyễn Khải; Giàng Tả - Kẻ lang thang, Hoa Gạo đỏ, Seo Ly - Kẻ
khuấy động tình trƣờng, Nhiên! Nghệ sĩ múa, Chị Thiên của tôi,
Tóc Huyền màu bạc trắng - Ma Văn Kháng)…
Cùng ngợi ca con người nhưng mỗi nhà văn có cách thể hiện
riêng. Chẳng hạn, cùng nói về vẻ đẹp người phụ nữ, Nguyễn Minh
Châu thiên về miêu tả cái duyên ngầm thể hiện trong ánh mắt và
dáng người; Nguyễn Khải tập trung miêu tả các chi tiết của ngoại
hình như khuôn mặt, ánh mắt, dáng người, hàm răng, còn Ma Văn


17
Kháng lại đặc biệt ưu ái và thể hiện cảm hứng trân trọng, ngợi ca ở
"thiên tính nữ" với vẻ đẹp phồn thực, đầy chất sinh tỏa, với sức sống
mãnh liệt và sức thu hút kỳ lạ.
Giọng điệu khẳng định, ngợi ca trong sáng tác của Nguyễn
Minh Châu được bộc lộ trực tiếp qua các phương tiện ngôn ngữ như:
cách xưng hô của NKC đối với nhân vật được kể, sử dụng những từ
ngữ miêu tả cảm xúc mãnh liệt của nhân vật, những gam màu gây ấn
tượng mạnh, những hình ảnh kỳ vĩ, hoành tráng Nguyễn Khải miêu
tả với ngôn ngữ hiệ n thự c, giàu chất sống nên giọng điệu khẳng định,
ngợ i ca không rạ ng rỡ , hoành tráng mà chừ ng mự c , điề m tĩnh, chân
thự c. Ma Văn Kháng lại thường dùng những mĩ từ, những hình ảnh
so sánh bay bổng… cảm xúc lộ diện ngay trên câu chữ.
4.2. Giọng điệu trào lộng, châm biếm

Sự mở rộng các phạm trù thẩm mĩ khiến văn học gần với đời
thường hơn. Giọng điệu trào lộng, châm biếm trong truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng không chỉ nhằm
tạo ra tiếng cười giải trí mà đằng sau đó mang chứa cả một nỗi trăn
trở, suy tư trước nhiều vấn đề của thời hậu chiến.
Làm nên sự đổi mới trong nghệ thuật trần thuật của văn học
Việt Nam sau 1975 nói chung và truyện ngắn nói riêng là giọng điệu
trào lộng, châm biếm mang màu sắc tự trào. Trong truyện ngắn của
ba nhà văn, giọng điệu tự trào của Nguyễn Khải được thể hiện rõ hơn
cả (Số ng giƣ̃ a đá m đông, Anh hù ng bĩ vậ n, Ngƣờ i ngu).
Giọng điệu trào lộng, châm biếm trong truyện ngắn của ba nhà
văn này còn thể hiện thái độ bất bình trước thói hư tật xấu, trước sự
“đố kỵ”, lòng “ghen ăn tức ở” của người đời (Mùa trái cóc ở miền
Nam - Nguyễn Minh Châu; Chuyệ n tình củ a mỗ i ngƣờ i , Đà n bà -
Nguyễ n Khả i; Móng vuốt thời gian, Cái Tý Ngọ, Trăng soi sân


18
nhỏ - Ma Văn Kháng). Bằng giọng điệu này, các tác giả đã phản ánh
một phần hiện thực của xã hội đương thời.
Giọng điệu trào lộng, châm biếm trong sáng tác của Nguyễn
Minh Châu được diễn tả qua việc sắp xếp các chi tiết, sự việc trái
ngược nhau, hệ thống những từ ngữ miêu tả kết hợp với thủ pháp vật
hoá, phép so sánh, thủ pháp gây cười của dân gian và đặc trưng của
văn học trào phúng. Nguyễ n Khả i dùng giọ ng điệ u trà o lộ ng , châm
biế m chỉ như mộ t “gia vị ” để là m dịu đi nhữ ng “ ngổ n ngang , bề
bộ n”. Ma Văn Kháng lại thường thể hiện qua những chi tiết miêu tả
ngoại hình. Tiếng cười của Nguyễn Minh Châu thể hiện sự trăn trở,
day dứt về nhân sinh. Nguyễn Khải lại hóm hỉnh, thâm trầm với tiếng
cười hài hước, dí dỏm đầy chất nhân văn. Tiếng cười của Ma Văn

Kháng tuy không gay gắt nhưng cũng rất sâu sắc và thấm thía. Mỗi
ngòi bút một sắc thái giọng điệu khác nhau, song ta đều đọc được ở
đó thái độ phê phán những thói hư, tật xấu của con người, phơi bày
những tồn tại của cuộc sống thời hậu chiến phức tạp. Nó thức tỉnh
phần người trong mỗi chúng ta, nó thanh lọc tâm hồn để con người
xây dựng một cuộc sống tươi đẹp hơn.
4.3. Giọng điệu xót xa, thƣơng cảm
Sau 1975, giọng điệu xót xa, thương cảm lắng đọng trong từng
câu, từng chữ khi các nhà văn viết về những mảnh đời bất hạnh và
bộc lộ nỗi buồn sâu lắng trước sự hiện diện của cái xấu, cái ác trong
cuộc đời (Ngƣời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Khách ở quê
ra, Bến quê - Nguyễn Minh Châu; Cặ p vợ chồ ng ở chân độ ng Tƣ̀
Thƣ́ c, Mộ t bà n tay và chí n bà n tay , Đời khổ, Ông chá u - Nguyễ n
Khải; Ngƣời giúp việc, Chọn chồng, Nợ đời - Ma Văn Kháng… )
Để thể hiện giọng điệu này, Nguyễn Minh Châu thường dùng
những từ ngữ miêu tả nỗi buồn đau, câu văn miêu tả cảnh vật, lời độc


19
thoại nội tâm, lời nửa trực tiếp. Nguyễ n Khả i sử dụng nhiều từ
“buồ n”, lờ i nử a trự c tiế p và để nhân vậ t bậ t khó c . Ma Văn Kháng sử
dụng lời văn mang sắc màu cảm thán bằng những lời than và hình
thức câu hỏi tu từ, lối viết lặp cú pháp, lời nửa trực tiếp, trường từ
ngữ chỉ nỗi buồn đau Giọng điệu xót xa, thương cảm của Nguyễn
Minh Châu mang sắc vẻ thâm trầm, chiêm nghiệm, cảm thương chìm
sâu trong mạch ngầm văn bản; Nguyễn Khải bộc lộ ngay trên câu
chữ, trên những số phận cay cực của cuộc đời thường nhật; Ma Văn
Kháng thì thương đời, thương người - một tình thương đồng loại đầy
sâu sắc, ưu tư của người cầm bút. Có thể nói, giọng điệu xót xa,
thương cảm trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,

Ma Văn Kháng đã góp phần thể hiện tiếng nói nhân đạo trong văn
học Việt Nam sau 1975.
4.4. Giọng điệu trầm tƣ, triết lý
Giọng điệu trầm tư, triết lí trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng thể hiện qua những triết lí về
văn chương nghệ thuật, về cuộc đời và con người. Triết lí về văn
chương nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn
Kháng là những trải nghiệm, những bài học được đúc rút từ chính
hành trình viết, từ sự cật vấn, trăn trở lương tâm của người cầm bút
về vai trò người nghệ sĩ trong cuộc đời (Chiếc thuyền ngoài xa, Bức
tranh - Nguyễn Minh Châu, Phía khuất mặt ngƣời - Nguyễn Khải;
Trăng soi sân nhỏ - Ma Văn Kháng).
Triết lí về cuộc đời trong truyện ngắn của ba nhà văn giản dị,
sâu sắc, giàu chiêm nghiệm (Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng, Ngƣời
đàn bà trên chuyến tàu tốc hành - Nguyễn Minh Châu, Cặ p vợ
chồ ng ở chân độ ng Tƣ̀ Thƣ́ c, Số ng giƣ̃ a đá m đông - Nguyễn Khải;
Móng vuốt thời gian, Thanh minh trời trong sáng - Ma Văn


20
Kháng). Nguyễn Minh Châu triết lí bằng ngôn ngữ hình tượng.
Nguyễn Khải ưa triết lí bằng cách phát biểu trực tiếp qua ngôn ngữ lí
luận. Còn Ma Văn Kháng dùng những thủ pháp nghệ thuật hỗ trợ cho
diễn đạt. Thế nên, giọng điệu trầm tư, triết lý của Nguyễn Minh Châu
mang màu sắc thâm trầm, trữ tình; của Nguyễn Khải mang màu sắc
hiện thực, tỉnh táo; của Ma Văn Kháng lại tự nhiên như cuộc đời.
Giọng điệu triết lí đã tăng sức khái quát cho hình tượng nghệ thuật và
tạo được độ “nén” cho những trang văn.
4.5. Sự kết hợp, đan xen nhiều giọng điệu
Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật (từ văn chương minh hoạ

sang văn chương nghiên cứu và khám phá đời sống; từ con người sử
thi đến con người đời thường) và nội dung tự sự (từ những bài ca ra
trận đến những bi kịch cá nhân, sám hối, nỗi đau…) đã quy định việc
tổ chức nhiều điểm nhìn. Sự di chuyển điểm nhìn tạo cho truyện có
nhiều giọng kể. Trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Khải, Ma Văn Kháng, bên cạnh sự chi phối của giọng điệu chủ đạo,
các giọng điệu đã tương hỗ nhau để tạo nên tính đa thanh giàu sức
hấp dẫn và tính tranh biện, đối thoại cho tác phẩm. Sự đa dạng của
giọng điệu trần thuật là một phương tiện để nhà văn thể hiện, chuyển tải
tính phức tạp của cuộc sống đương đại trong cái nhìn đa chiều.
Mỗi nhà văn đều tạo cho mình giọng điệu mang phong cách
riêng. Nếu trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, chủ âm vẫn là
giọng điệu triết lý thâm trầm thì trong truyện ngắn của Nguyễn Khải,
giọng điệu chủ âm là giọng tranh biện, đối thoại thể hiện sự trải
nghiệm cá nhân và Ma Văn Kháng lại là giọng ngợi ca mang đậm
màu sắc trữ tình, mượt mà, duyên dáng thể hiện sự đắm say của trái
tim nồng hậu.


21
KẾT LUẬN
1. Tự sự là phương thức tái hiện đời sống, là một phương thức
tạo nghĩa và truyền đạt thông tin. Tự sự học là hệ thống lí thuyết có
nội hàm nghiên cứu sâu rộng. Nghệ thuật tự sự bao gồm nhiều thành
phần. Người kể chuyện do nhà văn sáng tạo, dù không hoàn toàn
trùng khít nhưng họ vẫn có sự thống nhất về quan điểm (tác giả là
người tổ chức truyện kể, lựa chọn người kể, ngôi kể và điểm nhìn
phù hợp). Như vậy, sợi dây liên hệ giữa NKC và tác giả được xác lập
thông qua hệ thống điểm nhìn. Điểm nhìn trần thuật là điểm nhìn của
chủ thể trần thuật khi anh ta tham gia kể chuyện. Sự chuyển đổi linh

hoạt điểm nhìn đã phá vỡ tính đơn giọng. Giọng điệu trần thuật biểu
hiện thái độ, cảm xúc, tư thế của chủ thể phát ngôn… Trên cơ sở
trình bày lí thuyết về tự sự học và nội dung của khái niệm nghệ thuật
tự sự (người kể chuyện, điểm nhìn, giọng điệu), chúng tôi tiến hành
khảo sát, phân tích truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Khải, Ma Văn Kháng - thuộc xu thế truyện ngắn cách tân trên nền
truyền thống. Quá trình vận dụng lí thuyết tự sự vào việc nghiên cứu
tác phẩm cụ thể vừa có ý nghĩa làm sáng rõ các vấn đề lý thuyết vừa
giúp chúng tôi hiểu sâu sắc hơn bản chất sáng tạo của nhà văn, sự vận
động, đổi mới của truyện ngắn Việt Nam sau 1975.
2. Những truyện ngắn sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng đã góp phần không nhỏ tạo nên
diện mạo văn học Việt Nam trong thời kì mới. Truyện của họ phần
nhiều không có cốt truyện phức tạp, không chứa đựng những mâu
thuẫn kịch tính, những tình tiết ly kỳ. Nói đúng hơn, nhiều truyện
không có chuyện mà chỉ là những dòng suy cảm của nhân vật. Khai
thác đề tài đời tư, thế sự, mỗi nhà văn có cách thể hiện riêng. Mỗi


22
truyện chỉ là “lát cắt” của đời sống nhưng đã chuyên chở bao ý tưởng
nghệ thuật của người cầm bút. Các tác giả đã thể hiện tài năng trong
việc vận dụng linh hoạt các hình thức tự sự. Người kể chuyện khi thì
kể ở NT1 (ĐNĐT, ĐNĐaT) khi thì kể ở NT3 (ĐNBT, ĐNBN,
ĐNPH). Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải thiên về kể NT1 với
ĐNĐT. Ma Văn Kháng lại thiên về kể ở NT3 với ĐNBN. Ta nhận
thấy, NKC trong những truyện ngắn của họ không chỉ là người kể
hay là một nhân vật mà là một hình tượng nghệ thuật sống động và
đảm nhiệm nhiều chức năng khác nhau: hoặc đứng ngoài câu chuyện,
hoặc tham gia trực tiếp vào các tình tiết của truyện, hoặc đứng ngoài

nhân vật hoặc nhập vai vào nhân vật để kể. Điểm nhìn cũng không
đơn thuần là sự quan sát mà còn mang tính chất tâm lý thể hiện mức
độ cảm xúc và chiều sâu tư tưởng của tác giả. Vì thế, NKC bao giờ
cũng là con người hiện hữu, cụ thể, xác định, luôn đối thoại, tranh
biện với độc giả và nhà văn. Điều này bắt nguồn từ sự thay đổi quan
niệm, tư duy về thể loại và đó cũng là cơ sở của sự xuất hiện nhiều
giọng điệu trần thuật trong văn học Việt Nam sau 1975. Qua việc tìm
hiểu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, chúng tôi khẳng định vai trò
của các nhà văn trong tiến trình đổi mới văn học Việt Nam đương đại
và nhận diện phong cách nghệ thuật của họ.
3. Sự linh hoạt điểm nhìn đã phá vỡ tính đơn giọng trong văn
học trước đây. Sự đan xen các giọng điệu trần thuật (khẳng định,
ngợi ca; trào lộng, châm biếm; xót xa, thương cảm; suy ngẫm, triết lí)
đã tạo ra các văn bản mang sắc thái đa thanh giúp chuyển tải tư tưởng
nghệ thuật một cách đầy đủ và đa chiều. Sự đổi mới về tư duy nghệ
thuật đã tạo điều kiện để văn học phản ánh hiện sâu sắc và toàn diện.
Hiện thực cần phải được nghiên cứu từ nhiều phía và ý thức đối thoại


23
tranh biện xuất hiện. Mối quan hệ người đọc - nhà văn - nhân vật là
mối quan hệ dân chủ, bình đẳng. Giọng điệu khẳng định, ngợi ca cất
lên trước vẻ đẹp con người, vẻ đẹp của quê hương, đất nước. Giọng điệu
trào lộng, mỉa mai bộc lộ thái độ bất bình với cái ác, cái xấu và mang
màu sắc tự trào khi các nhà văn soi chiếu lại chính mình trong nhịp sống
hôm nay. Giọng điệu xót xa, thương cảm thể hiện sự sẻ chia của nhà văn
những đớn đau của thân phận bất hạnh và chua chát trước những thói đời
đen bạc. Giọng điệu suy ngẫm, triết lí là sự trải nghiệm của các nhà văn
trên hành trình sống và viết… Tùy thuộc vào đối tượng phản ánh, mỗi tác

phẩm đều nổi lên giọng điệu chủ đạo, khẳng định, ngợi ca; châm biếm, hài
hước; xót xa, thương cảm; suy ngẫm, triết lí… Trên nền bản hợp âm nhiều
chất giọng của văn học sau năm 1975, giọng điệu chủ âm của Nguyễn
Minh Châu là giọng triết lí, thâm trầm đầy suy ngẫm; Nguyễn Khải là
giọng triết lí, tranh biện, đối thoại; Ma Văn Kháng là giọng ngợi ca mang
đậm màu sắc trữ tình, mượt mà, duyên dáng, đắm say.
4. Hành trình sáng tạo của truyện ngắn Việt Nam sau 1975
khởi đầu từ những cây bút đã trưởng thành trong chiến tranh như
Xuân Thiều, Nguyễn Kiên, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng… đến những cây bút của thời kì
đổi mới như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài`, Tạ Duy Anh, Bảo
Ninh, Hồ Anh Thái, Phạm Ngọc Tiến… và những cây bút trẻ sinh ra
và lớn lên sau chiến tranh, thế hệ “7X”, “8X” như Nguyễn Ngọc Tư,
Đỗ Bích Thuý, Nguyễn Quỳnh Trang, Keng, Nguyễn Vĩnh Nguyên,
Phạm Duy Nghĩa, Nguyễn Thị Cẩm… Các thế hệ nhà văn đã tiếp sức
và nỗ lực lao động sáng tạo để làm nên diện mạo một giai đoạn văn
học đa phong cách. Vì vậy, vận dụng lí thuyết nghệ thuật tự sự
nghiên cứu tác phẩm văn học là một hướng tiếp cận mới phù hợp với
nền văn học mới.

×