ÁP DỤNG CÁC VIỆC PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MAI CỔ PHẦN CÔNG
THƯƠNG VIỆT NAM TỈNH LÂM ĐỒNG
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giai đoạn hiện nay, cùng với công cuộc hội nhập đất nước đã và đang đặt ra những
yêu cầu cấp thiết nhằm đảm bảo cho nền kinh tế nước ta được phát triển một cách vững
chắc. Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang diễn biến phức tạp, nền kinh tế trong nước tiếp
tục đối mặt với những khó khăn: sức mua trên thị trường thấp, khả năng hấp thụ vốn thấp,
sức ép nợ xấu cịn nặng nề… những nhân tố đó đã ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng
tín dụng của Việt Nam. Trong đó hệ thống ngân hàng có tầm quan trọng đặc biệt là kênh
cơ bản cung ứng vốn cho nền kinh tế để thực hiện các chỉ tiêu vĩ mơ của nền kinh tế. Đồng
thời là địn bẩy để thúc đẩy các chủ thể kinh tế hình thành trí thức kinh doanh trong điều
kiện mới, từ hiệu quả sử dụng nguồn vốn, lao động, nguyên vật liệu, đến tìm kiếm thị
trường và đổi mới cơng nghệ. Việc hình thành một hệ thống ngân hàng thương mại và các
quy định có liên quan nói chung và áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
trong hoạt động cho vay là điều mà các cơ quan quản lý nhà nước rất quan tâm trong thời
gian qua.Trong khi các hoạt động của ngân hàng thương mại mà nhất là hoạt động cho vay
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cung ứng tín dụng, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản
có, mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng thương mại đồng thời là hoạt động tiềm ẩn
nhiều rủi ro. Do đó sự ổn định và phát triển của ngân hàng thương mại nói riêng hay hệ
thống ngân hàng nói chung phụ thuộc phần lớn vào quy mơ và chất lượng cho vay.
Bên cạnh hoàn thiện các quy định trong hoạt động tín dụng thì việc kiện tồn các
quy định pháp luật về áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động
cho vay đã góp phần tạo lập một mơi trường pháp lý an tồn, thuận lợi cho q trình xử lý
tài sản thế chấp, giúp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch của
các ngân hàng thương mại. Có thể nói rằng, các quy định có liên quan đến áp dụng các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay ra đời có một ý nghĩa to
lớn trong đời sống xã hội, góp phần phát triển kinh tế xã hội, nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước về vấn đề trên. Bên cạnh những quy định của pháp luật hiện hành về áp dụng các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay trong các giao dịch bảo đảm của
các tổ chức tín dụng về lý luận đã khuyến khích việc sử dụng hợp lý và có hiệu quả trong
giao dịch của hệ thống ngân hàng thương mại, đồng thời, bảo vệ các quyền lợi của các chủ
thể có liên quan trong giai đoạn này. Thực tiễn áp dụng các quy định về áp dụng các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay tại các tổ chức tín dụng ở nước
ta trong các giai đoạn hiện nay được xác định là đúng đắn và phù hợp với điều kiện kinh
tế, xã hội ở nước ta. Ngoài ra, với quy định của Bộ luật dân sự, Luật tổ chức tín dụng thì
các băn bản pháp luật có liên quan là cơ sở pháp lý cho các chủ thể các bên thực hiện quyền
của mình trong hoạt động xử lý tài sản bảo đảm của các NHTM và cơ quan quản lý nhà
nước đáp ứng với u cầu của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Những năm trở lại đây thì hoạt động thế chấp tài sản đối với các tổ chức tín dụng
trở nên thường xuyên hơn. Nhu cầu về vay vốn để đưa vào sản xuất kinh doanh của người
dân càng nhiều. Trong quá trình mở cửa thị trường ở nước ta hiện nay thì thế chấp trong
giao dịch bảo đảm đối với các tổ chức tín dụng có vai trị quan trọng. Tuy vậy, hiện nay,
vấn đề xảy ra nợ xấu của các ngân hàng thương mại là điều vô cùng cần thiết. Cơ chế thu
hồi nợ xấu được TMCP chủ yếu là xử lý tài sản bảo đảm nói chung và áp dụng các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay của khách hàng là điều mà Đảng
và Nhà nước ta hiện nay rất quan tâm. Việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng là vấn đề nan giải khó giải quyết, đặc
biệt là đối với một số tài sản đặc biệt như quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, nhà
ở…., dẫn đến hàng nghìn tỷ đồng vốn của các ngân hàng thương mại chưa được xử lý. Xử
lý được tài sản thế chấp nói riêng và tài sản bảo đảm nói chung là con đường khá hiệu quả
để tổ chức tín dụng có thể thu hồi các khoản nợ.
Cùng với việc ban hành các quy định pháp lý có liên quan đến hoạt động xử lý tài
sản bảo của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã và đang tạo nền tảng cơ bản cho quá
trình thực hiện. Đặc biệt là Nghị định số 42/2017/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 21/6/2017
về thí điểm xử lý nợ của các tổ chức tín dụng đã và đang xử lý các quy phạm pháp luật
trong việc xử lý tài sản bảo đảm ở nước ta trong tình hình mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, các quy định của pháp luật hiện
hành vẫn chưa thực sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu điều chỉnh của thực tiễn xử lý tài sản bảo
đảm. Có thể khẳng định tín dụng ngân hàng trong giai đoạn hiện nay sẽ còn tiếp tục là một
kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế. Đối với hoạt động tín dụng, tài sản thế chấp của
các chủ thể đối với các TCTD được xem nhằm giảm thiểu rủi ro cho các TCTD nói chung,
góp phần quan giúp cho các TCTD thể thu hồi một phần hoặc tồn bộ gốc và lãi khi khách
hàng khơng trả được nợ. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác áp dụng các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay tại các tổ chức tín dụng trên thực tế còn
tồn tại nhiều bất cập. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật liên quan đến thế chấp tài sản và
áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay và áp dụng các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay đang ở trong tình trạng vừa
chồng chéo vừa thiếu hụt. Đây đang là vấn đề nổi cộm trong hoạt động của các TCTD, cần
phải có những giải pháp mang tính tồn diện nhằm nâng cao hiệu quả xử lý TSTC, thu hồi
các khoản nợ xấu trong các giao dịch nói chung. Tình trạng này là do tồn tại bất cập từ
nhiều phía: từ các văn bản pháp luật, các cơ quan chủ quản và các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, các TCTD nói chung...Những vấn đề có liên quan đến áp dụng các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay theo quy định hiện hành về cơ bản
đươc̣ điề u chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật như: Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Các
tổ chức tín dụng...và các văn bản hướng dẫn thi hành. Vì vâ ̣y, áp dụng đúng, linh hoa ̣t các
quy định pháp luật cũng như đưa ra các giải pháp hoàn thiện các vấn đề cịn thiếu đồng bộ,
khơng phù hợp của hệ thống pháp luật trong việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ trong hoạt động cho vay là vấn đề cấp bách hàng đầu đã và đang được đặt ra cho
các TCTD ở nước ta hiện nay.
Trong xu thế khách hàng doanh nghiệp đang có sự cạnh tranh lớn và chững lại thì
khách hàng cá nhân (nhu cầu vay tiêu dùng) đang có xu hướng tăng trưởng mạnh. Hiện
nay dịch vụ khách hàng cá nhân của Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank) –
tỉnh Lâm ĐỒng đối với khách hàng thì hoạt động áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ trong hoạt động cho vay vẫn còn nhiều bất cập làm ảnh hưởng chất lượng và hiệu
quả hoạt động áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay
còn khá nhiều hạn chế như nợ quá hạn cao bởi tác động của các nhân tố khách quan lẫn
chủ quan. Từ thực tiễn đó học viên ln trăn trở làm thế nào để phát triển hơn nữa hoạt
động áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay luôn là
vấn đề bức xúc, trăn trở không chỉ của chi nhánh mà còn của cả hệ thống Ngân hàng thương
mại cổ phần Cơng Thương Việt Nam tại tỉnh Lâm Đồng
Với những tính chất ưu việt nêu trên, vấn đề về áp dụng các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng trở thành một hoạt động
không thể thiếu được trong đời sống xã hội - nhất là trong nền kinh tế hàng hoá với cơ chế
mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và thế giới như hiện nay. Thế nhưng, thực tiễn của quá
trình áp dụng pháp luật về vấn đề này cịn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Vì vậy, nghiên cứu
về đề tài “Áp dụng các việc pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mai cổ phần Công thương Việt Nam tỉnh lâm đồng” làm luận
văn tốt nghiệp một việc làm hết sức cần thiết. Thông qua hoạt động nghiên cứu thì tác giả
nêu lên những quy định hiện hành về vấn đề này, thực tiễn áp dụng các quy định trong thực
tế, những khó khăn, vướng mắc trong q trình thực thi tại ngân hàng thương mại cổ phần
Cong thương Việt Nam. Đồng thời, tác giả kiến nghị và đề xuất các giải pháp góp phần
hồn thiện hệ thống pháp luật về áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong
hoạt động cho vay cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về vấn đề này tại ngân
hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, tỉnh Lâm Đồng.
2. Nghiên cứu, tham khảo liên quan đến đề tài
Liên quan đến nội dung về áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong
hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng đã có nhiều đề tài khoa học, luận văn, bài viết
đề cập vấn đề này. Có thể kể đến một số tài liệu nghiên cứu như sau:
+ Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật dân sự, NXB Cơng an nhân
dân, Hà Nội; Trường đại học quốc Gia Hà Nội (2015) Giáo trình Luật dân sự của Trường
đại học Quốc Gia Hà Nội: đã đề cập đến nội dung về vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm. Đồng
thời, có sự nhận định và có sự so sánh giữa hai bộ luật dân sự 2005 và BLDS 2015 để và
thực tiễn thực thi.
+ Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2015 của PGS.TS Nguyễn Văn Cừ và PGS.TS
Trần Thị Huệ đã có những phân tích về xử lý tài sản bảo đảm thông qua các quy định của
BLDS 2015 và đưa ra những nhận xét có liên quan trong thực tiễn áp dụng và quy định
hiện hành.
Một số đề tài luận văn nghiên cứu có liên quan như:
+ Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản của ngân hàng thương
mại ở Việt Nam (Đỗ Thanh Huyền, 2011, Luận văn thạc sĩ- khoa Luật, trường Đại học
Quốc Gia Hà NỘi): Làm rõ những vấn đề lý luâ ̣n liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay là bất động sản của ngân hàng thương mại ở Việt Nam như: khái niệm, đặc điểm và
vai trò của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản của ngân hàng thương mại
ở Việt Nam. Đồng thời, có sự so sánh và đố i chiế u với pháp luâ ̣t nước ngoài về vấ n đề này,
từ đó tìm ra vướng mắc và khó khăn trong vấn đề này. Trên cơ sở nghiên cứu lý luâ ̣n, đánh
giá thực trạng pháp luâ ̣t, đề xuất các phương hướng và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp
luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản của ngân hàng thương mại ở Việt
Nam.
+ Cầm cố và thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Phạm Công Lạc, 1995,
Luận văn thạc sỹ luật học): Phân tích các quy định về cầm cố và thế chấp tài sản để thực
hiện nghĩa vụ dân sự và áp dụng trong thực tiễn được tiến hành như thế nào. Tác giả đã
đưa ra nhận xét và phương hướng hoàn thiện các quy định về vấn đề này trong thực tiễn.
Một số bài viết có liên quan đến vấn đề này như: Xử lý tài sản thế chấ p thông qua
phương thức đấ u giá theo thỏa thuâ ̣n của các bên – Luật sư Nguyễn Thị Hồng Hạnh (đăng
trên tạp chí Dân chủ và pháp Luật – cơ quan ngôn luận của Bộ Tư Pháp): Bài viết xoay
quanh các vấn đề về việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt
động cho vay thông qua phương thức đấu giá như: Áp dụng các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay có bắt buộc thơng qua đấu giá; khi áp dụng các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay thông qua đấu giá có bắt buộc
phải được sự đồng ý của chủ tài sản; việc xuất hóa đơn phát sinh từ q trình xử lý tài sản
thế chấp. Qua đó, tác giả chỉ ra những khó khăn trong q trình áp dụng các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay thông qua phương thức đấu giá.
- Bài viết: xử lý tài sản bảo đảm theo BLDS 2015(của Tác giả Bùi Đức Giang - Giảng
viên Công ty TNHH Tư vấn và đào tạo Bankpro – đăng trên tạp chí ngân Hàng số 01/ tháng
2 năm 2017 các bài viết này trong đó các cơng trình này ít nhiều đều đề cập đến vấn đề mà
tác giả nghiên cứu. Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu triển khai trực tiếp về nội dung áp
dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay của các tổ chức
tín dụng và thực tiễn áp dụng còn khá khiêm tốn.
Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu tham khảo, tác giả muốn tìm hiểu các quy định của
pháp luật Việt Nam về áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động
cho vay theo quy định pháp luật hiện hành. Đồng thời, thực tiễn áp dụng ở nước ta, những
kết quả đạt được và khó khăn vướng mắc. Đồng thời, đề ra giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật và áp dụng thực tiễn về vấn đề nhằm mục đích đạt hiệu quả cao hơn. Với mục đích
như trên nên tác giả tiến hành các nội dung nghiên cứu về áp dụng các biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, người viết chọn đề
tài trên nhằm để thể hiện tâm huyết và đóng góp của bản thân đối với vấn đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Trong q trình hội nhập xây dựng và phát triển đất nước thì vấn đề về áp dụng các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
vấn đề đang được nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đối tượng quan tâm. Nó được xem xét
dưới nhiều góc độ: chính trị, kinh tế - xã hội, pháp luật,… Tác giả lựa chọn vấn đề này làm
đối tượng nghiên cứu, tác giả đi sâu phân tích những vấn đề lý luận chung và các quy định
của pháp luật về áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho
vay của các tổ chức tín dụng, khẳng định tính tất yếu khách quan của vấ đề này trong quá
trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về áp dụng
các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay tại ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam, tỉnh Lâm Đồng. Qua đó, rút ra những ưu, hạn chế của pháp luật
và những vướng mắc trong quá trình thực thi ở tại chi nhánh ngân hàng này. Từ đó đề ra
những giải pháp góp phần phát triển và hồn thiện pháp luật về xử lý tài sản thế chấp, tìm
hướng khắc phục những khó khăn trong q trình tổ chức quản lý, thực thi pháp luật về
vấn đề này ở nước ta trong tiến trình hội nhập.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề chủ yếu sau :
- Các vấn đề lý luận chung nhất về áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng như khái niệm, vai trò, ý nghĩa, nguyên
tắc của hoạt động áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho
vay của các tổ chức tín dụng theo hệ thống pháp luật hiện hành.
- Thực tế áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về áp dụng các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay tại ngân hàng TMCP Công thương Việt
Nam, tỉnh Lâm Đồng nhằm đánh giá thực trạng, tìm hiểu những hạn chế và khó khăn trong
q trình áp dụng.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật về áp dụng các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay của các tổ chức hiện hành nói riêng
và hệ thống pháp luật nói chung.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay tại ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam, tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
5.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu việc đánh giá áp dụng các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay tại ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam, tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay 2015-2020. Đề xuất quan điể m,
giải pháp nâng cao áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho
vay tại ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, tỉnh Lâm Đồng đến năm 2025.
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
6.1. Cơ sở lý luận
Phương pháp tác giả sử dụng cho tồn khố luận là phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác – Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí
Minh.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm:
- Kết hợp giữa phân tích với tổng hợp, diễn dịch với quy nạp làm rõ nội dung cần
nghiên cứu. Được tác giả sử dụng trong chương 1 và chương 2 của luận văn khi nghiên
cứu về lý luận của hoạt động áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng theo quy định hiện hành.
- So sánh, đối chiếu, thống kê, phân tích số liệu, kết quả tổng kết và các quan điểm
khác nhau để rút ra kết luận, tìm hiểu nguyên nhân vấn đề và các giải pháp hữu hiệu khắc
phục hạn chế, được tác giả sử dụng tại chương 3 của luận văn tốt nghiệp nhằm làm rõ thực
trạng áp dụng trong thực tiễn, những khó khăn, vướng mắc của q trình thực hiện tại đơn
vị khảo sát.
7. Những đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của khố luận có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, cụ thể:
7.1. Về lý luận
Luận văn góp phần làm rõ mơ ̣t số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất mơ ̣t
số quan điể m, giải pháp có giá tri thực
̣
tiễn nhằm mục đích đánh giá áp dụng các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động cho vay tại ngân hàng TMCP nói chung và tại
ngân hàng TMCP Cơng Thương Việt Nam, tỉnh Lâm Đồng nói riêng, đảm bảo chất lượng,
số lượng và cơ cấu hợp lý đáp ứng yêu cầu nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
7.2. Về thực tiễn
Đối với các nhà hoạch định chính sách, các nhà ban hành pháp luật, các cơ quan
thực thi pháp luật, phát hiện của luận văn về vấn đề này chính là góp phần phát hiện những
tồn tại của pháp luật, những vướng mắc trong quá trình thực thi. Đồng thời, với những kiến
nghị, giải pháp mà tác giả đưa ra có thể xem là sự tổng hợp, đánh giá, là ý kiến đóng góp
được cân nhắc kĩ lưỡng, góp phần khơng nhỏ tạo điều kiện cho họ trong công tác chuyên
môn.
Đặc biệt, đối với sinh viên nghiên cứu, kết quả của khoá luận là nguồn tài liệu có
giá trị tham khảo khi học tập, nghiên cứu, nhất là khi hoàn thành các báo cáo khoa học cấp
khoa, cấp trường. Ngồi ra, khố luận cịn có ý nghĩa thiết thực đối với một số đối tượng
khác quan tâm đến lĩnh vực áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
8. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo thì
luận văn tốt nghiệm có 03 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
- Chương 2: Thực trạng thực hiện các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ trong hoạt động
cho vay của ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, tỉnh Lâm Đồng
- Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm thực hiện các biện pháp bảo đảm nghĩa
vụ trong hoạt động cho vay của ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, tỉnh Lâm Đồng
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP
BẢO ĐẢM NGHĨA VỤ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện các biện pháp bảo đảm nghĩa
vụ trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Ngay từ thời cổ đại, các quan hệ kinh tế, dân sư đã phát triển đa dạng, phong
phú. Trong những quan hệ này, mỗi bên đều có quyền lợi và nghĩa vụ nhất định, nhiều
khi quyền và lợi ích của bên này chỉ có được từ việc thực hiện nghĩa vụ của bên kia.
Điều này dễ dẫn đến tình trạng khi bên có nghĩa vụ vi phạm các cam kết thì giữa hai
bên sẽ xảy ra tranh chấp và nếu bên bị vi phạm khơng nắm được quyền kiểm sốt tài
sản của bên vi phạm thì bên bị vi phạm sẽ rơi vào thế bất lợi.
Điều này đặt ra một nhu cầu nội tại đối với đời sống cộng đồng và nền kinh tế là
cần có các biện pháp bảo đảm giữa các bên tham gia hợp đồng. Các bên tự nguyện thỏa
thuận biện pháp thực hiện bảo đảm hợp đồng chính hoặc để khấu trừ đi nghĩa vụ khơng
thực hiện được hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ là cần thiết để bảo vệ quyền và
lợi ích các bên nhằm nâng cao trách nhiệm thực hiện đúng các thỏa thuận và hạn chế
các tranh chấp nảy sinh từ việc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
1.1.1. Khái niệm thực hiện các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của
các ngân hàng thương mại
Biện pháp bảo đảm theo nghĩa rộng là tất cả các biện pháp kinh tế, kỹ thuật,
pháp lý để bảo đảm cho một công việc, nghĩa vụ có thể được thực hiện. Các biện pháp
bảo đảm mang tính kinh tế, kỹ thuật có thể hiểu là các tính tốn, đánh giá, hỗ trợ kỹ
thuật, phương tiện, bảo đảm nguồn lực…để dự án, phương án kinh doanh có thể diến
ra, thực thi được trên thực tế.
Đề cương giới thiệu BLDS 2015 của Bộ Tư pháp, trang 6: quan điểm về biện pháp
bảo vệ là: “Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
dân sự của các cá nhân, pháp nhân, đặc biệt là trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của bên
yếu thế, bên thiện chí trong quan hệ dân sự; hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp của cơ
quan công quyền vào việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quan hệ dân sự, tạo điều kiện
thuận lợi để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã hội, bảo
đảm sự thơng thống, ổn định trong giao dịch dân sự”
Tại Điều 318 BLDS 2005: Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự gồm:
a) Cầm cố tài sản;
b) Thế chấp tài sản;
c) Ðặt cọc;
d) Ký cược;
đ) Ký quỹ;
e) Bảo lãnh;
g) Tín chấp.
BLDS 2015 có nhiều nội dung đổi mới so với Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005),
trong đó một vấn đề đáng chú ý và có tác động lớn tới các hoạt động ngân hàng đó là nội
dung về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ: Điều 292 BLDS 2015 quy định 9 biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ lần lượt bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt
cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp và cầm giữ tài sản.
Theo đó, có thể phân loại các nhóm biện pháp bảo đảm thành 03 nhóm:
+ Nhóm biện pháp bảo đảm được xác lập theo thỏa thuận và có TSBĐ: cầm cố tài
sản; thế chấp tài sản; đặt cọc; ký cược; ký quỹ; bảo lưu quyền sở hữu;
+ Nhóm biện pháp bảo đảm được xác lập theo thỏa thuận và khơng có TSBĐ bao
gồm: bảo lãnh; tín chấp;
+ Nhóm biện pháp bảo đảm được xác lập theo quy định của luật, không dựa trên
thỏa thuận: cầm giữ tài sản.
BLDS năm 2015 đã đề cập tới việc cầm cố tài sản là bất động sản. Tuy nhiên, nếu
chỉ dừng lại ở quy định này của Luật thì thực tế sẽ rất khó thực hiện. Bởi, điều này mâu
thuẫn với Luật Đất đai năm 2013 (chỉ đề cập đến thế chấp quyền sử dụng đất, không nhắc
đến cầm cố quyền sử dụng đất); Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 (chỉ đề cập đến
thế chấp bất động sản, không nhắc đến cầm cố bất động sản), Luật Nhà ở năm 2014 (chỉ
để cập đến thế chấp nhà ở, khơng nhắc đến cầm cố nhà ở). Do đó, để thực hiện được quy
định mới này của BLDS năm 2015, các tổ chức tín dụng cần căn cứ trên các hướng dẫn cụ
thể thực hiện BLDS 2015 như Nghị định 102/2017/NÐ-CP về đăng ký biện pháp bảo đảm;
Thông tư 08/2018/TT-BTP hướng dẫn về đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo
đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm.
Có thể nói, các biện pháp bảo đảm xuất hiện trong các giao dịch bảo đảm xuất
phát từ nhu cầu thực tế, có vai trị thúc đẩy giao lưu dân sự, thương mại phát
triển có trật tự, góp phần hạn chế tranh chấp xảy ra, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên, từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Ở Việt Nam,
việc áp dụng các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng cũng
mới được thực hiện trong thời gian không lâu. Bắt đầu từ năm 1989, khi hệ thống ngân
hàng của Việt Nam chuyển sang hoạt động mơ hình hai cấp – hoạt động kinh doanh,có
sự đa dạng hóa về sở hữu, thành phần kinh tế thì hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng
bắt đầu được áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản: thế chấp, cầm cố, bảo lãnh.
Việc áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản khi thực hiện cấp tín dụng trong hoạt
động ngân hàng dần được luật hóa và được ghi nhận trong Luật các tổ chức tín dụng
năm 1997 đến nay đã là Luật các tổ chức tín dụng năm 2017, theo đó việc cho vay của tổ
chức tín dụng bắt buộc phải có biện pháp bảo đảm. Đây là vấn đề có tính lịch sử kinh
tế, xã hội khi nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu vay của cá nhân, tổ chức tăng cao
và ngày càng có nhiều ngân hàng với các chính sách cho vay khác nhau, vấn đề quản lý
của hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập, có sự đan xen sở hữu trong hoạt động của
hệ thống tổ chức tín dụng.
Xét về bản chất, các giao dịch trong hoạt động ngân hàng cũng là một loại giao
dịch dân sự nên các biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các tổ chức này cũng giống
như các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung. Qua các quy định
của pháp luật có thể tạm hiểu: Các biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các ngân
hàng thương mại là việc thỏa thuận giữa các bên, qua đó đặt ra các biện pháp mang
tính chất dự phịng để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ, đồng
thời ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả tiêu cực do việc không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ gây ra.
1.1.2. Đặc điểm của thực hiện bảo đảm nghĩa vụ trong hoạt động cho vay của
các Ngân hàng thương mại
Thứ nhất, các biện pháp bảo đảm tạo ra hệ quả pháp lý là: một mặt hạn chế
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với các tài sản bảo đảm của chủ sở hữu tài
sản; mặt khác, thiết lập cho bên có quyền – bên nhận bảo đảm là ngân hàng quyền được
ưu tiên theo đuổi tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, so với các chủ thể khác (là những chủ
thể không được đảm bảo bằng tài sản đó). Đây là đặc điểm quan trọng nhất, phản ánh
bản chất của các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự nói chung và các biện pháp bảo
đảm trong hoạt động ngân hàng nói riêng. Nếu khơng có thuộc tính này, sự bảo đảm
bằng tài sản sẽ khơng cịn nhiều ý nghĩa nữa trong việc bảo đảm thi hành nghĩa vụ của
người có nghĩa vụ đối với người có quyền. Đặc điểm này cho phép phân biệt quyền của
bên có quyền có bảo đảm với bên có quyền khơng có bảo đảm trong q trình chiếm
hữu, quản lý, theo đuổi tài sản và bán tài sản để thực hiện cam kết. Sự khác biệt này
thể hiện ở chỗ, khi các biện pháp bảo đảm được thiết lập, bên có quyền có bảo đảm sẽ
có quyền ưu tiên theo đuổi tài sản bảo đảm, bất luận tài sản đó đang nằm trong tay ai,
trong khi các chủ thể có quyền nhưng khơng được đảm bảo bằng tài sản đó khơng
có quyền này. Đương nhiên cần lưu ý rằng việc thiết lập các biện pháp bảo đảm
giữa người có quyền với người có nghĩa vụ (có thể là chính người đó hoặc người thứ ba)
đối với một khối tài sản bảo đảm cụ thể nào đó, khơng hề ngăn cản người có quyền
thực hiện quyền u cầu Tịa án cho phép kê biên, phát mại các tài sản không phải là tài
sản bảo đảm của người có nghĩa vụ, nếu khối tài sản đem đảm bảo khơng đủ để thanh
tốn cho người có quyền. Trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại, đặc biệt là
trong hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản, nguyên tắc này thể hiện ở chỗ, nếu
đến hạn mà người vay không trả được nợ thì chủ nợ là ngân hàng có quyền tự động trích
tiền trên tài khoản của người vay để tự thu hồi nợ hoặc tổ chức phát mại tài sản để thu
hồi nợ cho mình theo trình tự do pháp luật quy định (nếu người vay khơng có tài
khoản tại ngân hàng hoặc trên tài khoản của họ khơng có tiền). Trong trường hợp tài
sản bảo đảm không phát mại được mà phải giải chấp hoặc phát mại được nhưng khơng
đủ thanh tốn nợ thì ngân hàng có quyền u cầu Tòa án cho phép kê biên, phát mại
những tài sản khác để thu hồi nợ, với tư cách là một chủ nợ khơng có bảo đảm. Trong
trường hợp này ngân hàng có quyền tương đương như các chủ nợ khơng có bảo đảm
khác trong việc u cầu kê biên và bán đấu giá các tài sản thuộc quyền sở hữu của bên
vay để thu hồi nợ. Triết lý cơ bản để pháp luật quy định quyền này cho ngân hàng là: Tài
sản của người có nghĩa vụ là bảo đảm chung cho những người có quyền, tương ứng
với tỷ lệ quyền của mỗi người đó đối với người có nghĩa vụ, trừ phi người có quyền có
lý do chính đáng để được hưởng ưu đãi từ việc thanh tốn tài sản.
Thứ hai, mục đích của các biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các Ngân
hàng thương mại là đảm bảo thi hành nghĩa vụ của khách hàng với ngân hàng. Xét riêng
trong bảo đảm tiền vay, nghĩa vụ này được xác định bao gồm nợ gốc, nợ lãi, các phụ
phí, tiền bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Do mục đích
của việc thiết lập sự bảo đảm bằng tài sản là để thi hành một nghĩa vụ tài sản cụ thể nên
trong trường hợp nghĩa vụ cần bảo đảm không tồn tại thì sự bảo đảm sẽ khơng cịn cần
thiết nữa. Điều này khẳng định tính chất phụ thuộc của các biện pháp bảo đảm vào
nghĩavụ tài sản phát sinh từ giao dịch được bảo đảm.
Thứ ba, các biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các Ngân hàng thương
mại có tính chất là một hợp đồng phụ và hiệu lực của nó phụ thuộc vào hợp đồng
chính (hợp đồng tín dụng). Sự phụ thuộc này thể hiện ở chỗ: có hợp đồngtín dụng thì mới
có thể có hợp đồng bảo đảm, nếu hợp đồng chính – hợp đồng tín dụng vô hiệu sẽ đương
nhiên dẫn tới sự vô hiệu của hợp đồng bảo đảm. Ngược lại nếu hợp dồng bảo đảm vơ
hiệu thì sẽ khơng ảnh hưởng gì đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng và khi đó, hợp đồng
tín dụng sẽ trở thành hợp đồngkhơng có bảo đảm bằng tài sản.
Thứ tư, phạm vi bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ được xác định trong
nội dung của hợp đồng tín dụng. Việc quy định phạm vi bảo đảm trong các biện pháp
bảo đảm thuộc phạm vi của nghĩa vụ chính trong hợp đồng tín dụng nhằm chỉ rõ trách
nhiệm tối đa của bên chủ thể có nghĩa vụ đối với bên có quyền là các Ngân hàng thương
mại. Khơng vì áp dụng các biện pháp bảo đảm mà bên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm
lớn hơn nghĩa vụ vốn được xác định trong hợp đồng tín dụng được xác định giữa các bên,
bởi vì xét cho cùng mục đích của việc áp dụng các biện pháp bảo đảm là nhằm hoàn trả
lại những gì đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, chứ khơng phải đưa lại cho
bên bị vi phạm (tổ chức tín dụng) cái họ có thể có lớn hơn khi nghĩa vụ được thực hiện
đúng.
Thứ năm, cùng với sự phát triển trong tư tưởng lập pháp, đối tượng của các biện
pháp bảo đảm trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại không chỉ dừng lại ở một
tài sản hoặc khối tài sản cụ thể trị giá được bằng tiền như trước kia, mà cịn có thể bằng
uy tín cua các tổ chức chính trị - xã hội (trong biện pháp tín chấp). Ví dụ: đối với biện
pháp cầm cố hoặc thế chấp các bên nhất thiết phải xác định rõ khối tài sản đem bảo đảm
cho nghĩa vụ là những tài sản cụ thể nào. Còn đối với biện pháp bảo lãnh thì theo nguyên
tắc là mọi tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người bảo lãnh đều có thể trở thành
tài sản đem bảo lãnh cho nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ với ngân hàng. Các tài sản này
phải đảm bảo những tiêu chuẩn cần thiết theo quy định của pháp luật như: Thuộc quyền
sở hữu hợp pháp của người vay hoặc người thứ ba – người bảo lãnh, được phép giao
dịch, khơng có tranh chấp, được mua bảo hiểm nếu là tài sản bắt buộc phải mua bảo
hiểm theo quy định của pháp luật... Ngoài ra nếu bảo đảm bằng uy tín của các tổ chức
chính trị - xã hội thì phải là các tổ chức chính trị - xã hội được quy định trong luật và cá
nhân, hộ gia đình nghèo được bảo đảm bắt buộc phải là thành viên của một trong số các
tổ chức chính trị - xã hội đó. “Tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở có thể bảo đảm bằng tín
chấp cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại tổ chức tín dụng để sản xuất,
kinh doanh, tiêu dùng theo quy định của pháp luật” (Điều 344, 345 BLDS 2015). Việc
xác định rõ khối tài sản đem bảo đảm hoặc các tổ chức chính trị - xã hội cụ thể đứng
ra bảo đảm là rất cần thiết, nhằm thiết lập quyền ưu tiên cho ngân hàng trong viêc
theo đuổi tài sản đó, đồng thời ngăn các chủ thểkhơng được bảo đảm bằng tài sản ấy
thực hiện những hành vi chi phối với tài sản, gây bất lợi cho phía ngân hàng. Ngồi ra,
việc xác định rõ như vậy cịn nhằm mục đích ngăn ngừa nguy cơ người có nghĩa vụ
tìm cách tẩu tán tài sản để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ khi đến thời hạn phải thực
hiện mà không thực hiện được hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Xác định tài sản
dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là vấn đề được đặt ra trong tất cả các trường hợp xác
lập giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, ý nghĩa của vấn đề chỉ đặc biệt nổi rõ trong trường hợp
bảo đảm bằng biện pháp thế chấp tài sản và bảo lãnh. Lý do chính là với các biện pháp bảo
đảm loại này, thì tài sản bảo đảm, trên nguyên tắc, vẫn do người bảo đảm nắm giữ và sử
dụng, khai thác trong những điều kiện bình thường.
Thứ sáu, các biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các Ngân hàng thương
mại chỉ có thể được áp dụng khi đến thời điểm phải thực hiện nghĩa vụ mà bên có
nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hoặc theo những căn cứ làm phát
sinh nghĩa vụ đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Ví dụ: trong giao dịch bảo đảm tiền
vay tài sản bảo đảm chỉ được phát mại khi người vay không thi hành nghĩa vụ trả nợ
vào ngày đáo hạn hoặc do vi phạm cam kết về việc sử dụng vốn,sai sót trong việc cung
cấp thơng tin...Việc phát mại này phải được thực hiện dựa trên phương án mà các bên
đã thỏa thuận hoặc phương án do pháp luật quy định, trên tinh thần bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp cho các bên theo nguyên tắc cơng bằng.
1.1.3. Vai trị của thực hiện các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại.
Ở Việt Nam các biện pháp bảo đảm nói chung đã hình thành từ rất sớm. Nhìn
lại lịch sử pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện n ghĩ a vụ dân sự nước ta,
có thể nói loại hình giao dịch này được ghi nhận và sử dụng rộng rãi trong đời sống
dân sự. BLDS Bắc kỳ 1936, Trung kỳ 1939, Nam kỳ 1910; BLDS, Bộ luật Thương
mại của Việt Nam Cộng Hịa...đều có quy định về các biện pháp bảo đảm thi hành
nghĩa vụ trong giao lưu dân sự và thương mại, đặc biệt là các biện pháp bảo đảm bằng
tài sản. Cho đến thời kỳ sau khi đất nước thống nhất, bước vào giai đoạn kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa các giao dịch dân sự nói chung và các giao
dịch trong hoạt động ngân hàng nói riêng phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Các
Ngân hàng thương mại đóng vai trị quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền
kinh tế. Với đối tượng kinh doanh đặc thù là tiền tệ mang tính rủi ro cao, việc áp
dụng các biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại ở
Việt Nam càng trở nên cấp bách bởi một số vai trò sau đây:
Thứ nhất, các biện pháp bảo đảm là cơ sở bảo đảm an toàn cho hoạt động của
các Ngân hàng thương mại. Trong cơ chế thị trường, sự ra đời và phát triển của các
loại hình ngân hàng, các tổ chức tín dụng cùng với tính đa dạng của các hoạt động
và các hình thức tín dụng đã tạo nên một thị trường tín dụng sơi động. Nhưng điều
đó cũng chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro có thể xảy ra với các ngân hàng hoặc các tổ
chức tín dụng, mà khả năng ngăn ngừa, chống đỡ rủi ro kém. Hơn nữa ngành ngân
hàng là một ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó,
chịu ảnh hưởng của rất nhiều loại rủi ro. Rủi ro tín dụng là đặc trưng tiêu biểu nhất,
dễ xảy ra nhất trong hoạt động ngân hàng. Rủi ro trong hoạt động tín dụng là việc
người đi vay khơng có khả năng hồn trả được lãi hoặc gốc một cách đầy đủ, đúng
hạn. Tình trạng này có thể do nhiều nguyên nhân, chủ quan và khách quan, trực tiếp
và gián tiếp. Nhưng cho dù nguyên nhân nào đi chăng nữa, thì cuối cùng là người đi
vay không thực hiện được các cam kết và nghĩa vụ trả nợ; khơng có trả năng trả nợ
do năng lực tài chính suy giảm. Tuy nhiên, bên cạnh đó thực tế cũng xảy ra một số
trường hợp người đi vay có khả năng tài chính nhưng chây ỳ khơng trả nợ, hoặc tìm
cách lừa đảo chiếm đoạt vốn vay ngân hàng. Chính vì vậy rủi ro trong hoạt động tín
dụng cũng rất phức tạp và đa dạng.
Ngồi ra, theo quy định tại Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng (sau đây gọi
là TCTD) đối với khách hàng [Quyết định số 20/VBHN-NHNN ngày 22/5/2014 của Ngân
hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách
hàng], cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách
hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa
thuận với ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi. Tín dụng hồn tồn khác các nghiệp vụ
tài trợ dưới dạng cấp vốn của Nhà nước cho doanh nghiệp. Hoạt động tín dụng là hoạt
động đa dạng, là một loại hình kinh doanh tiền tệ phức tạp. Tính phức tạp của nó chính
là đối tượng kinh doanh – tiền tệ. Có nhiều quan điểm cho rằng, quyền cho vay là của
ngân hàng, TCTD, còn quyền trả nợ “thực tế” là của người đi vay. Chính vì vậy địi hỏi
ngân hàng phải tìm mọi cách để kiểm sốt được khả năng trả nợ “ thực tế” đó của khách
hàng hoặc dự đốn khả năng đó. Quan hệ tín dụng ngân hàng là được thiết lập trên
nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận giữa TCTD và khách hàng, là sự cam kết thỏa thuận
bằng các điều khoản thi hành. Hình thức pháp lý quan hệ này là hợp đồng tín dụng ngân
hàng. Sự cam kết này chính là cơ sở pháp lý cơ bản để thực hiện các nghĩa vụ của các
bên tham gia hoạt động tín dụng. Nó là cơ sở pháp lý để thực hiện các bảo đảm tín dụng.
Ngồi ra, các chủ thể của hợp đồng tín dụng cịn có những cam kết khác, bằng hành vi
hay năng lực kinh tế, thể hiện dưới các hình thức bảo đảm nợ vay, có thể bằng vật chất
hay uy tín, như các tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh. Thế nhưng trên thực tế, mặc
dù các khoản tín dụng giữa ngân hàng và người đi vay đều được xác lập theo những
điều khoản của hợp đồng tín dụng, nhưng tình trạng vi phạm cam kết đó xảy ra khá phổ
biến, kể cả trong trường hợp người đi vay có năng lực tài chính để thực hiện các cam
kết đó.
Vì những lý do trên, hầu hết các nước đều có quy định pháp luật cụ thể và an
tồn trong hoạt động tín dụng, theo đó các TCTD khi cấp tín dụng đều phải tuân thủ
những điều kiện nhất định đó là điều kiện vay vốn. Thơng thường, để có thể tránh những
rủi ro d o không trả được nợ (hoặc không trả nợ) của người đi vay, các ngân hàng quy
định các điều kiện vay vốn, trong đó điều kiện đảm bảo tiền vay được xem là quan
trọng nhất. Bản chất của bảo đảm tiền vay là sử dụng những giá trị của những tài sản
làm đảm bảo để trả nợ thay cho các khoản vay mà người vay đã dùng vào sản xuất
kinh doanh nhưng khơng có khả năng trả nợ ngân hàng. Chính vì vậy, bên cho vay có
thể thu hồi được nợ ngay cả trong trường hợp bên đi vay khơng có khả năng trả được
nợ. Điều này có nghĩa là tài sản bảo đảm tiền vay nếu được xử lý sau một khoảng thời
gian hợp lý kể từ ngày nợ đến hạn nhưng người vay khơng có khả năng trả nợ, sẽ vừa
có lợi cho TCTD cho vay, vừa có lợi cho cả bên bảo đảm.
Thứ hai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Các NHTM
Việt Nam chủ yếu là cho vay. Các tổ chức này cho vay dựa trên cơ sở nguồn vốn huy
động là chủ yếu. Điều này có nghĩa là, nguồn vốn cho vay của các ngân hàng chủ yếu
là nguồn vốn “ đi vay”, bởi lẽ các tổ chức này hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc
“ đi vay” để “ cho vay”, tức là không (hoặc ít) cho vay tiền của bản thân mình mà nó
sử dụng nguồn vốn huy động cho vay là chủ yếu. Trong số nguồn vốn huy động thì tiền
gửi lại chiếm tỷ lệ đáng kể. Chính vì vậy, trách nhiệm hàng đầu của các ngân hàng là bảo
vệ quyền lợi của người gửi tiền, tránh tình trạng rút tiền đồng loạt – nguy cơ dẫn đến
sự phá sản của ngân hàng, lung lay hệ thống ngân hàng. Mặc dù phần lớn các ngân
hàng đều dự tính trước những rủi ro có thể xảy ra, những rủi ro này phải được kiểm soát
chặt chẽ để bảo vệ số tiền gửi của khách hàng. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động kinh
doanh của ngân hàng đã chứng minh rằng khơng phải lúc nào cũng kiểm sốt được rủi
ro. Có những rủi ro tín dụng khả kháng được, nhưng cũng có những rủi ro bất khả
kháng, nằm ngồi tầm kiểm soát của ngân hàng. Nếu một khoản cho vay nào đó bị thất
thốt (khơng thu hồi được) thì trước tiên ngân hàng phải sử dụng nguồn vốn của mình
để trả cho người gửi tiền. Nếu không đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì ngân
hàng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh tốn, thậm chí phá sản. Do đó, sự an tồn
là một vấn đề cần xem xét trước tiên đới với moị khoản vay. Ngoài việc xây dựng quy
trình cho vay khoa học chặt chẽ, các tổ chức cho vay còn áp dụng các biện pháp phòng
ngừa để giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay là một trong
các biện pháp đó và gián tiếp đóng vai trị bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền. Có lẽ
chính vì vậy mà pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều có quy định về biện
pháp bảo đảm cho nghĩa vụ trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Ngày
31/12/2018, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Thông tư số 48/2018/TT-NHNN
quy định về tiền gửi tiết kiệm (Thông tư 48) và Thông tư 49/2018/TT-NHNN về tiền gửi
có kỳ hạn (Thơng tư 49) nhằm đảm bảo an toàn giao dịch cho cả TCTD và người gửi tiền,
đồng thời đảm bảo lợi ích hợp pháp của pháp nhân, cá nhân có nhu cầu gửi tiền khi có
nguồn tiền nhàn rỗi hoặc thu nhập hợp pháp.
Thứ ba, giúp thực hiện quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng. Trong
thực tế, khơng phải bao giờ khi có vi phạm nghĩa vụ, thì các bên vi phạm cũng yêu
cầu các cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Hơn nữa, các biện pháp cưỡng chế không
phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả. Như vậy, khi nghĩa vụ không được bảo đảm
bằng tài sản thì người có nghĩa vụ rất dễ lẩn tránh việc thực hiện nghĩa vụ, đồng thời,
việc thực hiện lợi ích của người có quyền rất mong manh. Chính vì vậy, sự cần thiết
phải áp dụng các biện pháp bảo đảm được lý giải bởi mối quan tâm của người có
quyền với người có nghĩa vụ trong việc thực hiện nghĩa vụ, nếu người có nghĩa vụ
khơng thực hiện nghĩa vụ thì người có quyền được bồi thường. Đặc biệt, thông qua