Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Một số vấn đề lý luận chung Kinh doanh chứng khoán Công ty chứng khoán với hoạt động tự doanh chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.23 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
Mở bài
Nội dung
I - Một số vấn đề lý luận chung
1. Kinh doanh chứng khoán
2. Công ty chứng khoán với hoạt động tự doanh chứng khoán
3. Công ty đầu tư chứng khoán với hoạt động mua bán chứng khoán
II - So sánh hoạt động tự doanh chứng khoán với hoạt động mua, bán chứng
khoán của công ty đầu tư chứng khoán
1.Những điểm giống nhau
2. Những điểm khác nhau
III - Thực tế áp dụng của hoạt động tự doanh chứng khoán và hoạt động
mua bán chứng khoán
IV- Nhận xét của nhóm.
Kết luận

1


Mở bài
Công ty chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán đều là hai chủ thể của hoạt
động kinh doanh chứng khoán. Hai chủ thể này đều có những hoạt động đặc thù của
mình. Trong đó hoạt động tự doanh chứng khoán và hoạt động mua bán chứng khoán
của công ty đầu tư chứng khoán thường không được các chủ thể hiểu một cách rõ
ràng. Bởi vậy, việc so sánh hai hoạt động này sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể có thể
tìm hiểu sâu hơn về hai hoạt động, có được lựa chọn tốt nhất cho sự đấu tư của mình.

Nội dung
I.

Một số vấn đề lý luận chung



1.

Kinh doanh chứng khoán

Trước khi tìm hiểu về hoạt động kinh doanh chứng khoán, chúng ta phải hiểu thế
nào là chứng khoán. Tại khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoán quy định: “Chứng khoán là
bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc
phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng
chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp
đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.”
Theo quy định tại khoản 9 Điều 6 Luật chứng khoán 2006 thì: “Kinh doanh
chứng khoán là việc tự thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng
khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng
khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.”.
Từ khái niệm trên, có thể thấy kinh doanh chứng khoán có một số nhưng đặc
điểm đặc trưng như sau:
Thứ nhất, kinh doanh chứng khoán là nghề thương mại đặc thù, có liên quan trực
tiếp đến quyền, lợi ích của các chủ đầu tư là công chúng và các doanh nghiệp. Vì thế
những chủ thể muốn thực hiện nghề nghiệp này phải thỏa mãn một số điều kiện rất
khắt khe về mặt tài chính cũng như về mặt pháp lý, thậm chí kể cả những điều kiện về
cơ sở vật chất, kỹ thuật để thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Thứ hai, đối tượng hoạt động của kinh donh chứng khoán chính là các chứng
khoán – giá trị động sản và các dịch vụ về chứng khoán.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh chứng khoán phải tuân thủ một số nguyên tắc đặc
thù của thị trường chứng khoán, chẳng hạn như nguyên tắc công bằng, công khai,
minh bạch và bảo về quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư.
2



2.

Công ty chứng khoán với hoạt động tự doanh chứng khoán

Trong khái niệm về công ty chứng khoán cho thấy tự doanh chứng khoán chính
là một trong những hoạt động của công ty chứng khoán. Theo khoản 21 Điều 6 Luật
chứng khoán 2006: “Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán mua hoặc
bán chứng khoán cho chính mình”
Tự doanh là nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, trong đó công ty chứng khoán
mua bán chứng khoán bằng vốn của chính mình để thu lợi nhuận và chịu mọi rủi ro
liên quan đến việc nắm giữ các chứng khoán đó.
Đặc điểm của hình thức tự doanh chứng khoán:
Thứ nhất, hoạt động tự doanh chứng khoán có bản chất kinh tế là nghề nghiệp
kinh doanh đồng thời có bản chất pháp lý là hành vi thương mại. Hoạt động này luôn
được thực hiện một cách thường xuyên, chuyên nghiệp bởi các chủ thể kinh doanh là
công ty chứng khoán.
Thứ hai, trong hoạt động tự doanh chứng khoán, công ty chứng khoán không tiến
hành việc mua bán chứng khoán cho người khác, theo yêu cầu hay vì quyền lợi của
người khác mà hoàn toàn chỉ vì lợi ích của mình và cho chính mình.
3.

Công ty đầu tư chứng khoán với hoạt động mua bán chứng khoán

Công ty đầu tư chứng khoán là công ty được thành lập từ vốn góp của các nhà
đầu tư và sử dụng số vốn góp đó để đầu tư chủ yếu vào chứng khoán nhằm tìm kiếm
lợi nhuận. Và hoạt động mua bán chứng khoán chính là hoạt động chủ yếu của công ty
đầu tư chứng khoán.


II.
So sánh hoạt động tự doanh chứng khoán với hoạt động mua, bán chứng
khoán của công ty đầu tư chứng khoán
1.

Những điểm giống nhau
1.1. Cả hai hoạt động này đều được diễn ra trên thị trường chứng khoán.

Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi chứng
khoán. Tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán thực chất cũng là hoạt động
công ty chứng khoán mua bán chứng khoán, giống như việc mua, bán chứng khoán
của các công ty đầu tư chứng khoán. Do đó, cả hai hoạt động này đều phải được diễn
ra trên thị trường chứng khoán
1.2.Chủ thể tiến hành
Chủ thể tiến hành hai hoạt động này đều là các pháp nhân, mà cụ thể là các
doanh nghiệp nên chúng đều có những đặc điểm chung của các loại hình doanh nghiệp
ở Việt Nam.

3


Theo quy định tại Khoản 21 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 thì chủ thể của
hoạt động tự doanh chứng khoán chỉ có thể là công ty chứng khoán. Ở Việt Nam hiện
nay tuy Luật chứng khoán không đưa ra định nghĩa về công ty chứng khoán song qua
các quy định cụ thể trong Luật chứng khoán có thể khái quát định nghĩa về công ty
chứng khoán như sau: “Công ty chứng khoán là công ty cổ phần hoặc công ty trách
nhiệm hữu hạn được thành lập, hoạt động theo quy định của Luật chứng khoán và các
quy định khác của pháp luật để thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán dưới đây theo giấy phép do Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp:
môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn

đầu tư chứng khoán. Qua định nghĩa trên có thể thấy: công ty chứng khoán tại Việt
Nam được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Do đó, nó đều là các pháp nhân.
Công ty đầu tư chứng khoán là công ty được thành lập từ vốn góp của các nhà
đầu tư và sử dụng số vốn góp đó để đầu tư chủ yếu vào chứng khoán nhằm tìm kiếm
lợi nhuận. Công ty đầu tư chứng khoán có thể huy động vốn thông qua việc tổ chức
chào bán cổ phiếu riêng lẻ để thành lập công ty đầu tư chứng khoán phi đại chúng
hoặc thông qua chào bán cổ phiếu ra công chúng để thành lập công ty đầu tư chứng
khoán đại chúng. Từ đó, có thể thấy công ty đầu tư chứng khoán luôn được thành lập
dưới hình thức công ty cổ phần. Do đó, nó cũng là một pháp nhân có tổ chức bộ máy
hoàn chỉnh.
1.3. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
Xét về bản chất, hoạt động tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán và
hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán đều là việc mua vào,
bán ra các loại chứng khoán nên khi thực hiện các hoạt động này, cả công ty chứng
khoán và công ty đầu tư chứng khoán đều có một số quyền và nghĩa vụ cơ bản sau:
Với tư cách là bên mua chứng khoán: Quyền yêu cầu bên bán chứng khoán hoặc
nhà môi giới chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán cho mình. Quyền năng này
thường được thực hiện sau khi công ty chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán đã
hoàn thành nghĩa vụ chuyển giao tiền mua chứng khoán cho người bán, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận về việc chuyển giao chứng khoán trước khi hoàn thành nghĩa vụ
thanh toán tiền mua chứng khoán. Đồng thời với quyền đó là nghĩa vụ thanh toán tiền
mua chứng khoán cho bên bán.
Với tư cách là người bán chứng khoán: Nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu
chứng khoán cho bên mua và quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền mua chứng
khoán cho mình.
1.4. Cả hai hoạt động này đều có đối tượng là chứng khoán
Hoạt động tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán và hoạt động mua,
bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán đều được thực hiện thông qua loại
hàng hóa đặc biệt là chứng khoán. Loại hàng hóa đặc biệt này được giao dịch trên thị


4


trường đặc biệt là thị trường chứng khoán và các giao dịch đó phải tuân thủ quy chế
pháp lí đặc biệt do pháp luật về chứng khoán quy định.
1.5. Cả hai hoạt động này đều được các chủ thể tiến hành nhằm mục đích
kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận
Các công ty chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán đều là các thương nhân,
tiến hành các hoạt động kinh doanh và đầu tư chứng khoán nhằm mục đích để thu lợi
nhuận. Đó là mục đích rõ ràng được thể hiện ngay từ khi các chủ thể này tiến hành
đăng ký kinh doanh.
1.6. Ngoài ra, hai hoạt động tự doanh chứng khoán và mua, bán chứng khoán
của công ty đầu tư chứng khoán còn một số đặc điểm chung
Cả hai hoạt động này đều diễn ra các hoạt động chủ yếu là mua và bán chứng
khoán trên thị trường.
Nguồn vốn để tiến hành các hoạt động này đều là nguồn vốn, tài sản của chính
công ty để thực hiện các hành vi mua và bán chứng khoán trên thị trường nhằm đem
lại lợi nhuận cho mình.
Cả hai hoạt động này đều chịu sự điều chỉnh của Luật chứng khoán và các văn
bản có liên quan.
Hai hoạt động này đều đặt dưới sự quản lý Nhà nước trực tiếp của cơ quan quản
lý chính thức là Ủy ban chứng khoán Nhà nước.
2.

Những điểm khác nhau

Xét về mặt hình thức, hoạt động tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán
và hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán có nhiều điểm
giống nhau. Tuy nhiên, nếu xét về bản chất kinh tế và bản chất pháp lý thì hoạt động

tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán có rất nhiều điểm khác biệt so với
hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán.
2.1. Về chủ thể tiến hành
Hoạt động tự doanh chứng khoán chỉ được tiến hành bởi một chủ thể duy nhất
trên thị trường, đó là công ty chứng khoán. Còn hoạt động mua, bán chứng khoán của
công ty đầu tư chứng khoán được tiến hành bởi các công ty đầu tư chứng khoán. Giữa
hai chủ thể này có rất nhiều điểm khác biệt.
Một là: Về lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh
Công ty chứng khoán là chủ thể kinh doanh trên thị trường chứng khoán có hoạt
động kinh doanh chính, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là kinh doanh chứng
khoán. Tại điều 60 Luật chứng khoán năm 2006 chỉ rõ: công ty chứng khoán được
thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán dưới đây theo
giấy phép được cấp: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành
chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán. Ủy ban chứng khoán Nhà nước chỉ cấp giấy
5


phép hoạt động bảo lãnh phát hành khi công ty chứng khoán đã được phép hoạt động
tự doanh. Công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ lưu ký chứng khoán khi
được cấp giấy phép thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán hoặc tự doanh chứng
khoán. Ngoài các nghiệp vụ kinh doanh theo giấy phép được cấp, công ty chứng khoán
được cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác.
Đối với công ty đầu tư chứng khoán, nguồn vốn mà công ty huy động được sau
khi thực hiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ hoặc chào bán cổ phiếu ra công chúng sẽ
được sử dụng vào đầu tư chứng khoán, tức là không phải cung cấp các dịch vụ chứng
khoán như công ty chứng khoán mà là bỏ vốn để mua các loại chứng khoán, hưởng cổ
tức hoặc bán nếu thấy có lãi; ngoài ra, phần ít hơn, có thể đầu tư vào bất động sản.
Hai là: Về hình thức tổ chức pháp lý.
Công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn
hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp.

Công ty đầu tư chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần (có thể
là công ty đại chúng hoặc công ty phi đại chúng).
2.2. Về điều kiện để tiến hành
Hoạt động tự doanh chứng khoán có bản chất kinh tế là nghề nghiệp kinh doanh
đồng thời có bản chất pháp lý là hành vi thương mại. Hoạt động này luôn được thực
hiện một cách thường xuyên, chuyên nghiệp bởi chủ thể kinh doanh là công ty chứng
khoán. Do có bản chất là hoạt động kinh doanh đặc thù nên việc tự doanh chứng khoán
phải được cấp giấy phép và đăng ký kinh doanh tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
là Ủy ban chứng khoán Nhà nước. Công ty chứng khoán phải thỏa mãn các điều kiện
nhất định mới có thể tiến hành hoạt động tự doanh chứng khoán, bao gồm các điều
kiện về cở sở vật chất, về nhân sự và mức vốn pháp định tối thiểu phải là 100 tỉ đồng
Việt Nam.
Đối với hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán: do
đầu tư chứng khoán là hoạt động kinh doanh chủ yếu nhất của các công ty đầu tư
chứng khoán ngay từ khi thành lập nên các công ty đầu tư chứng khoán chỉ cần có
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thành lập công ty với số vốn pháp định là 50 tỉ
đồng là có thể tiến hành các hoạt động mua, bán chứng khoán mà không cần phải được
cấp giấy phép như hoạt động tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán.
2.3. Về cơ sở để tiến hành hoạt động
Hoạt động tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán được thực hiện trên
cơ sở trực tiếp kí kết các hợp đồng mua, bán chứng khoán với khách hàng hoặc đặt
lệnh mua, bán trên thị trường cho các nhà môi giới chứng khoán thực hiện. Xét về bản
chất, dù là thỏa thuận trực tiếp giữa công ty chứng khoán với khách hàng hay thỏa
thuận gián tiếp thông qua các nhà môi giới là đại diện thì việc mua vào, bán ra chứng
khoán của công ty chứng khoán tự doanh vẫn phải được thực hiện thông qua hình thức
pháp lý là hợp đồng mua bán chứng khoán.
6


Hợp đồng mua bán chứng khoán tự doanh là thỏa thuận giữa công ty chứng

khoán tự doanh với khách hàng về việc mua, bán các chứng khoán niêm yết và chứng
khoán chưa niêm yết. Theo hợp đồng này, công ty chứng khoán tự doanh có thể trực
tiếp tự mình thỏa thuận mua hoặc bán một số lượng chứng khoán nhất định với khách
hàng hoặc gián tiếp thỏa thuận với khách hàng thông qua nhà môi giới chứng khoán là
người đại diện mua hoặc đại diện bán.
Đối với việc mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán thì chủ yếu
được tiến hành thông qua hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ hoặc chào bán
chứng khoán ra công chúng và hoạt động đặt lệnh mua chứng khoán trên thị trường.
2.4. Về mục đích tiến hành hoạt động
Nói một cách cụ thể và đầy đủ thì hoạt động tự doanh chứng khoán thực chất là
việc công ty chứng khoán tiến hành các hoạt động mua và bán chứng khoán cho chính
mình, bằng nguồn vốn của mình và thu lợi nhuận cho mình trên thị trường chứng
khoán. Đó có thể hiểu là hoạt động mua, bán chứng khoán thông thường nhằm mục
đích thu lợi hoặc đôi khi nhằm mục đích can thiệp điều tiết giá trên thị trường. Việc
mua chứng khoán thường được tiến hành khi giá chứng khoán đang ở mức thấp và khi
giá chứng khoán lên cao, công ty chứng khoán đánh giá là có lãi thì sẽ tiến hành bán
chứng khoán. Lợi nhuận ở đây chủ yếu là khoản chênh lệch giữa giá mua và giá bán
chứng khoán. Hay nói cách khác, hoạt động tự doanh chứng khoán là hoạt động kinh
doanh chứng khoán. Chứng khoán ở đây là một loại hàng hóa.
Đối với hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán, tuy
các hoạt động mua, bán chứng khoán cũng được công ty đầu tư chứng khoán thực hiện
cho chính mình, bằng nguồn vốn của mình và thu lợi nhuận cho mình trên thị trường
chứng khoán nhưng đó không đơn thuần là hoạt động mua, bán chứng khoán thông
thường mà đó là một hoạt động đầu tư: công ty đầu tư chứng khoán bỏ vốn ra để mua
chứng khoán, không phải cứ thấy sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán là tiến hành
bán chứng khoán để thu lợi nhuận mà lợi nhuận công ty đầu tư chứng khoán hướng
đến chính là các khoản lợi tức thu được từ chứng khoán.
Chính vì thế, về bản chất đây là hai hoạt động khác nhau. Khoản thu từ lợi nhuận
của hai hoạt động này là khác nhau. Một bên là khoản chênh lệnh giữa giá mua và giá
bán chứng khoán một bên là lợi tức phát sinh từ khoản đầu tư chứng khoán.

2.5. Về thời gian tiến hành hoạt động mua, bán chứng khoán
Hoạt động tự doanh chứng khoán của công ty chứng khoán hướng đến tìm kiếm
lợi nhuận từ sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán chứng khoán, do đó thời gian công
ty chứng khoán giữ chứng khoán đã mua thường là không dài, khi thấy có lãi công ty
sẽ tiến hành bán chứng khoán.
Đối với công ty đầu tư chứng khoán, thực chất việc mua chứng khoán là một
hoạt động đầu tư, do đó khi đã mua chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán sẽ đi
cùng doanh nghiệp để hưởng lợi tức, việc bán chứng khoán chỉ được tiến hành sau một
khoảng thời gian tương đối dài.
7


2.6. Về các hạn chế đối với hoạt động tự doanh chứng khoán và hoạt động
mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán
Theo Điều 20 Quy chế hoạt động của tổ chức và hoạt động của công ty chứng
khoán số 55/2004/QĐ-BTC quy định về hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán
thì khi tiến hành nghiệp vụ tự doanh , công ty chứng khoán không được:
+ Đầu tư vào cổ phiếu của công ty có sở hữu trên 50% vốn điều lệ của công ty
chứng khoán
+ Đầu tư vào cổ phiếu của công ty có sở hữu trên 50% vốn điều lệ của công ty
chứng khoán
+ Đầu tư quá 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức niêm yết
+ Đầu tư quá 15% số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức không niêm yết
Đối với công ty đầu tư chứng khoán, khi thực hiện việc mua, bán chứng khoán
phải chấp hành các quy định được quy định tại Nghị định 14/2007/NĐ-CP như sau:
- Công ty đầu tư chứng khoán phát hành riêng lẻ chỉ được chào bán cổ phiếu cho
tối đa 99 nhà đầu tư, trong đó nhà đầu tư có tổ chức phải đầu tư tối thiểu 3 tỷ đồng và
cá nhân đầu tư tối thiểu 1 tỷ đồng. Công ty đầu tư chứng khoán phát hành riêng lẻ
không phải tuân thủ các quy định về hạn chế đầu tư như công ty đầu tư chứng khoán
đại chúng quy định tại Điều 92 Luật Chứng khoán.

- Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng phải tuân thủ các quy định về hạn chế
đầu tư chứng khoán tại Điều 92 Luật chứng khoán. Khi thực hiện hoạt động mua bán
chứng khoán không được:
+Đầu tư vào chứng chỉ quỹ của chính quỹ đại chúng đó hoặc của một quỹ đầu tư
khác;
+Đầu tư vào chứng khoán của một tổ chức phát hành quá 15% tổng giá trị chứng
khoán đang lưu hành của tổ chức đó;
+Đầu tư quá 20% tổng giá trị tài sản của quỹ vào chứng khoán đang lưu hành của
một tổ chức phát hành;
+Đầu tư quá 10% tổng giá trị tài sản của quỹ đóng vào bất động sản; đầu tư vốn
của quỹ mở vào bất động sản;
+Đầu tư quá 30% tổng giá trị tài sản của quỹ đại chúng vào các công ty trong
cùng một nhóm công ty có quan hệ sở hữu với nhau.
III. Thực tế áp dụng của hoạt động tự doanh chứng khoán và hoạt động mua
bán chứng khoán
1.

Hoạt động tự doanh

Hoạt động tự doanh vào thời điểm hiện nay vẫn chưa thực sự nổi bật, các công
ty chứng khoán mới chỉ tập trung vào hoạt động môi giới. Điều này có thể được nhìn
nhận dưới rất nhiều lý do khác nhau như: tính chất phức tạp của hoạt động tự doanh
8


hay các công ty chứng khoán chỉ muốn tập trung hoàn thiện nghiệp vụ môi giới trước
để từ đó rút kinh nghiệm triển khai các hoạt động có liên quan trong tương lai...
Nghiệp vụ tự doanh của công ty chứng khoán có thể chia thành 2 lĩnh vực:
Thứ nhất, các công ty chứng khoán thực hiện việc mua bán chứng khoán niêm
yết cho chính công ty mình. Tuy nhiên, hiện nay do số lượng các chứng khoán niêm

yết còn ít nên nghiệp vụ này hầu như chưa được triển khai.
Thứ hai, các công ty chứng khoán thực hiện hoạt động tự doanh bằng hình thức
như mua chứng khoán không niêm yết trên OTC. Tuy nhiên hoạt động này phải tuân
thủ những hạn mức do pháp luật quy định.
Ngoài ra, một hoạt động tự doanh phổ biến hiện nay của một số công ty chứng
khoán là việc mua chứng khoán niêm yết lô lẻ, sau đó công ty chứng khoán sẽ gộp lại
thành lô chẵn để niêm yết và có thể bán lại trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán, có
thể thấy nghiệp vụ mua lô lẻ này tương tự với nghiệp vụ "xanhdica mua bao chứng
khoán", chỉ khác là công ty chứng khoán mua lẻ chứng khoán từ nhiều nhà đầu tư rồi
niêm yết trên Trung tâm trong khi đó xanhdica mua bao hết chứng khoán của công ty
mới phát hành. Đây là một lĩnh vực có khả năng mang lại lợi nhuận tương đối lớn cho
các công ty chứng khoán. Giá mua lô lẻ được xác định bằng thỏa thuận giữa khách
hàng bán với công ty chứng khoán, do đó các công ty chứng khoán có điều kiện để
đưa ra mức giá phù hợp để thu hút khách hàng, tạo sự chủ động cho các công ty chứng
khoán trong hoạt động kinh doanh của mình.
Đối với việc các công ty chứng khoán, khi cho nhà đầu tư vay chứng khoán để
bán thì sẽ bị hạn chế bởi quy định của pháp luật, nhưng đối với các nhà đầu tư cho
nhau vay mượn chứng khoán lại hoàn toàn hợp pháp vì đây là thỏa thuận dân sự giữa
hai cá nhân với nhau và không bị pháp luật ngăn cấm. Trên thị trường chứng khoán sẽ
có nhiều nhà đầu tư sẽ không quan tâm tới biến động giá của chứng khoán trong một
khoảng thời gian nhất định, và sẽ có nhiều nhà đầu tư muốn có chứng khoán để bán
khi họ chưa sở hữu được chứng khoán tại thời điểm nhất định.
Như vậy, nhu cầu cho vay chứng khoán giữa hai đối tượng nhà đầu tư này hoàn
toàn có thật, người cho vay sẽ được hưởng lãi vay và nhận được một khoản đặt cọc,
người đi vay có thể có chứng khoán để bán và sau một thời gian nhất định phải mua lại
chứng khoán để trả lại người cho vay.
Tuy nhiên, việc cho vay giữa cá nhân với nhau thì rất khó có thể tạo ra một thị
trường, cần có sự tham gia của các công ty chứng khoán đứng dưới vai trò trung gian
để tăng độ đảm bảo cho cả hai bên và tạo ra một thị trường vay mượn rộng lớn giữa
nhiều nhà đầu tư, công ty chứng khoán có thể liên kết với nhau và cùng đầu tư công

nghệ để tạo ra một sàn giao dịch cho vay mượn chứng khoán giữa các nhà đầu tư với
nhau, việc đầu tư thiết bị hiện đại tạo điều kiện cho các giao dịch được thực hiện
nhanh chóng, thuận lợi và an toàn.

9


Một nhà đầu tư khi muốn cho vay chứng khoán sẽ đưa ra một lệnh “ chào vay
chứng khoán” với các điều kiện và lãi xuất, tỷ lệ đặt cọc nhất định, các nhà đầu tư
khác nếu thấy phù hợp sẽ “ khớp lệnh “ chào vay cụ thể nêu trên.
Trên thực tế, tính đến quý III/2011, 80 trong tổng số 100 công ty chứng khoán
(cả niêm yết lẫn chưa niêm yết) báo cáo lợi nhuận sau thuế lỗ, trong đó có cả những
công ty thuộc hàng “số má”. Chứng khoán Sacombank (SBS) lỗ gần 258 tỉ đồng,
VnDirect lỗ gần 130 tỉ đồng, SSI lỗ 17,4 tỉ đồng…
Nguyên nhân gây lỗ chủ yếu ở mảng môi giới chứng khoán, sau đó là tự doanh.
Ở mảng môi giới, nhiều công ty đã cho vay ký quỹ và phải trích lập dự phòng nợ xấu
của các khoản vay mua/cầm cố chứng khoán lớn đối với khách hàng. Nặng nhất là
Công ty Chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHS), lỗ lũy kế 9 tháng đầu năm
382 tỉ đồng, khoản dự phòng nợ phải thu ngắn hạn khó đòi lên đến gần 125 tỉ đồng.
2.

Hoạt động mua, bán

Tính đến hết 12-2008, số lượng công ty chứng khoán là 102 công ty, trong đó có
24 công ty được cấp phép trong năm 2008. Theo số liệu gần đây nhất, tính đến tháng
8/2009 số lượng công ty chứng khoán là 104. Quy mô giao dịch trên thị trường không
ổn định. Từ những tháng cuối năm 2008, khối lượng và giá trị giao dịch giảm dần, đặc
biệt giảm mạnh vào đầu năm 2009. Từ tháng 02/2009 khối lượng và giá trị giao dịch
đã có dấu hiệu đi lên và dần vào ổn định.
Năm 2007, tăng trưởng giá trị giao dịch cao hơn tăng trưởng số lượng công ty chứng

khoán, bởivậy giá trị giao dịch / 1 công ty chứng khoán tăng cao hơn, giúp các công ty chứng
khoán có lãi hơn trong môi giới giao dịch. Năm 2008, tăng trưởng giá trị giao dịch không
theo kịp với tăng trưởng số lượng các công ty chứng khoán, bởi vậy giá trị giao dịch trung
bình / 1 công ty chứng khoán đang có xu thế giảm. Bắt sóng phục hồi của thị trường, lợi
nhuận của các công ty nhanh chóng trở lại. Đến thời điểm này nhiều công ty chứng khoán đã
công bố kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2009. Trong đó, có những con số vượt cả dự
tính, nhưng không gây ngạc nhiên, khi đặt trong những chuyển biến tích cực trên của thị
trường. Mặt khác, sau khi trải qua năm 2008 đầy khó khăn, cũng như trong quý 1/2009, hầu
hết các thành viên đều rất thận trọng khi dự tính các mục tiêu trong năm này.
Một bức tranh với gam màu chủ đạo là xám và tối phản ánh khá chân thực kết quả kinh
doanh của các công ty chứng khoán trong hai năm 2010 và 2011.
Công ty chứng khoán là khối bị ảnh hưởng nặng nhất bởi khó khăn của kinh tế vĩ mô
trong 6 tháng đầu năm 2011. Theo đánh giá của Ủy ban Chứng khoán, tình hình kinh tế vĩ mô
không thuận lợi nên hoạt động của các công ty chứng khoán khá ảm đạm và kết quả không
được khả quan trong 6 tháng đầu năm.
Số lượng công ty chứng khoán lâm vào tình trạng thua lỗ đến thời điểm này vẫn chưa có
nhiều cải thiện so với quý 1. Từ con số 20 công ty chứng khoán thua lỗ trong năm 2010, tăng
lên 62/105 công ty chứng khoán lỗ trong quý I/2011 và tổng số công ty có lỗ luỹ kế đến thời
điểm hiện nay là 61/105 công ty.
10


Các công ty chứng khoán thì cho rằng, tình trạng kinh doanh thua lỗ của họ chủ yếu do
diễn biến thị trường xấu, khiến doanh thu giảm mạnh trong khi số tiền phải chi cho dự phòng
giảm giá chứng khoán tăng cao.
Trong khi đó, vẫn có một bộ phận không ít các công ty chứng khoán tranh thủ giai đoạn
thị trường khó khăn lúc này để “sốc” lại hoạt động kinh doanh của mình thông qua các hoạt
động tái cấu trúc về vốn, cổ đông chiến lược, nghiệp vụ kinh doanh, công nghệ, nhân sự, tổ
chức.
Nhờ đó, quy mô vốn điều lệ của các công ty chứng khoán tiếp tục tăng 833 tỷ đồng so

với cuối 2010, đưa tổng vốn điều lệ các công ty đến nay lên 35.045 tỷ đồng. Bên cạnh một số
các công ty giảm bớt chi nhánh, phòng giao dịch thì cũng có các công ty tiếp tục mở rộng
mạng lưới, khiến số lượng mạng lưới chi nhánh của công ty chứng khoán tăng thêm 24 so với
cuối 2010, đưa tổng số chi nhánh lên 157, số phòng giao dịch tăng 16, đưa tổng số phòng
giao dịch lên 96.
Tuy nhiên, cơ quan quản lý cũng nhấn mạnh rằng các công ty chứng khoán đều đáp ứng
các chỉ tiêu an toàn tài chính (vốn điều lệ, vốn khả dụng). Và Ủy ban Chứng khoán đã phân
loại các nhóm công ty chứng khoán và xây dựng phương án tái cấu trúc các công ty chứng
khoán theo hướng giảm số lượng các công ty, thu hẹp nghiệp vụ và ban hành hệ thống quản
lý an toàn tài chính và quản trị rủi ro mới.
IV.

Nhận xét của nhóm

1.
Về mối tương quan và vai trò của hoạt động tự doanh chứng khoán với
hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán
Như trên đã phân tích, hoạt động tự doanh chứng khoán và hoạt động mua, bán
chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán đều có chung bản chất là sự mua đi, bán
lại chứng khoán mang tính chuyên nghiệp trên thị trường nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
Do có nhiều nét tương đồng về bản chất, đối tượng, mục đích... nên hai hoạt động này
thường dễ bị nhầm lẫn với nhau.
Trước hết, phải khẳng định đây là hai hoạt động quan trọng hàng đầu trên thị
trường chứng khoán, bởi lẽ công ty chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán là hai
dạng nhà đầu tư có tổ chức, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên
thị trường. Hoạt động mua đi bán lại chứng khoán của những nhà đầu tư này thường
có tác động đáng kể đến thị trường chứng khoán, đóng vai trò không nhỏ giúp cho thị
trường chứng khoán vận hành và phát triển. Ngoài ra, với những đặc thù riêng của
mình, mỗi hoạt động lại giữ vai trò riêng trong sự phát triển của thị trường chứng
khoán và chúng kết hợp, hỗ trợ cho nhau giúp cho thị trường chứng khoán phát triển

cân bằng, ổn định.
− Hoạt động tự doanh chứng khoán mang lợi thế của hình thức đầu tư ngắn hạn.
Hoạt động tự doanh hướng đến tìm kiếm lợi nhuận từ sự chênh lệch giữa giá mua và
giá bán chứng khoán, công ty chứng khoán thường chỉ nắm giữ chứng khoán đã mua
trong thời gian thường ngắn, khi thấy có lãi công ty sẽ tiến hành bán chứng khoán. Vì
vậy, công ty chứng khoán có thể tùy theo biến động của thị trường mà chủ động điều
11


chỉnh việc mua bán chứng khoán – mua vào khi giá giảm và nhanh chóng bán chứng
khoán dự trữ ra khi giá cao. Hình thức kinh doanh này không những mang lại lợi
nhuận nhanh chóng cho công ty mà quan trọng hơn nữa, nó còn góp phần điều tiết và
bình ổn giá trên thị trường chứng khoán. Mặt khác, chính sự thành công trong hoạt
động tự doanh của công ty chứng khoán cũng tạo niềm tin cho đa số các nhà đầu tư
nhỏ, khuyến khích họ tham gia mạnh mẽ hơn vào đầu tư chứng khoán theo cách mà
công ty chứng khoán đã tiến hành, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường
chứng khoán. Vì vậy, hoạt động tự doanh chứng khoán từ lâu đã trở thành một trong
những nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán truyền thống trên thị trường chứng khoán
và là hoạt động quan trọng nhất của công ty chứng khoán tại Việt Nam trong việc nâng
cao lợi nhuận.
− Hoạt động mua bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán lại tận dụng
được lợi thế của đầu tư dài hạn. Thị trường chứng khoán nước ta đang trong giai đoạn
phát triển đầu tiên, với hình thức đầu tư cá thể là chủ yếu. Khi thực hiện đầu tư cá thể,
nhà đầu tư luôn mong muốn thu về cả vốn lẫn lãi trong thời gian sớm nhất, do vậy nếu
hình thức đầu tư này diễn ra quá tràn lan sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh, ổn
định của thị trường chứng khoán và có thể dẫn đến nguy cơ khủng hoảng cho thị
trường này. Đối với công ty đầu tư chứng khoán, sau khi huy động vốn từ các nhà đầu
tư, công ty sẽ dùng số vốn này để đầu tư dài hạn vào các dự án lớn hoặc thông qua
việc mua bán chứng khoán. Tính chất đầu tư dài hạn của công ty đầu tư chứng khoán
góp phần lảm giảm bớt những hoạt động đầu tư cá thể có mục đích thu lợi nhuận ngắn

hạn trên thị trường, điều này có tác dụng đặc biệt đối với sự phát triển ổn định của thị
trường chứng khoán.
2.
Một số vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động tự
doanh chứng khoán và hoạt động mua, bán chứng khoán của công ty đầu tư
chứng khoán
Thứ nhất, tự doanh chứng khoán và hoạt động mua bán chứng khoán của công ty
đầu tư chứng khoán là hai hoạt động dễ bị nhầm lẫn với nhau, một trong những yếu tố
quan trọng nhất giúp phân biệt chúng là chủ thể tiến hành hoạt động. Tuy nhiên Luật
chứng khoán hiện hành lại chưa đưa ra một định nghĩa khái quát nào về hai loại hình
công ty này. Điều 59.1 Luật chứng khoán quy định công ty chứng khoán được tổ chức
dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của
Luật doanh nghiệp. Điều 96.1 cũng chỉ quy định công ty đầu tư chứng khoán được tổ
chức dưới hình thức công ty cổ phần để đầu tư chứng khoán. Việc không có định
nghĩa chính thức trong luật khiến không ít người lầm tưởng công ty đầu tư chứng
khoán cũng chỉ là một dạng công ty chứng khoán, và hoạt động mua bán chứng khoán
của hai dạng công ty này là như nhau. Vì vậy cần có quy định về khái niệm một cách
rõ ràng, tránh gây nhầm lẫn trong việc phân biệt bản chất cũng như hoạt động của hai
dạng công ty này, trong đó có hoạt động mua bán chứng khoán.
Thứ hai, về tình hình giao dịch tự doanh, năm 2005 các công ty chứng khoán ở
nước ta mới bắt đầu triển khai mạnh hoạt động tự doanh và trong thời gian qua nó đã
trở thành hoạt động đem lại lợi nhuận lớn cho các công ty chứng khoán. Tuy pháp luật
không quy định các công ty chứng khoán có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp cụ thể
12


góp phần bình ổn thị trường, song chính hoạt động tự doanh chứng khoán trong thời
gian qua đã góp phần không nhỏ giúp thị trường chứng khoán hoạt động một cách ổn
định và an toàn. Vì thế nên bổ sung thêm vài trò điều tiết thị trường như là nghĩa vụ
bắt buộc của công ty chứng khoán bằng cách quy định công ty phải dành một tỉ lệ nhất

định trong giao dịch để phục vụ cho mục tiêu bình ổn thị trường.
Thứ ba, trong Luật chứng khoán 2006 có sự không thống nhất giữa một số quy
định về phạm vi hoạt động của công ty đầu tư chứng khoán, trong đó có hoạt động
mua bán chứng khoán. Cụ thể, Điều 96.1 Luật chứng khoán quy định công ty đầu tư
chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp để
đầu tư chứng khoán. Theo như quy định này thì công ty đầu tư chứng khoán chỉ tiến
hành hoạt động đầu tư vào các hoạt động chứng khoán mà không đầu tư vào các loại
tài sản khác không phải chứng khoán, kể cả bất động sản. Thế nhưng, theo 97.2.a và
Điều 92, công ty đầu tư chứng khoán được đầu tư vào các loại chứng khoán và cả bất
động sản nhưng phải tuân thủ các hạn chế đầu tư nhất định. Như vậy, phạm vi đầu tư
của công ty đầu tư chứng khoán theo những quy định này là khác nhau, và Luật chứng
khoán sửa đổi bổ sung năm 2010 cũng không sửa đổi nội dung này. Vì thế cần bổ sung
vào Điều 96.1 đối tượng đầu tư của công ty đầu tư chứng khoán là “chứng khoán hoặc
các dạng tài sản đầu tư khác, kể cả bất động sản”.
Kết luận
Qua việc tìm hiểu, so sánh hoạt động tự doanh chứng khoán và hoạt động mua
bán chứng khoán của công ty đầu tư chứng khoán, ta thấy được nhưng điểm giống
nhau cũng như khác nhau của hai hoạt động này. Sự nhận diện hai hoạt động này sẽ
giúp các nhà đầu tư có thể lựa chọn được cho mình hình thức đầu tư phù hợp với điều
kiện của các nhà đầu tư.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật chứng khoán, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2008.
2. Vũ Bằng, “Luật chứng khoán - Những nội dung đổi mới chủ yếu
và quan trọng”, Tạp chí luật học, số 8/2006.

3. Vũ Văn Cương, “Một số vấn đề pháp lí về công ti chứng khoán
theo luật chứng khoán”, Tạp chí luật học, số 8/2006.
4. Luật chứng khoán năm 2006.
5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán số
62/2010/QH12.
6. Nghị định của Chính phủ số 14/2007/NĐ-CP ngày 19/1/2007
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chứng khoán.
7. Nghị định của Chính phủ số 84/2010/NĐ-CP ngày 2/8/2010 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2007/NĐ-CP.
8. Quy chế tổ chức và hoạt động công ti chứng khoán ban hành kèm
theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính số 27/2007/QĐ-BTC ngày
24/4/2007.
9. Quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính số 126/2008/QĐ-BTC
ngày 26/12/2008 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tổ
chức và hoạt động công ti chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số
27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007.
10.Trần Vũ Hải, “Một số vấn đề pháp lí về công ti đầu tư chứng
khoán”, Tạp chí luật học, số 8/2006.

14



×