ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI 01: CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG – CÁI RIÊNG CỦ A PHÉP
BIỆN CHỨNG DUY VẬT. VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ NÀY TRONG
HOẠT ĐỘNG LÀM VIỆC NHÓM CỦA SINH VIÊN TẠI TRƯỜNG ĐẠI
HỌC BÁCH KHOA, ĐHQG TPHCM.
LỚP: DT14 --- NHÓM 03 --- HK213
NGÀY NỘP: 8/8/2022
Giảng viên hướng dẫn: An Thị Ngọc Trinh
Sinh viên thực hiện
Mã số sinh viên
Lương Hùng Cường
2112964
Cao Nguyễn Bảo Chi
2110059
Nguyễn Tuấn Dũng
2113070
Đoàn Minh Dũng
2113057
Lê Khả Duy
2110922
Nguyễn Thanh Hải
2110152
Thành phố Hồ Chí Minh, 06/2022
Điểm số
ĐỀ TÀI 01: Cặp phạm trù cái chung – cái riêng của phép biện chứng duy
vật. Vận dụng cặp phạm trù này trong hoạt động làm việc nhóm của sinh
viên tại trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM.
MỤC LỤC
I/ PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................1
II/ PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................3
CHƯƠNG 1: CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG - CÁI RIÊNG CỦA PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY VẬT ................................................................................................3
1.1 Những khái niê ̣m cơ bản.................................................................................3
1.1.1 Khái niệm cái riêng..................................................................................3
1.1.2 Khái niệm cái đơn nhất ............................................................................3
1.1.3 Khái niệm cái chung ................................................................................3
1.2. Mố i quan hê ̣ biện chứng của cặp phạm trù cái chung - cái riêng ....................3
1.2.1 Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung ..............................4
1.2.2 Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng ........................................................5
1.2.3 Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau ............................6
1.2.4 Cái riêng là cái tồn bộ, cái chung chỉ là bộ phận ....................................6
1.3. Ý nghiã phương pháp luâ ̣n của că ̣p pha ̣m trù cái chung - cái riêng.................8
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ VẬN DỤNG – VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ CÁI
CHUNG – CÁI RIÊNG TRONG HOẠT ĐỘNG LÀM VIỆC NHÓM CỦA SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA, ĐHQG TP HCM .................................9
2.1 Khái quát về vấn đề làm việc nhóm của sinh viên trường Đại học Bách Khoa,
ĐHQG TPHCM ...................................................................................................9
2.2 Đánh giá thực trạng làm việc nhóm của sinh viên tại trường Đại học Bách
Khoa, ĐHQG TPHCM .......................................................................................10
2.2.1 Những kết quả đạt được khi làm việc nhóm của sinh viên trường Đại học
Bách Khoa, ĐHQG TPHCM ..........................................................................10
ii
2.2.2 Những khó khăn khi làm việc nhóm của sinh viên trường Đại học Bách
Khoa, ĐHQG TPHCM ...................................................................................15
2.2.3 Số liệu thu được từ việc khảo sát các bạn sinh viên Đại học Bách Khoa 16
2.3 Những giải pháp khắ c phu ̣c các khó khăn của sinh viên trường Đại học Bách
Khoa, ĐHQG TPHCM .......................................................................................22
III/ PHẦN KẾT LUẬN ..............................................................................................24
IV/ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................25
PHỤ LỤC ..................................................................................................................26
iii
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 1.1: Cấu tạo của ngun tử (Ảnh minh họa) ........................................................5
Hình 1.2: Vịt và gà có những thuộc tính giống và khác nhau (Ảnh minh họa) ..............5
Hình 2.1: Tăng năng suất làm việc cho từng thành viên trong nhóm ..........................10
Hình 2.2: Làm việc nhóm đem đến lợi ích là thúc đẩy tư duy sáng tạo của thành viên11
Hình 2.3: Động lực làm việc được nâng cao khi làm việc nhóm .................................12
Hình 2.4: Kết nối các mối quan hệ thơng qua các hoạt động tình nguyện ...................12
Hình 2.5: Tham gia các hoạt động nâng cao sức khỏ ..................................................13
Hình 2.6: Cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề ............................................................14
Hình 2.7: Trau dồi các trải nghiệm thực tế trong mùa hè xanh ...................................14
Hình 2.8: Đánh giá mức độ thường xuyên làm việc nhóm ở các mơi trường ..............17
Hình 2.9: Tham gia và đóng góp ý kiến của bản thân .................................................18
Hình 2.10: Những kỹ năng nhận được khi làm việc nhóm ..........................................18
Hình 2.11: Quy mơ của nhóm để làm việc hiệu quả ...................................................19
Hình 2.12: Giải pháp giải quyết mâu thuẫn khi làm việc nhóm ..................................20
Hình 2.13: Mức độ cống hiến của bản thân khi làm việc nhóm ..................................21
Hình 2.14 Những mặt mong muốn cần cải thiện khi làm việc nhóm...........................22
iv
I/ PHẦN MỞ ĐẦU
Trong một thời kì bùng nổ về cơng nghệ, trí tuệ và cả nhận thức như hiện nay,
khoa học đã và đang không ngừng phát triển liên tục để nhằm phục vụ cho đời sống
người dân. Việc đổi mới nhanh chóng đã khiến cho cách thức hoạt động trong công
việc, học tập cũng bị ảnh hưởng trực tiếp. Cũng chính vì lẽ đó, con người ln tìm
kiếm những cách thức tiếp cận công việc một cách khoa học hơn, song vẫn đảm bảo
được tiến độ công việc nhưng đồng thời cũng không làm gia tăng sức ép q nhiều lên
người làm, đó cũng chính là ngun nhân cốt lõi vì sao “Kĩ năng làm việc nhóm” lại
nhận được rất nhiều sự quan tâm, khuyến khích ở hầu hết mọi lĩnh vực với quan niệm:
“Trí tuệ tập thể bao giờ cũng sáng suốt hơn trí tuệ của mỗi cá nhân”1; “Người tài giỏi
sẽ chiến thắng trò chơi, nhưng tinh thần đồng đội và trí óc giành chức vơ địch”2.
Những tác động, ảnh hưởng khi làm việc nhóm cùng nhau không chỉ giải quyết những
vấn đề liên quan đến năng suất cơng việc mà cịn giúp thúc đẩy tinh thần làm việc, gia
tăng tư duy sáng tạo của mỗi thành viên trong nhóm. Tại trường Đại học Bách Khoa –
Đại học Quốc gia TP.HCM thì kĩ năng làm việc nhóm đóng vai trị lại càng mật thiết
hơn đối với thành tích học tập của mỗi bạn sinh viên.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề “Kĩ năng làm việc nhóm” trong đời
sống thực tiễn. Nhóm chúng em đã quyết định lựa chọn đề tài này để nghiên cứu. Nội
dung của đề tài sẽ xoay quanh những khái niệm, liên hệ của cặp phạm trù cái chung –
cái riêng, một trong những cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật đồng
thời ứng dụng chúng vào vấn đề hoạt động, làm việc nhóm của sinh viên Bách Khoa –
Đại học Quốc gia TP.HCM.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận, phương pháp phân tích và tổng
kết kinh nghiệm, phương pháp điều tra khảo sát
Kết cấu đề tài: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo
thì nội dung đề tài gồm 2 chương là:
Dương Thị Như Nguyệt (09/03/2020), Sáng kiến kinh nghiệm. Truy cập
/>1
từ:
BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG THÀNH PHỐ (23/02/2017), “Người tài giỏi sẽ chiến thắng trị chơi, nhưng tinh
thần đồng đội và trí óc giành chức vô địch”. Truy cập từ: />2
1
+ Chương 1: Cặp phạm trù cái chung – cái riêng của phép biện chứng duy vật
+ Chương 2: Liên hệ vận dụng vào hoạt động làm việc nhóm của sinh viên tại
trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
2
II/ PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG - CÁI RIÊNG CỦA PHÉP
BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1.1 Những khái niêm
̣ cơ bản
1.1.1 Khái niệm cái riêng
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định.
Ví dụ: Bản thân mỗi bạn sinh viên là một cái riêng, mỗi một người dân nước
Việt Nam là một cái riêng.
1.1.2 Khái niệm cái đơn nhất
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có
ở một sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà khơng lặp lại ở sự vật, hiện tượng
nào khác.
Ví dụ: Dấu vân tay của một người, cấu trúc gen của một người, nền văn hóa của
một dân tộc,…được gọi là cái đơn nhất.
1.1.3 Khái niệm cái chung
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính khơng
những có ở một sự vật, hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện
tượng (nhiều cái riêng) khác.
Ví dụ: Vị chua của chanh, cam, khế,… được gọi là cái chung, mỗi một con
người đều có quá trình sinh – lão – bệnh – tử, quá trình này được gọi là cái chung.
1.2. Mố i quan hê ̣ biện chứng của cặp phạm trù cái chung - cái riêng
Trong lịch sử triết học có hai xu hướng là duy thực và duy danh đối lập nhau
giải quyết vấn đề quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Các nhà duy thực khẳng định,
cái chung tồn tại độc lập, khơng phụ thuộc vào cái riêng. Có hai luận giải: Theo luận
giải thứ nhất (khá phổ biến) thì cái chung mang tính tư tưởng, tinh thần, tồn tại dưới
dạng các khái niệm chung; theo cách lý giải thứ hai thì cái chung mang tính vật chất,
tồn tại dưới dạng một khối không đổi, bao trùm tất cả, tự trùng với mình hoặc dưới
dạng nhóm các đối tượng... Cịn cái riêng, hoặc hồn tồn khơng có (do xuất phát từ
Plato vốn coi các sự vật cảm tính là khơng thực, chỉ là cái bóng của những ý niệm),
hoặc tồn tại phụ thuộc vào cái chung; là cái thứ yếu, tạm thời, do cái chung sinh ra.
3
Các nhà duy danh cho rằng, cái chung không tồn tại thực trong hiện thực khách
quan, chỉ có sự vật đơn lẻ, cái riêng mới tồn tại thực, chỉ tồn tại trong tư duy con
người, chỉ là tên gọi của các đối tượng đơn lẻ. Tuy cùng coi cái riêng là duy nhất có
thực, song các nhà duy danh giải quyết khác nhau vấn đề hình thức tồn tại của nó. Một
số người (như Occam) cho rằng, cái riêng tồn tại như đối tượng vật chất cảm tính; số
khác (như Berkeley) lại coi cảm giác là hình thức tồn tại của cái riêng...
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục những khiếm khuyết của cả hai xu
hướng đó trong việc lý giải mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
1.2.1 Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung
Cái riêng không vĩnh cửu mà xuất hiện, tồn tại một thời gian xác định rồi biến
thành cái riêng khác, rồi lại thành cái riêng khác nữa... cứ thế đến vô cùng. V.I. Lênin
viết: “Bất cứ cái riêng nào cũng thơng qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với
những cái riêng thuộc loại khác (sự vật, hiện tượng, quá trình)”3. Cái riêng “chỉ tồn
tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung”4 và có khả năng chuyển hóa ở những điều
kiện phù hợp thành cái riêng bất kỳ khác.
Ví dụ: sinh viên là cái chung và sinh viên Đại học Bách Khoa là cái riêng hay
tương tự nếu nói Đại học Quốc gia là cái chung thì Đại học Bách Khoa là cái riêng.
Nếu muốn đánh giá Đại học Quốc gia, ta phải đánh giá các trường thành viên thuộc
Đại học Quốc gia. Tương tự như việc muốn đánh giá một nhóm hoạt động, ta phải
đánh giá từng thành viên của nhóm đó.
Hay nguyên tử của các nguyên tố là khác nhau, có những “cái riêng” như điện
tích hạt nhân, ngun tử khối, hóa trị… nhưng các nguyên tử đều có “cái chung” như
cấu tạo đều gồm hạt nhân mang điện tích dương và lớp vỏ điện tích tạo bởi electron
mang điện tích âm. Và nhờ những “cái chung” đó đã giúp các nhà khoa học làm thay
đổi các nguyên tử của nguyên tố.
3
4
V.I.Lênin (1981), Tồn tập, tập 29, NXB. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, trang 381.
V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, NXB. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, trang 381.
4
Hình 1.1: Cấu tạo của nguyên tử (Ảnh minh họa)
1.2.2 Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng
Cái chung và cái đơn nhất đều không tồn tại độc lập, tự thân, vì chúng là thuộc
tính nên phải gắn với đối tượng xác định; chỉ cái riêng (đối tượng, quá trình, hiện
tượng riêng) mới tồn tại độc lập. Còn cái chung và cái đơn nhất đều chỉ tồn tại trong
cái riêng, như là các mặt của cái riêng.
“Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng
lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng khơng gia nhập đầy đủ vào cái chung…”5
Ví dụ: Mỗi con gà, vịt, ngỗng có thể có các thuộc tính khác nhau chẳng hạn như
màu sắc lông vũ, tiếng kêu, chân có màng hoặc khơng,... Song dù có khác nhau thì
chúng vẫn có những thuộc tính giống nhau như có hai chân, có lơng vũ, thuộc nhóm
động vật có cánh được con người ni giữ, nhân giống nhằm mục đích sản xuất trứng,
lấy thịt hay lơng vũ... Các thuộc tính lặp lại ở mọi con gà, vịt, ngỗng… và tạo nên cái
chung, cái chung này được phản ánh qua khái niệm “gia cầm”.
Hình 1.2: Vịt và gà có những thuộc tính giống và khác nhau (Ảnh minh họa)
5
V.I.Lênin (1981), Tồn tập, tập 29, NXB. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, trang 381.
5
Hoặc, mỗi sinh viên có các chuyên ngành, các chương trình đào tạo khác nhau
nhưng đều có các đặc điểm tương tự nhau là đều đến trường tham gia các hoạt động
học tập, làm việc nhóm, nghiên cứu, thi cử theo quy chế của nhà trường,... Các thuộc
tính này lặp lại ở từng sinh viên riêng lẻ và được phản ánh qua khái niệm “sinh viên”.
1.2.3 Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau
Mối liên hệ giữa cái đơn nhất với cái chung thể hiện trước hết ở mối liên hệ lẫn
nhau trong một thể thống nhất gồm các mặt, các yếu tố đơn lẻ vốn có trong một sự vật,
hiện tượng này và các mặt, các yếu tố được lặp lại ở nó và trong các sự vật, hiện tượng
khác.
Trong cùng một lúc, sự vật, hiện tượng đó vừa là cái đơn nhất, vừa là cái
chung; thông qua các đặc điểm cá biệt, các mặt khơng lặp lại của mình, sự vật, hiện
tượng (cái riêng) đó biểu hiện là cái đơn nhất, nhưng thơng qua các mặt lặp lại trong
các sự vật, hiện tượng khác, nó biểu hiện là cái chung.
Ví dụ: Khi một sáng kiến ra đời, nó là cái đơn nhất. Với mục đích nhân rộng
sáng kiến đó và áp dụng vào thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, có thể thông qua các
tổ chức trao đổi, học tập để phổ biến sáng kiến đó, biến nó thành cái chung. Đó là khi
cái đơn nhất chuyển hóa thành cái chung.
1.2.4 Cái riêng là cái toàn bộ, cái chung chỉ là bộ phận
Bởi bên cạnh cái chung thì bất cứ đối tượng (cái riêng) nào cũng cịn có cái đơn
nhất, tức là bên cạnh những mặt được lặp lại cịn có những mặt không lặp lại, những
mặt cá biệt.
Hay tứ giác là cái chung và các hình bình hành, hình vng, hình chữ nhật, hình
thoi,... là các cái riêng. Tập hợp các cái riêng đó được gọi là tứ giác
Thứ nhất, nếu bất cứ cái chung nào cũng chỉ tồn tại trong cái riêng, như một thuộc tính
chung của một số cái riêng, nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với cái đơn nhất và mối
liên hệ đó đem lại cho cái chung một hình thức riêng biệt, thì các phương pháp thực
tiễn dựa trên việc vận dụng một quy luật chung nào đó đều khơng thể như nhau đối với
mọi sự vật, hiện tượng (cái riêng) có liên hệ với cái chung đó. Vì bản thân cái chung
trong mọi sự vật, hiện tượng không phải là một và không giống nhau hoàn toàn, mà
chỉ là biểu hiện của cái chung đã được cá biệt hóa, thì các phương pháp xuất phát từ
6
cái chung đó, trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải thay đổi hình thức, phải cá biệt
hóa cho phù hợp với đặc điểm của từng trường hợp.
Ví dụ: Khơng có cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt, cây đào
cụ thể. Nhưng cây cam, cây quýt, cây đào,.. nào cũng có rễ, thân, lá, có q trình lý
hóa để duy trì sự sống. Những đặc tính chung này lặp lại ở những cây lẻ và được phản
ánh trong khái niệm “cây”. Đó là cái chung của những cái cây cụ thể. Rõ ràng cái
chung tồn tại thực sự, nhưng khơng tồn tại ngồi cái riêng mà phải thông qua cái
riêng.
Thứ hai, nếu bất kỳ một phương pháp nào cũng bao hàm cả cái chung lẫn cái
đơn nhất thì khi sử dụng một kinh nghiệm nào đó trong điều kiện khác khơng nên sử
dụng hình thức hiện có của nó, mà chỉ nên rút ra những mặt chung đối với trường hợp
đó, chỉ rút ra những cái thích hợp với điều kiện nhất định đó.
Ví dụ: Mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người khơng thể tồn tại ngồi
mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. Khơng có cá nhân nào khơng chịu sự tác động của
các quy luật sinh học và quy luật xã hội.
Thứ ba, trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định
“cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có thể biến
thành “cái đơn nhất”, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện
thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở thành “cái chung” và “cái chung”
bất lợi trở thành “cái đơn nhất”. Tuy nhiên, vẫn cịn một khó khăn trong tư duy mà
nhiều người biết nhưng thường lảng tránh tìm hiểu, giải đáp thấu đáo, đó là: Cái riêng
và cái chung không nằm trên cùng một mặt bằng cơ sở, không cùng một đơn vị đo. Cái
riêng là đối tượng, còn cái chung và cái đơn nhất chỉ là các thuộc tính của nhiều (hoặc
một) cái riêng đó, cho nên phép biện chứng đích thực phải đẩy chúng lên thành cặp
phạm trù cái đặc thù và cái phổ biến.
Ví dụ: Q trình phát triển của sinh vật, xuất hiện những biến dị ở một hoặc ít
cá thể riêng biệt, biểu hiện thành đặc tính được bảo tồn, duy trì ở nhiều thế hệ và trở
thành phổ biến của nhiều cá thể. Ngược lại những đặc tính khơng phù hợp sẽ mất dần
đi và trở thành cái đơn nhất.
7
1.3. Ý nghiã phương pháp luâ ̣n của că ̣p pha ̣m trù cái chung - cái riêng
Thứ nhất, nếu bất cứ cái chung nào cũng chỉ tồn tại trong cái riêng, như một
thuộc tính chung của một số cái riêng, nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với cái đơn nhất
và mối liên hệ đó đem lại cho cái chung một hình thức riêng biệt, thì các phương pháp
thực tiễn dựa trên việc vận dụng một quy luật chung nào đó đều khơng thể như nhau
đối với mọi sự vật, hiện tượng (cái riêng) có liên hệ với cái chung đó. Vì bản thân cái
chung trong mọi sự vật, hiện tượng không phải là một và không giống nhau hoàn toàn,
mà chỉ là biểu hiện của cái chung đã được cá biệt hóa, thì các phương pháp xuất phát
từ cái chung đó, trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải thay đổi hình thức, phải cá biệt
hóa cho phù hợp với đặc điểm của từng trường hợp.
Ví dụ: Khơng có cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt, cây đào
cụ thể. Nhưng cây cam, cây quýt, cây đào,.. nào cũng có rễ, thân, lá, có q trình lý
hóa để duy trì sự sống. Những đặc tính chung này lặp lại ở những cây lẻ và được phản
ánh trong khái niệm “cây”. Đó là cái chung của những cái cây cụ thể. Rõ ràng cái
chung tồn tại thực sự, nhưng khơng tồn tại ngồi cái riêng mà phải thông qua cái riêng.
Thứ hai, nếu bất kỳ một phương pháp nào cũng bao hàm cả cái chung lẫn cái
đơn nhất thì khi sử dụng một kinh nghiệm nào đó trong điều kiện khác khơng nên sử
dụng hình thức hiện có của nó, mà chỉ nên rút ra những mặt chung đối với trường hợp
đó, chỉ rút ra những cái thích hợp với điều kiện nhất định đó.
Ví dụ: Mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người khơng thể tồn tại
ngồi mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. Khơng có cá nhân nào khơng chịu sự tác
động của các quy luật sinh học và quy luật xã hội.
Thứ ba, trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định
“cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có thể biến
thành “cái đơn nhất”, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện
thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở thành “cái chung” và “cái chung”
bất lợi trở thành “cái đơn nhất”. Tuy nhiên, vẫn còn một khó khăn trong tư duy mà
nhiều người biết nhưng thường lảng tránh tìm hiểu, giải đáp thấu đáo, đó là: Cái riêng
và cái chung không nằm trên cùng một mặt bằng cơ sở, không cùng một đơn vị đo. Cái
riêng là đối tượng, còn cái chung và cái đơn nhất chỉ là các thuộc tính của nhiều (hoặc
8
một) cái riêng đó, cho nên phép biện chứng đích thực phải đẩy chúng lên thành cặp
phạm trù cái đặc thù và cái phổ biến.
Ví dụ: Q trình phát triển của sinh vật, xuất hiện những biến dị ở một hoặc ít
cá thể riêng biệt, biểu hiện thành đặc tính được bảo tồn, duy trì ở nhiều thế hệ và trở
thành phổ biến của nhiều cá thể. Ngược lại những đặc tính khơng phù hợp sẽ mất dần
đi và trở thành cái đơn nhất.
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ VẬN DỤNG – VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ CÁI
CHUNG – CÁI RIÊNG TRONG HOẠT ĐỘNG LÀM VIỆC NHÓM CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA, ĐHQG TP HCM
2.1 Khái quát về vấn đề làm việc nhóm của sinh viên trường Đại học Bách Khoa,
ĐHQG TPHCM
Làm việc nhóm là hoạt động làm việc của một nhóm người (từ hai người trở
lên) có cùng mục tiêu chung. Họ làm việc với nhau, có sự tương tác qua lại thường
xun, có sự phân cơng cơng việc, nhiệm vụ rõ ràng, và có quy tắc ràng buộc cụ thể là
tập hợp nhiều người cùng có chung mục tiêu, thường xuyên tương tác với nhau, mỗi
thành viên có vai trị nhiệm vụ rõ ràng và có các quy tắc chung chi phối lẫn nhau.
Ngày nay, việc làm việc nhóm rất phổ biến trong xã hội, đặc biệt là trong mơi trường
đại học việc làm việc nhóm giữa các sinh viên ngày càng trở nên phổ biến và gần như
khơng thể thiếu.
Khi nói về hoạt động làm việc nhóm của sinh viên tại trường Đại học Bách
Khoa, Đại học Quốc gia Thanh Phố Hồ Chí Minh, có thể nói rằng đây dường như là
một hoạt động quan trọng và không thể thiếu đối với mọi sinh viên theo học tại trường.
Nói như vậy là vì từ năm nhất đến khi ra trường, có rất nhiều mơn học mà sinh viên
được giảng viên yêu cầu chia nhóm để học cũng như làm bài tập, hay các nhóm thí
nghiệm, nhóm bài tập lớn,… Mục đích của việc chia nhóm học tập là để giúp sinh viên
làm quen với môi trường làm việc nhóm, cải thiện kỹ năng làm việc nhóm, tạo cơ hội
để các bạn sinh viên có thể học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau thơng qua hoạt động làm việc
nhóm qua đó cùng nhau tiến bộ. Khơng chỉ làm việc nhóm trong các mơn học, sinh
viên cịn có một hình thức làm việc nhóm khá phổ biến khác như tham gia các nhóm
học tập do các sinh viên tự lập ra, ở các nhóm học tập này, mọi người cũng được giao
9
nhiệm vụ cũng như phân chia công việc rõ ràng để có thể hỗ trợ nhau trong học tập
cũng như giúp bản thân các thành viên có thể tự tiến bộ. Vậy nên hoạt động làm việc
nhóm của sinh viên Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, là
một hoạt động rất phổ biến và quan trọng đối với sinh viên, nó đặt ra yêu cầu về kỹ
năng làm việc nhóm đối với sinh viên, thúc đẩy sinh viên phải cải thiện kỹ năng làm
việc nhóm của bản thân để có thể đạt được kết quả tốt.
2.2 Đánh giá thực trạng làm việc nhóm của sinh viên tại trường Đại học Bách
Khoa, ĐHQG TPHCM
2.2.1 Những kết quả đạt được khi làm việc nhóm của sinh viên trường Đại
học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM
Thứ nhấ t, tăng năng suất làm việc của từng sinh viên trong nhóm:
Lợi ích đầu tiên khi làm việc nhóm chính là tăng năng suất cơng việc. Khi làm việc
nhóm, các cơng việc sẽ được chia thành các nhiệm vụ nhỏ và mỗi cá nhân sẽ phụ trách
phần việc phù hợp với năng lực của mình. Do đó, mỗi thành viên trong nhóm sẽ chỉ
tập trung làm một phần việc nhất định giúp chất lượng và hiệu suất làm việc tăng cao
hơn.
Hình 2.1: Tăng năng suất làm việc cho từng thành viên trong nhóm
Thứ hai, các thành viên có thể hỗ trợ và cải thiện tư duy sáng tạo lẫn nhau:
Hằng năm trường Đại học Bách Khoa tổ chức rất nhiều các cuộc thi về sáng tạo học
thuật. Việc hoạt động theo nhóm đóng vai trị thiết yếu giúp nhóm có khả năng đưa ra
10
nhiều giải pháp sáng tạo và tối ưu hơn. Sự đa dạng từ chuyên môn, kỹ năng và kiến
thức nền của các thành viên đóng vai trị quan trọng trong việc đưa ra ý tưởng mới
cũng như giải quyết vấn đề. Ngược lại, làm việc một mình, bạn sẽ thường chọn các
giải pháp an tồn, khơng có tính bứt phá.
Hình 2.2: Làm việc nhóm đem đến lợi ích là thúc đẩy tư duy sáng tạo của thành viên
Thứ ba, nâng cao động lực làm việc cho từng thành viên trong nhóm:
Lợi ích của làm việc nhóm là đem đến nhiều thay đổi mới về hành vi và thái độ của
mỗi sinh viên. Một trong ám ảnh của sinh viên Bách Khoa khi hồn thành học phần đó
là BTL. Nó chiếm 25% →30% điểm của mơn học nên độ khó cũng sẽ phải tương
đương. Và để có thể giải quyết tốt BTL rất cần sự phối hợp giữa các thành viên trong
nhóm. Cơng việc phải được chia đồng đều sẽ tránh được việc một người ôm quá nhiều
dẫn đến căng thẳng. Các thành viên chỉ phụ trách một phần việc và cùng hỗ trợ nhau
hoàn thành dự án lớn nên sẽ cảm thấy vui vẻ và có động lực làm việc hơn.
11
Hình 2.3: Động lực làm việc được nâng cao khi làm việc nhóm
Thứ tư, kết nối các mối quan hệ giữa các sinh viên:
Ngoài việc chú trọng về học tập, sinh viên trường Đại học Bách Khoa cịn rất tích cực
tham gia các hoạt động tình nguyện. Đặc biệt trong thời điểm dịch bệnh Covid-19 vừa
qua, có rất nhiều “chiến sĩ” tham gia hỗ trợ nơi tuyến đầu chống dịch và cịn rất nhiều
hoạt động đóng góp cho xã hội khác. Khi sinh viên tham gia các hoạt động đó, sinh
viên sẽ có cơ hội để làm việc nhóm, thiết lập, phát triển các mối quan hệ và kỹ năng
giao tiếp.
Hình 2.4: Kết nối các mối quan hệ thơng qua các hoạt động tình nguyện
12
Bên cạnh đó, khi là thành viên của một nhóm, các thành viên sẽ phải luôn tin tưởng,
gắn kết với nhau để có thể tạo ra một mơi trường làm việc thoải mái. Ngược lại, nếu
khơng có sự tin tưởng, nhóm của bạn sẽ thất bại do các hiểu lầm khơng đáng có.
Thứ năm, mỗi sinh viên có thể làm việc linh hoạt và cân bằng cuộc sống:
Trong quá trình làm việc nhóm, mỗi thành viên sẽ có thể linh hoạt hỗ trợ lẫn nhau khi
gặp khó khăn và cần sự giúp đỡ. Ngồi ra, làm việc nhóm sẽ tạo ra tính linh hoạt trong
giải quyết các bài tập khó, nâng cao năng suất, thay đổi tình thế cơng việc dễ dàng và
giúp sinh viên cân bằng được công việc và cuộc sống.
Hình 2.5: Tham gia các hoạt động nâng cao sức khỏe
Thứ sáu, cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề cho sinh viên:
Thói quen và phong cách làm việc theo nhóm của mỗi cá nhân sinh viên đơi khi sẽ đối
lập với những đồng đội còn lại và khiến mọi người khó hợp tác với nhau. Để hịa hợp
hơn, mỗi thành viên cần học cách chấp nhận quan điểm sống của mọi người và hồn
thành cơng việc theo mục tiêu chung. Điều này sẽ giúp bạn cải thiện được kỹ năng giải
quyết các vấn đề và tránh được xung đột không mong muốn.
13
Hình 2.6: Cải thiện kỹ năng giải quyết vấn đề
Thứ bảy, nâng cao các kĩ năng mềm sinh viên:
Lợi ích cuối cùng của làm việc nhóm chính là giúp các thành viên thăng tiến trong sự
nghiệp. Bằng cách cộng tác với mọi người ở trường Đại học Bách Khoa, bạn sẽ có cơ
hội học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm từ các cuộc thi như sáng tạo trẻ cơ khí, nhập môn
về kỹ thuật. Đồng thời, các CLB sẽ luôn là môi trường tiềm năng giúp bạn học hỏi
những kinh nghiệm và nâng cao kỹ năng cũng như chuyên môn. Không chỉ vậy, bạn
cịn có thể xây dựng các mối quan hệ để giúp đỡ nhau từ nhiều khía cạnh, đem đến
những cơ hội phát triển tốt hơn sau này.
Hình 2.7: Trau dồi các trải nghiệm thực tế trong mùa hè xanh
14
2.2.2 Những khó khăn khi làm việc nhóm của sinh viên trường Đại học Bách Khoa,
ĐHQG TPHCM
Thứ nhấ t, xung đột, mâu thuẫn ý kiến trong quá trình làm việc nhóm:
Xung đột, mâu thuẫn là một trong số các khó khăn khi làm việc nhóm. Đặc biệt đối
với chương trình đào tạo trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG TP.HCM rất coi trọng
việc đổi mới sáng tạo. Trường Bách Khoa khuyến khích sinh viên phải thường xuyên
đưa ra những sáng kiến mới lạ. Từ đó, việc suy nghĩ trái chiều hoặc khơng đồng thuận
ý kiến là hết sức bình thường. Do đó, đây là một trong các vấn đề tất yếu xảy ra khi
làm việc theo nhóm.
Thứ hai, nhiều sinh viên làm việc một cách thụ động trong quá trình làm việc nhóm:
Trên thực tế, khơng phải ai cũng có tinh thần chủ động cống hiến và làm việc hết
mình. Nhiều cá nhân lại có xu hướng làm việc thụ động và ít tương tác, đưa ý kiến. Họ
thường có xu hướng đùn đẩy việc suy nghĩ ý tưởng, giải pháp cho người khác. Do đó,
đây sẽ là một dạng khó khăn khi làm việc nhóm mà bạn nên tìm cách khắc phục.
Thứ ba, một số thành viên tương tác kém, thiếu kết nối đối với nhóm:
Một nhóm làm việc khơng hiệu quả nếu các thành viên thiếu sự kết nối với nhau. Đặc
biệt, trước ảnh hưởng của dịch Covid-19, trường Đại học Bách Khoa phải triển khai
phương án học trực tuyến thơng qua nền tảng Google Meet. Do đó, mơi trường học tập
có tính tương tác cao sẽ giúp các sinh viên gần gũi và gắn kết hơn. Điều này sẽ giúp
cho các đồng đội thấu hiểu lẫn nhau và làm việc ăn ý hơn.
Thứ tư, ý thức của sinh viên trong q trình làm việc nhóm chưa cao:
Trong một nhóm làm việc, chắc chắn sẽ có ít nhất 1 thành viên hay lười biếng, ỷ lại và
thiếu trách nhiệm với các cơng việc của nhóm. Điều này có thể làm mối quan hệ giữa
các đồng đội bị ảnh hưởng. Trưởng nhóm nên hạn chế vấn đề khi làm việc nhóm này
bằng cách sắp xếp cơng việc rõ ràng với từng người và yêu cầu họ hoàn thành đúng
tiến độ.
Thứ năm, cá nhân không quan tâm kết quả chung của nhóm:
Trong q trình làm BTL, một số sinh viên chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân. Đây
được xem là một trong những khó khăn khi làm việc nhóm. Họ chỉ tập trung hồn
thành cơng việc cá nhân mà khơng quan tâm đến tiến độ chung của nhóm. Tuy nhiên,
đối với chương trình đào tạo của Bách Khoa thì đồ án, công việc chỉ đạt khi tất cả
15
cùng hồn thành. Điều này có nghĩa là nếu sinh viên có năng lực rất xuất sắc nhưng
các thành viên khác làm việc khơng hiệu quả thì sinh viên đó vẫn thất bại.
2.2.3 Số liệu thu được từ việc khảo sát các bạn sinh viên Đại học Bách Khoa
Thực hiện nghiên cứu vấn đề làm việc nhóm của sinh viên Đại học Bách Khoa
dựa trên các tiêu chí đánh giá như sau:
Đánh giá mức độ thường xuyên
Đánh giá về việc nêu ý kiến và
làm việc nhóm ở nhiều mơi
trường khác nhau (trong quá
trình học tập, sinh hoạt,
CLB,…).
bảo vệ quan điểm của sinh viên
Bách Khoa trong q trình làm
việc nhóm.
Tiêu chuẩn về số lượng sinh
Sinh viên đạt được những lợi
viên hoạt động hiệu quả nhất là
bao nhiêu sinh viên?
ích gì từ hoạt động nhóm?
Đánh giá mức độ cống hiến của
Cách thức xử lý mâu thuẫn
sinh viên Bách Khoa khi hoạt
động nhóm.
trong q trình làm việc nhóm.
Những mặt cần cải thiện từ
phản hồi của sinh viên Bách
Khoa.
Đó là những tiêu chí cần thiết để nhóm tiến hành đánh giá thực trạng làm việc
nhóm của sinh viên hiện nay. Phần khảo sát dựa trên quan điểm, đánh giả của 134 sinh
viên Bách Khoa.
Thứ nhất, mức độ đóng góp của mỗi thành viên ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả
mà cả nhóm đạt được. Từ biểu đồ dưới đây, chung ta dễ dàng nhìn thấy mức độ
thường xuyên cho từng môi trường của sinh viên Trường Đại học Bách khoa, ĐHQG
TP.HCM.
16
Hình 2.8: Đánh giá mức độ thường xuyên làm việc nhóm ở các mơi trường
Trong số 143 sinh viên được tiến hành khảo sát thì mức độ ưu tiên trong các mơi
trường thì hoạt động nhóm xảy ra thường xun nhất của sinh viên đó là từ hoạt động
học tập. Số sinh viên vẫn giữ thái độ đánh giá khách quan cho những môi trường khác
ở mức độ tương đối cho từng hoạt động khác như ở các sự kiện và CLB. Đối với học
tập chiếm 57,4%, trong khi đó mức độ thường xuyên làm việc nhóm ở các hoạt động
khác chỉ chiếm 22,3%.
Thứ hai, việc tham gia đóng góp ý kiến vào bài làm và đưa ra lý lẽ bảo vệ ý kiến
của mình là rất quan trọng. Đối với việc nêu ý kiến thì số sinh viên thể hiện mức độ
tích cực đóng góp trong xun suốt q trình thảo luận ý tưởng chiếm 35,8%. Thái độ
từ quan trọng đến không quan trọng giảm mạnh từ cột cam. Thành phần nêu ít ý kiến
(cột tím) chỉ chiếm 5% đóng góp vào việc làm nhóm. Cịn về bảo vệ ý kiến thì mức
quan tâm bình thường của sinh viên trường Bách Khoa cao hơn so với mức thường
thường xuyên hơn 6%. Những con số đã nói lên việc phản biện từ các hoạt động theo
nhóm của sinh viên Bách khoa vẫn cần chú trọng và quan tâm hơn nữa.
17
Hình 2.9: Tham gia và đóng góp ý kiến của bản thân
Thứ ba, khi xét về khía cạnh lượng kiến thức mà sinh viên Bách Khoa nhận được
khi làm việc nhóm với nhau đã mang nhiều kết quả tích cực hơn so với những cá nhân
nhỏ lẻ hoạt động độc lập. Hầu hết sinh viên Bách Khoa đều đồng ý rằng bản thân đã
học hỏi nhiều điều thông qua làm việc nhóm như các nội dung kiến thức từ các đề tài
BTL, mở rộng mối quan hệ, nâng cao kỹ năng mềm, rèn tính kỷ luật. Lần lượt chiếm
51%, 43%, 52%, 51%.
Hình 2.10: Những kỹ năng nhận được khi làm việc nhóm
18
Thứ tư, một trong những yếu tố không kém phần quan trọng đối với mức độ hiệu
quả làm việc của nhóm đó là quy mơ của nhóm. Mặc dù cịn tùy thuộc vào vào mức độ
khó lớn của cơng việc chung mà nhóm phải làm nhưng xét trên phương diện quy mơ
một cách tương đối thì quy mơ nhóm cũng có những ảnh hưởng nhất định đến kết quả
làm việc nhóm.
Hình 2.11: Quy mơ của nhóm để làm việc hiệu quả
Thông qua bài khảo sát, chúng ta dễ dàng nhận thấy hầu hết sinh viên Bách Khoa
đều nghiêng về 3-5 sinh viên là lựa chọn tối ưu và hiệu quả nhất. Bởi vì trong quá trình
học tập thì sinh viên Bách Khoa đều phải làm BTL (một đề tài hệ thống một khối
lượng lượng lớn và địi hỏi tính logic cao nên việc chia nhỏ lẻ cho nhiều cá nhân cùng
làm là lựa chọn khả thi).
Thứ năm, một trong những điều khơng thể bỏ qua trong q trình làm việc nhóm
đó là những xung đột, mâu thuẫn.
19
Hình 2.12: Giải pháp giải quyết mâu thuẫn khi làm việc nhóm
Qua đánh giá sơ bộ thì có 79,9% sinh viên Bách Khoa lựa chọn giải pháp giải
quyết ngay. Việc giải quyết ngay lúc bất đồng ý kiến giữa các thành viên là lực chọn
khả dĩ nhất. Bộ phận sinh viên khác thì có quan điểm đó là giải quyết vấn đề dần dần
chiếm 12,7% tổng số sinh viên khảo sát. Đối với việc giải quyết sau khi xong việc và
lờ đi chỉ chiếm 1,4%. Từ những thông số trên, sinh viên Bách khoa đã có cái nhìn khác
quan, tích cực chủ động giải quyết vấn đề để cả nhóm đạt được những kết quả mong
muốn.
Thứ sáu, mỗi cá nhân với vai trò là nhân tố quan trọng cấu thành nên nhóm, vừa
chịu ảnh hưởng của nhóm vừa tác động đến hiệu quả làm việc của nhóm, đây chính là
sự tương tác qua lại giữa cá nhân và tập thể. Vì vậy, mức độ cống hiến của từng thành
viên tác động rất lớn đến hoạt động nhóm. Sau đây là phần khảo sát mức độ cống hiến
của sinh viên Bách Khoa đối với hoạt động nhóm.
20
Hình 2.13: Mức độ cống hiến của bản thân khi làm việc nhóm
Theo khảo sát của chúng tơi, chiếm 38,8% cho rằng đóng góp của mình đến
thành quả của nhóm là nhiều. Thấp hơn chút là mức độ vừa phải chiếm 38,1%. Số sinh
viên tự nhận xét về bản thân có hỗ trợ “ít, rất ít” chiếm 4,4%. Đây là con số đáng lưu
ý, và cần phải được cải thiện rất nhiều, bởi lẽ khi thanh viên cảm thấy đóng góp của
mình khơng nhiều sẽ dẫn đến nhiều hệ quả không tốt như học tập sa sút, tự ti,…
Thứ bảy, tất cả sinh viên Bách khoa đều có mong muốn chung đó là cần phải cải
thiện thiện phương diện thái độ (75,2%). Theo sau đó là các thành viên phải quản lý
tốt về mặt thời gian cá nhân và đội nhóm, nắm rõ kế hoạch và hạn nộp, hạn chế ảnh
hưởng đến tiến độ làm việc cả nhóm (67,7%).
21