Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

thu hoạch LSĐ tất yếu ĐẢNG TA PHẢI đổi mới tư DUY lí LUẬN về mô HÌNH CNXH và CON ĐƯỜNG đi lên CNXH ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.22 KB, 43 trang )

TÍNH TẤT YẾU VÀ CẤP BÁCH CỦA ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
MỞ ĐẦU

Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách
mạng nước ta đã và đang giành được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Những thành tựu đó, ngày càng chứng tỏ quan niệm về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là hồn tồn đúng đắn, phù
hợp. Cơng cuộc đổi mới, kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại cùng các nguồn lực khác, như phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động, tích cực tăng cường hợp tác, mở
rộng hội nhập quốc tế đã đem lại những thay đổi to lớn, thành tựu có ý nghĩa
lịch sử cho đất nước trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới. Đại hội XIII
của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực,
vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”… Việt Nam kiên định đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa, là một hình mẫu đặc thù của chủ nghĩa xã hội với
điểm xuất phát thấp và phải gánh chịu hậu quả chiến tranh nặng nề. Mỗi
nhiệm kỳ đại hội của Đảng là một chặng đường, xác định đúng mục tiêu,
nhiệm vụ và kết quả đạt được của nhiệm kỳ trước tạo tiền đề phát triển cho
nhiệm kỳ sau. Những thành tựu to lớn ấy có được là do sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng - nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
35 năm đổi mới (1986 - 2021) là giai đoạn quan trọng của sự nghiệp
phát triển đất nước, đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt của Ðảng, Nhà nước
và nhân dân, là sáng tạo có tính tất yếu, tồn diện để gạt bỏ, tháo gỡ những
vướng mắc, giải phóng năng lực sản xuất, tạo động lực cho sự phát triển bền
vững của đất nước. Quá trình hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng
ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
một sản phẩm sáng tạo vĩ đại, là thành tựu lý luận to lớn của Đảng ta. Do đó,
việc nghiên cứu nắm vững “Tính tất yếu và cấp bách của đổi mới ở Việt
Nam” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.



2
NỘI DUNG
I. TẤT YẾU ĐẢNG TA PHẢI ĐỔI MỚI TƯ DUY LÍ LUẬN VỀ MƠ HÌNH
CNXH VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM

1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
CNXH và con đường đi lên CNXH.
Trước hết, các nhà kinh điển Mác - Lênin đã chỉ ra cho giai cấp vô sản và
nhân dân lao động thế giới thấy rằng: đi lên CNXH và chủ nghĩa cộng sản là yêu
cầu khách quan của cách mạng vơ sản. Bởi vì, cách mạng vơ sản là cuộc cách mạng
sâu sắc, tồn diện và khó khăn nhất, hướng tới mục tiêu triệt để là giải phóng xã hội,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người; cách mạng vô sản vừa nhằm cải tạo xã
hội cũ, đồng thời xây dựng một xã hội mới tốt đẹp, đó là cuộc biến đổi, cuộc đấu
tranh gay go phức tạp giữa các tầng lớp nhân dân lao động với giai cấp tư sản, giữa
con đường XHCN và tư bản chủ nghĩa.
C.Mác và Ph.Ăngghen khi viết về chế độ phân phối theo lao động trong giai
đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, coi đó là tàn dư của pháp quyền tư sản đã chỉ rõ:
“Nhưng đó là những thiếu sót khơng thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội
cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau
những cơn đau đẻ kéo dài”. Và trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” (1875),
dựa trên những căn cứ khoa học về sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội (KT-XH), đã đưa ra kết luận: Xã hội loài người phát
triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển
đó là một hình thái KT-XH nhất định; tiến bộ xã hội là sự vận động theo hướng tiến
lên của các hình thái KT-XH, là sự thay thế hình thái KT-XH này bằng hình thái
kinh tế xã hội khác cao hơn, mà gốc rễ sâu xa của nó là sự phát triển khơng ngừng
của lực lượng sản xuất; sự vận động và phát triển của các hình thái KT-XH là do tác
động của các quy luật khách quan. Trong lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất bộ
"Tư bản" C.Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái KT-XH là một quá

trình lịch sử - tự nhiên”. Ph.Ăngghen cũng khẳng định: “Lịch sử từ xưa đến nay đã


3
tiến triển theo kiểu một quá trình tự nhiên, và về căn bản, cũng bị chi phối bởi quy
luật vận động như nhau”.
Dẫu luôn giữ quan niệm coi sự phát triển của các hình thái KT-XH là một quá
trình lịch sử - tự nhiên, song C.Mác và Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Nó có thể rút
ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ”. Điều đó có nghĩa rằng quá trình lịch
sử- tự nhiên chẳng những có thể diễn ra tuần tự từ hình thái KT-XH này lên hình thái
kinh tế xã hội khác, mà cịn có thể diễn ra bằng con đường bỏ qua một giai đoạn phát
triển nào đó, bỏ qua một hình thái KT-XH nào đó trong những điều kiện khách quan
và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen cịn phân các hình
thái KT-XH thành các giai đoạn phát triển nhất định. Mỗi giai đoạn ấy lại được chia
thành các thời đoạn khác nhau. Hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa phát triển từ
thấp lên cao, từ giai đoạn XHCN lên giai đoạn cộng sản chủ nghĩa. C.Mác và
Ph.Ăngghen khẳng định: Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa mới lọt lòng
từ xã hội tư bản chủ nghĩa là thời kỳ quá độ, do đó là thời kỳ sinh đẻ lâu dài và đau
đớn để loại bỏ dần những cái cũ, xây dựng và củng cố dần những cái mới.
Kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo những luận điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin trong khi chuẩn bị viết tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”
đã làm một tập bút ký nhan đề “Chủ nghĩa Mác và vấn đề nhà nước”. Trong tập ký
đó, ơng đã đã khái qt tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về các giai đoạn phát
triển của hình thái cộng sản chủ nghĩa:
I- “Những cơn đau đẻ kéo dài”
II- “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa”
III- “giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa”
Như thế, giữa C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin không có sự khác nhau căn
bản trong quan niệm về bước chuyển biến từ hình thái KT-XH tư bản chủ nghĩa
sang hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa. Việc giành chính quyền về tay giai cấp

công nhân đánh dấu thời kỳ quá độ để thực hiện bước chuyển biến đó bắt đầu là
thời kỳ diễn ra những cơn đau đẻ kéo dài để đi tới xã hội cộng sản, xã hội này có
giai đoạn thấp và giai đoạn cao và phải đi qua giai đoạn thấp- giai đoạn XHCN, mới


4
có thể đi đến giai đoạn cao - giai đoạn cộng sản chủ nghĩa. Tuy nhiên, con đường
phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung mà còn bị
tác động bởi các điều kiện phát triển cụ thể của mỗi dân tộc. Vì vậy, lịch sử phát
triển nhân loại vừa tuân theo những quy luật chung, vừa bị chi phối bởi những quy
luật đặc thù. V.I.Lênin chỉ rõ: “Tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử
tồn thế giới đó khơng loại trừ mà trái lại, cũng bao hàm một số giai đoạn phát triển
mang những đặc điểm, hoặc về hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó”.
Tính phong phú đa dạng nói lên tính độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mỗi
dân tộc. Đồng thời, tính phong phú đa dạng đó một mặt thể hiện ở chỗ cùng một
hình thái KT-XH, nhưng ở các nước khác nhau, có những hình thức và bước đi cụ
thể khác nhau; mặt khác có những dân tộc lần lượt trải qua tất cả các hình thái KTXH từ thấp đến cao, nhưng cũng có những dân tộc, do điều kiện lịch sử có thể bỏ
qua một hay một vài hình thái KT-XH nào đó. Song, việc bỏ qua đó vẫn theo tiến
trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển. Do đó, trong hoạt động thực tiễn địi hỏi phải
vận dụng một cách sáng tạo những quy luật chung vào điều kiện cụ thể của mỗi
quốc gia, dân tộc để tìm ra con đường phát triển một cách đúng đắn nhất. V.I.Lênin
đã chỉ ra: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến
tới chế độ Xơ Viết và qua những giai đoạn phát triển nhất định tiến tới chủ nghĩa
cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Trong “Luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” Lênin đã đề cập nhiều vấn đề, trong
đó có vấn đề hết sức quan trọng là: Các nước chậm tiến với sự giúp đỡ của giai cấp
vơ sản có thể bỏ qua con đường tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên CNXH, còn bằng
phương pháp nào là tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở từng dân
tộc. Một nước mà càng xuất phát từ trình độ phát triển thấp bao nhiêu thì càng phải
chuẩn bị một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ và phức tạp bấy nhiêu. Càng phải biết

tìm ra những bước quá độ nhỏ, những sự quá độ trong q độ; những hình thức
kinh tế và văn hóa trung gian, thiết thực, dễ hiểu với quần chúng và được cuộc sống
chấp nhận bấy nhiêu. Vì lợi ích cơ bản của CNXH, khắc phục nhanh chóng sự lạc


5
hậu về trình độ phát triển kinh tế, cách mạng phải biết sử dụng các lực lượng thị
trường, sử dụng ngay cả tư bản trong nước và ngoài nước để xây dung CNXH.
Như vậy, với quan điểm đúng đắn, khoa học, các nhà kinh điển Mác - Lênin
đã chỉ ra cho giai cấp vô sản và nhân dân thế giới thấy rằng đi lên CNXH và chủ
nghĩa cộng sản là tất yếu khách quan của xã hội loài người. Tuy nhiên, ở từng dân
tộc cần có sự vận dụng, phát triển, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với
những hình thức, bước đi phù hợp, chủ động, sáng tạo khơng rập khn, máy móc.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra một thời đại mới
trong lịch sử loài người: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm
vi tồn thế giới. Tính tất yếu của thời đại mới đã tạo khả năng và điều kiện để các
dân tộc đi lên CNXH, đem lại những nhận thức mới trong quan niệm và giải pháp
giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc một cách triệt để. Sức mạnh và thành tựu của
CNXH, tính ưu việt của chế độ XHCN đã thức tỉnh nhân loại, tạo khả năng đoàn
kết các dân tộc để giữ gìn hịa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh huỷ diệt, buộc chủ
nghĩa tư bản phải điều chỉnh chính sách có lợi cho người lao động; tạo khả năng
hiện thực cho các nước lạc hậu tiến thẳng lên CNXH.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xã hội Việt Nam dưới ách xâm lược,
đô hộ của thực dân Pháp, là xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Từ khi thực dân
Pháp vào cai trị nước ta các phong trào đấu tranh diễn ra rộng khắp cả nước, thu
hút đông đảo quần chúng đứng lên đấu tranh song đều thất bại bởi thiếu lý luận
soi đường, thiếu giai cấp tiên tiến lãnh đạo và một Đảng có sứ mệnh lãnh đạo cách
mạng giành thắng lợi.
Trong bối cảnh đó, với lịng u nước nồng nàn, thương dân sâu sắc; với mục
tiêu: “Tự do cho đồng bào tơi, vì hạnh phúc cho những người nông dân bị áp bức”

bằng thiên tài và nhãn quan chính trị sắc bén, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã
ra đi tìm đường cứu nước. Qua q trình tìm tịi, nghiên cứu lý luận, khảo sát thực
tiễn cách mạng trên thế giới, trải qua bao gian khổ hy sinh, Người chỉ rõ: “Trong thế
giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là
dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật” và “bây giờ học thuyết


6
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất là chủ nghĩa Lênin”. Trên cơ sở nhận thức đúng về con đường cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc đã rút ra kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Người khẳng định rứt khốt
rằng chỉ có CNXH và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức
và những người lao động trên thế giới ra khỏi ách nô lệ. Người nhấn mạnh, con
đường cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc và đi lên CNXH. Sự lựa chọn của
Người là sự lựa chọn của giai cấp công nhân, của nhân dân Việt Nam, của dân tộc
Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại- Thời đại quá độ lên CNXH.
2. Thực tiễn quá trình nhận thức của Đảng về CNXH và con đường đi
lên CNXH ở Việt Nam thời kỳ trước đổi mới
Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị
thơng qua tại Hội nghị thành lập Đảng (2/1930) đã chỉ ra con đường của cách mạng
Việt Nam là: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản” (sau này Luận cương Chính trị (10/1930) tiếp tục khẳng
định: “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường
XHCN”). Khẳng định rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là phải trải qua
hai giai đoạn: Cách mạng tư sản dân quyền để chống đế quốc, phong kiến, giành
độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày và cách mạng XHCN để xây dựng
CNXH, chủ nghĩa cộng sản. Đây là tư tưởng cốt lõi gắn độc lập dân tộc với CNXH,
khẳng định con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, phù hợp với xu thế tất yếu của thời đại.

Trên nền tảng mục tiêu độc lập dân tộc, gắn liền với CNXH được xác định
trong Cương lĩnh đầu tiên, trong suốt quá trình lãnh đạo chỉ đạo cách mạng Việt
Nam, Đảng ta đã ln nắm bắt thực tiễn, kiên trì mục tiêu, lý tưởng và khơng
ngừng bổ sung phát triển, hồn thiện quan niệm về con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam
Nếu giai đoạn 1930 - 1954, CNXH còn là mục tiêu, phương hướng lâu dài
của cách mạng Việt Nam, thì từ năm 1954 xây dựng CNXH trở thành nhiệm vụ trực


7
tiếp của miền Bắc. Tháng 8 năm 1955 Hội nghị trương 8 (khóa II) của Đảng đã
khẳng định: “Đường lối củng cố miền Bắc của ta là củng cố và phát triển chế độ dân
chủ nhân dân, tiến dần từng bước vững chắc lên CNXH”. Đến tháng 12 năm 1957,
Hội nghị Trung ương lần thứ 13 của Đảng đã khẳng định: Từ khi hịa bình lập lại,
Miền Bắc hồn tồn giải phóng thì chúng ta đã bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH.
Tư duy chính trị và chiến lược của Đảng đã đi đến khẳng định rõ rệt thực hiện hai
chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền đất nước, hai chiến lược có mối quan hệ
khăng khít với nhau. Từ đó trở đi, các Văn kiện của Hội nghị Trung ương và nhất là
Văn kiện Đại hội III của Đảng đều triển khai tư duy lý luận và chính trị theo hướng
tìm tịi xây dựng CNXH ở miền Bắc và con đường hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam cũng như trên phạm vi cả nước. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã chỉ rõ đường lối chung của cách mạng Việt
Nam là: “Tăng cường đoàn kết tồn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hịa bình,
đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và
dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe XHCN và bảo vệ hịa bình ở Đơng
Nam Á và thế giới”. Đồng thời: “Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có
hai nhiệm vụ chiến lược:Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc. Hai là,
giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện

thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước”.
Từ thực tiễn quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc, là quá trình Đảng từng
bước bổ sung, phát triển thêm những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam, thể hiện qua các Hội nghị Trung ương như: Hội nghị Trung
ương lần thứ 10 (1964) về lưu thông phân phối và hình thành tư tưởng về 3 cuộc
cách mạng, về mối quan hệ giữa công - nông nghiệp; Nghị quyết Trung ương 19
(1971) hình thành lý luận về xây dựng CNXH trong điều kiện chiến tranh, về mối
quan hệ giữa chun chính vơ sản và quyền làm chủ của nhân dân; Nghị quyết Hội
nghị Trung ương lần thứ 22 về khôi phục phát triển kinh tế miền Bắc... Như vậy, từ


8
sau Đại hội III, những vấn đề lý luận về xây dựng CNXH từng bước được Đảng ta
bổ sung phát triển phù hợp với thực tiễn xây dựng CNXH, trong hoàn cảnh chiến
tranh của miền Bắc. Đây là yếu tố quyết định tạo nên thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng miền Bắc XHCN - hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền Nam thắng Mỹ,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc và đưa cả
nước đi lên CNXH. Thắng lợi này, một lần nữa chứng tỏ sức sống của CNXH, tỏ rõ
sự lựa chọn đúng đắn của Đảng về con đường phát triển của Việt Nam trong thời
đại ngày nay. Con đường ấy chính là con đường XHCN mà ngay trong cách mạng
giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc đã gắn liền với CNXH. Sự lựa chọn ấy phản ánh
sự nắm bắt một cách chính xác quy luật vận động và phát triển của cách mạng nước
ta trong thời đại mới.
Từ sau năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước quá độ lên CNXH, thực hiện
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội IV của Đảng (12/1976) đã phát triển
một bước quan trọng đường lối xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước do Đại hội
lần thứ III (9/1960) đề ra. Đó là đường lối: “Nắm vững chun chính vơ sản, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách
mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học- kỹ thuật, cách mạng tư
tưởng và văn hố, trong đó cách mạng khoa học- kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh

công nghiệp hoá XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên
CNXH, xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN, xây dựng nền sản xuất lớn
XHCN, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới XHCN...”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982), quan niệm về con
đường đi lên CNXH của Đảng có sự phát triển. Đồng thời, với việc xác định đúng
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: xây dựng thành công CNXH và
sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; hai nhiệm vụ
chiến lược đó có quan hệ mật thiết với nhau. Đại hội V đã có nhận thức mới về sự
phân kỳ của thời kỳ quá độ thấy được tính khó khăn, phức tạp, lâu dài của thời kỳ
quá độ; do vậy, phải trải qua nhiều chặng đường kế tiếp nhau, mà chúng ta còn đang
ở dặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Bởi vậy, đại hội xác định đường lối công


9
nghiệp hố, phải ưu tiên phát triển nơng nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong
một cơ cấu công nghiệp hợp lý.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức V của Đảng, chúng ta đã ra các Nghị
quyết Trung ương 6 (1984); Nghị quyết Trung ương 8 (1985) tiếp tục bổ sung phát
triển tư duy mới, đặt nền móng cho việc hình thành đường lối đổi mới vào năm 1986.
Như vậy, trước thời kỳ đổi mới, nhận thức của Đảng ta về CNXH đã xác
định đúng mục tiêu, bản chất của CNXH và quy mô to lớn cùng với nội dung toàn
diện của sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Mục tiêu, bản chất ấy là hướng tới
giải phóng giai cấp, dân tộc và nhân dân ta, đưa nhân dân tới địa vị của người chủ
và làm chủ xã hội, đem lại cho họ cuộc sống vật chất và tinh thần ngày một đầy đủ
và tốt đẹp hơn. Đó là một xã hội khơng có áp bức, bóc lột, mọi người được hưởng
những quyền tự do, dân chủ và bình đẳng, được phát triển những khả năng của
mình, có cuộc sống ấm no và hạnh phúc, trong sự phát triển hài hòa các quan hệ cá
nhân - tập thể và xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế cũng như văn hóa chính là
nhằm phục vụ cuộc sống của nhân dân - những người chủ của xã hội mới, xã hội

XHCN với tất cả tính ưu việt của nó. Để đi tới chế độ xã hội tốt đẹp đó, đối với Việt
Nam là cả một quá trình lịch sử lâu dài, phải giải quyết nhiều khó khăn, phức tạp và
mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ do những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử đặc thù
của Việt Nam quy định. Sự nghiệp đó là một cuộc cải biến vĩ đại, phải xây dựng từ
đầu cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả hạ tầng cơ sở lẫn thượng tầng
kiến trúc, cả tiềm lực vật chất lẫn tinh thần, vừa cải tạo cái cũ lỗi thời, lạc hậu vừa
xây dựng cái mới, phù hợp với bản chất, mục tiêu của CNXH. Quan niệm đó phù
hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn, nguyện vọng sâu xa của quần chúng, đó
cũng chính là quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà
Đảng ta đã nhận thức và vận dụng.
Cùng với những nhận thức đúng đắn đó, những nhược điểm và hạn chế về lý
luận cũng bộc lộ khơng ít. Kèm theo đó là những khuyết điểm, sai lầm trong chỉ
đạo, điều hành, trong lãnh đạo và quản lý, đặc biệt là quản lý kinh tế mà chúng ta


10
mắc phải trong một thời gian dài, chậm được phát hiện, lại chậm sửa chữa đã làm
hạn chế kết quả và thành tựu, làm chậm quá trình phát triển, thậm chí làm phát sinh
thêm những khó khăn, dẫn tới sự trì trệ và khủng hoảng KT-XH trước đổi mới. Có
thể hình dung những yếu kém và hạn chế trên nổi bật ở những điểm sau:
Một là, trong quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
thời kỳ trước đổi mới còn nhiều biểu hiện của nhận thức giáo điều, chủ quan, duy ý
chí, vi phạm quy luật, làm sai quy luật. Xây dựng quan hệ sản xuất mới với chế độ
sở hữu xã hội (nhà nước và tập thể) vượt quá xa, tách rời khỏi trình độ thực tế của
lực lượng sản xuất nên lực lượng sản xuất bị kìm hãm, khơng phát triển được mà
quan hệ sản xuất mới cũng chỉ là hình thức. Tư duy về CNXH trước đổi mới mang
đậm dấu ấn của tư duy kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, bình qn, kinh tế
hiện vật chứ khơng phải kinh tế hàng hóa. Quan niệm thơ sơ về cơng bằng là bình
quân, chia đều dẫn tới suy giảm và triệt tiêu độc lực phát triển. Đồng thời, đã áp
dụng một mơ hình CNXH thiếu hụt các nội động lực để phát triển mà hạt nhân của

nó là lợi ích. Đã khơng quan tâm đúng mức tới lợi ích cá nhân của người lao động,
lợi ích tập thể và xã hội bị tuyệt đối hóa một cách trừu tượng, lại do quản lý yếu
kém nên cũng rơi vào biến dạng bởi quan liêu, lãng phí, tham ơ. Đó cịn là kiểu
CNXH khơng đạt đúng vị trí hàng đầu của lực lượng sản xuất, của giải phóng mọi
tiềm năng xã hội để phát triển lực lượng sản xuất; một CNXH vận động ở bên
ngồi sản xuất hàng hóa, kinh tế hàng hóa- thị trường, chưa tuân thủ quy luật gái trị
và thị trường dẫn tới trì trệ, lạc hậu, chậm phát triển. Điều này đã được Đại hội V
của Đảng (3/1982) chỉ rõ: “Chúng ta chưa thấy hết những khó khăn, phức tạp của
con đường đi lên CNXH từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn là phổ biến; thấy
chưa hết quy mô của những đảo lộn kinh tế và xã hội sau cuộc chiến tranh lâu dài”.
Hai là, trong quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
thời kỳ trước đổi mới chưa đặt đúng vị trí, vai trị của dân chủ với tư cách là một
trong những động lực quan trọng hàng đầu và là mục tiêu của CNXH. Vấn đề dân
chủ trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam có tầm quan trọng đặc biệt, đó
khơng chỉ là dân chủ trong chính trị, dân chủ trong thể chế Đảng và Nhà nước mà


11
còn là dân chủ trong kinh tế, là quyền dân chủ của công dân, của từng cá nhân
thành viên trong cộng đồng xã hội. Dân chủ gắn liền với pháp luật, kỷ luật, kỷ
cương trong hoạt động của bộ máy, trong tổ chức, trong quan hệ giữa người với
người, giữa nhà nước với công dân… mà nội dung cốt lõi của nó là giải quyết mối
quan hệ giữa quyền và lợi ích, quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm, trước hết
là lợi ích kinh tế, vật chất của con người được pháp luật bảo vệ. Trước đổi mới, tư
duy lý luận dường như rất ít bàn tới vấn đề này. Cụ thể, dân chủ, nhất là dân chủ
trong kinh tế, trong sản xuất kinh doanh đã không được coi trọng trực hiện; dân chủ
trong chính trị (nhất là trong bầu cử và tổ chức các cơ quan quyền lực của dân) cịn
nhiều biểu hiện hình thức; dân chủ trong ý thức tư tưởng, trong văn hóa và đời sống
tinh thần cũng chậm phát triển và không được chú ý đúng mức… Do dân chủ
khơng thực chất nên đồn kết cũng dễ rơi vào hình thức hóa.

Ba là, trong quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
thời kỳ trước đổi mới đã không đánh giá đầy đủ vai trò của khoa học - kỹ thuật cơng nghệ, đặc biệt khơng thấy hết vai trị của lý luận, của khoa học xã hội - nhân
văn đối với việc tăng cường tiềm lực tư tưởng, trí tuệ của Đảng. Do đó, đã chậm
tiếp thu và ứng dụng các thành quả của cách mạng khoa học - công nghệ nên
CNXH trở nên lạc hậu so với các nước tư bản phát triển.
Bốn là, quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thời
kỳ trước đổi mới bị hạn chế bởi quan niệm tĩnh, khép kín, phát triển trong trạng thái
đơn tuyến, chỉ trong phạm vi hệ thống XHCN, thậm chí trong trạng thái biệt lập với
thế giới. Từ đó dẫn tới giáo điều về lý luận, sơ cứng và trì trệ trong tổ chức, trong
quản lý và hoạt động đã làm cho CNXH ở Việt Nam vốn ở điểm xuất phát thấp lại
càng rơi vào tính “chậm phát triển và thiếu triển vọng”.
Năm là, quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thời
kỳ trước đổi mới chưa xác lập và thực hiện được hệ chính sách và giải pháp để phát
huy nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ, chưa có cơ chế tạo động lực
phát triển để thu hút nhân tài, lãng phí chất xám trong xã hội.


12
Đây là 5 hạn chế, yếu kém nổi bật trong tư duy lý luận của Đảng về CNXH
và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thời kỳ trước đổi mới. Những hạn chế này
được biểu hiện rõ nét như: Sự vắng bóng của nền kinh tế hàng hóa thị trường làm
lực đẩy giải phóng, phát triển lực lượng sản xuất; hạn chế và yếu kém về dân chủ
làm suy yếu động lực phát triển; chậm chễ trong chiến lược phát triển khoa học công nghệ, trong sự mở cửa hội nhập quốc tế dẫn tới sự phát triển không đồng
thuận với xu hướng phát triển của thế giới hiện đại. Chưa có cơ chế và chính sách
hữu hiệu, đồng bộ để phát huy trí tuệ, tài năng, sáng tạo của con người - nguồn lực
quan trọng nhất trong mọi nguồn lực, giá trị cao nhất trong mọi giá trị văn hóa… Vì
vậy, việc đổi mới tư duy lý luận của Đảng về CNXH và con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam là tất yếu khách quan.
II. CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ
LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ CNXH VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở

VIỆT NAM

1. Tư duy lý luận của Đảng về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam từ 1986 đến 2000.
Vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới đang không ngừng đổi thay
dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, chủ nghĩa
tư bản hiện đại do khai thác và tận dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng
đó nên đã và đang tiếp tục phát triển. Trong khi đó, CNXH xét trên quy mô quốc tế
lại đang chịu những tổn thất và thử thách nặng nề do nhiều nước XHCN lâm vào
khủng hoảng nghiêm trọng. Ở nước ta, ngay trong chặng đường đầu của thời kỳ
quá độ, xã hội vẫn chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng KT-XH từ bên trong, lại đồng
thời chịu những ảnh hưởng và tác động không thuận lợi do cuộc khủng hoảng từ
bên ngoài dội vào. Trước tình hình đó, Đảng ta với bản lĩnh chính trị vững vàng, với
tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, đã nắm bắt đúng tình hình cách mạng thế giới và
trong nước, kịp thời rút ra những bài học quý qua cải tổ, cải cách để đề ra đường lối
đổi mới đất nước. Với thái độ “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ
sự thật”, Đại hội VI của Đảng (12/1986) đã khẳng định: “Đối với nước ta, đổi mới


13
đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống cịn”
đối với cách mạng Việt Nam lúc này.
Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm nhận thức
đúng đắn hơn và thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH; tiếp tục
khẳng định thời kỳ quá độ tồn tại lâu dài, qua nhiều chặng đường. Đại hội đã đưa ra
những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, về cơng nghiệp hố XHCN trong chặng
đường đầu tiên; thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị
trường (tuy vẫn quan niệm có hai thị trường là: thị trường có tổ chức và thị trường
tự do, nên chủ trương thực hiện thị trường có tổ chức); thực hiện đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế theo hướng hạch toán kinh doanh XHCN; phê phán triệt để cơ chế

tập trung quan liêu bao cấp. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp các lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội; có nhận thức mới, có bước đột phá rất quan trọng về đổi
mới chính sách xã hội và thực hiện chính sách xã hội, coi chính sách xã hội là chính
sách độc lập, chính sách vì con người, chăm lo tồn diện và phát huy nhân tố con
người, chính sách xã hội phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội; đổi mới một
bước về chiến lược quốc phòng - an ninh đất nước; đổi mới về công tác đối ngoại:
thay đổi chiến lược “thêm bạn bớt thù”, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi, đẩy
nhanh xây dựng CNXH… Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan
trọng trong nhận thức của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam, trên cơ sở phê phán đối với mơ hình xây dựng CNXH theo kiểu cũ, từ đó đặt
nền móng cho việc xây dựng một quan niệm khoa học về CNXH và con đường đi
lên CNXH ở nước ta.
Sau Đại hội VI, Đảng ta đã có nhiều Nghị quyết quan trọng, đặc biệt tại Hội
nghị Trung ương 6 (tháng 3/1989) đã tiếp tục khắc phục những hạn chế của Đại hội
VI và bổ sung, khẳng định: tính chất lâu dài của kinh tế nhiều thành phần; hình thành
cơ chế thị trường thống nhất toàn quốc. Hội nghị cũng chỉ ra 5 nguyên tắc cơ bản chỉ
đạo đổi mới: Một là, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN; Hai là, đổi
mới không được xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin; Ba là, đổi mới phải nhằm tăng cường


14
chun chính vơ sản; Bốn là, xây dựng nền dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là
động lực của sự nghiệp xây dựng CNXH; Năm là, phải kết hợp chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa tế XHCN, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Vào những năm cuối thế kỷ XX, công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân
ta đã giành nhiều thắng lợi có ý nghĩa quan trọng. Song, tình hình thế giới tiếp tục
diễn biến phức tạp, chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đơng Âu sụp đổ. Tình
hình đó tác động sâu sắc đến cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, đã có những biểu
hiện hồi nghi, dao động, thậm trí có người muốn “đi con đường khác”. Các thế lực

thù địch tìm mọi thủ đoạn thâm độc để chống phá các nước XHCN cịn lại, trong
đó chúng coi Việt Nam là một trọng điểm.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991)
đã đánh giá 5 năm đổi mới và xác định Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH và Chiến lược ổn định và phát triển KT-XH đến năm 2000. Đại
hội xác định Cương lĩnh là yêu cầu khách quan, Cương lĩnh cùng các văn kiện khác
là nền tảng lý luận để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới phát triển theo con đường
XHCN. Nội dung Cương lĩnh đề cập việc tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng và
rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh khẳng định
tính tất yếu và điều kiện đi lên CNXH ở Việt Nam, khẳng định hệ thống chính trị và
vai trị lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị.
Đặc biệt, Cương lĩnh đã xác định quan niệm đúng về CNXH và con đường
đi lên CNXH ở Việt Nam. Cương lĩnh khẳng định: “Nước ta quá độ lên CNXH, bỏ
qua chế độ tư bản từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản
xuất thấp... Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Do nhân dân lao
động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hố tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất cơng,
làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển tồn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên


15
thế giới”. Như vậy, cho tới năm 1991, khi kinh tế thị trường đã được Đảng ta sử
dụng như một công cụ hữu hiệu để phát triển kinh tế, Đảng vẫn nhất quán trong sự
lựa chọn và khẳng định con đường phát triển của nước ta chỉ có thể là con đường
XHCN, là quá độ tới CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, bởi lẽ, đó là sự đảm
bảo chắc chắn nhất cho độc lập dân tộc, cho sự phát triển bền vững của xã hội nhằm
thực hiện quyền được sống trong độc lập tự do, hạnh phúc của nhân dân lao động.

Trong quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc cần nắm vững phương
hướng cơ bản sau:
Một là, xây dựng Nhà nước XHCN, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ
của nhân dân, giữ nguyên kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm
phạm lợi ích Tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hóa đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển một nền nơng nghiệp tồn diện là nhiệm vụ trung
tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, không ngừng
nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước
quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình
thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm
cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo
trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt
đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại,
xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư


16
tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên CNXH.
Năm là, thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu,

nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hồ bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả
các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân, đồn kết với
các nước XHCN, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước,
nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phịng, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta.
Như vậy, Cương lĩnh đã nêu rõ quan niệm của Đảng ta về CNXH mà nhân
dân ta xây dựng với 6 đặc trưng và con đường đi lên CNXH ở nước ta (7 phương
hướng). Đó là sự tổng kết thành tựu tư duy của Đảng ta về CNXH. Sau đó các nghị
quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ chính trị tiếp tục bổ sung, phát triển và
cụ thể hoá các quan điểm, phương hướng cơ bản nêu trong Cương lĩnh và Chiến
lược. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng, khoá VII (1/1994) đã đề
ra những biện pháp đẩy mạnh thực hiện công cuộc đổi mới, đồng thời chỉ ra 4 nguy
cơ lớn đối với cách mạng nước ta đó là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ
đi chệch hướng XHCN; nạn tham nhũng, tệ quan liêu; âm mưu hành động “Diễn
biến hồ bình” của các thế lực thù địch.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996), trên cơ sở
phân tích, đánh giá kết quả 10 năm đổi mới đã rút ra kết luận: nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng KT-XH, cơ bản hoàn thành nhiệm vụ của chặng đường đầu tiên của
thời kỳ quá độ, đất nước chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp


17
hoá, hiện đại hoá đất nước. Đến Đại hội VIII, sự vững mạnh về tư duy lý luận của
Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội đã được thể hiện rõ ràng. Biểu hiện

cụ thể là thừa nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế thị trường trong các chế độ xã
hội khác nhau. Đảng đưa ra kết luận mới, rất quan trọng là: “sản xuất hàng hóa
khơng đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại,
tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã
được xây dựng”. Nhận thức mới này về CNXH và kinh tế của CNXH là sự vượt
lên nhận thức cũ, giáo điều trước đây với sự kỳ thị, xem thường sản xuất hàng hoá,
quy luật giá trị, quan hệ thị trường, cơ chế thị trường; nó chứng minh tính đúng đắn
của chính sách sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế do đại hội VI đề ra. Đồng
thời, Đại hội VIII tiếp tục khẳng định: “Con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày
càng được xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường
lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng XHCN”.
Như vậy, đến trước Đại hội IX của Đảng, nhận thức về CNXH và con đường
đi lên CNXH ở nước ta theo tinh thần đổi mới đã được xác lập và từng bước được
bổ sung hồn thiện dần. Đó là kết quả của cả một q trình tìm tịi, thử nghiệm, suy
tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và cơng sức của tồn Đảng, tồn
dân ta trong nhiều thập kỷ. Nó được rút ra từ thực tiễn quá trình đổi mới thể hiện
đậm nét ở các Nghị quyết của Đại hội Đảng, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Tuy nhiên, cũng cịn khơng ít vấn đề chưa đủ sáng tỏ, chưa kết luận được, thực tiễn
đang còn vận động, có nhiều việc phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm cần tiếp tục
tổng kết thực tiễn, bổ sung, làm sáng tỏ thêm một số vấn đề, hoàn thiện thêm những
nhận thức về con đường đi lên CNXH ở nước ta.
2. Đại hội IX, X, XI và Đại hội XIII của Đảng tiếp tục bổ sung, phát
triển tư duy lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
Đại hội IX của Đảng diễn ra vào thời điểm có ý nghĩa lịch sử trọng đại lồi
người đã kết thúc thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI. Nhân dân Việt Nam, đất nước
Việt Nam đã đi qua một thế kỷ đấu tranh gian nan, oanh liệt giành lại độc lập, tự do,
thống nhất Tổ quốc và bước vào xây dựng CNXH. Thế kỷ XX là thế kỷ của những


18

thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa lịch sử và thời đại của dân tộc Việt Nam. Những thắng lợi
to lớn của sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh, của sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước theo định hướng XHCN trong những năm qua đã tạo ra thế và lực mới
cho cách mạng Việt Nam, tạo ra điều kiện tiền đề rất quan trọng để dân tộc ta bước
vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nhằm
xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đại hội IX chỉ
rõ: thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng
minh tính đúng đắn của Cương lĩnh được thơng qua tại Đại hội VII của Đảng, đồng
thời giúp chúng ta nhận thức rõ hơn con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đại hội
khẳng định: “Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng
nước Việt Nam từng bước quá độ lên CNXH, định hướng cho mọi hoạt động của
Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng
đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đồng thời chỉ rõ: “Khẳng định lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước
phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta”.
Đại hội IX đã có tư duy phát triển mới góp phần bổ sung, hồn thiện những
phương hướng xây dựng CNXH về mục tiêu của CNXH: dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong mục tiêu chung đã bổ sung thêm cụm từ
“dân chủ”. Sự bổ sung đó là cần thiết phản ánh bước tiến mới trong tư duy lý luận
của Đảng ta về CNXH, khẳng định rõ hơn bản chất của chế độ XHCN mà chúng ta
xây dựng là một chế độ dân chủ thực sự, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động. Đại hội IX tiếp tục có tư duy mới về CNXH và con đường đi
lên CNXH nước ta là “sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.



19
Trong thời kỳ q độ có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều
thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị
trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều, cùng với những biến đổi to
lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ
hợp tác và đấu tranh trong nội bộ và nhân dân, đoàn kết hợp tác lâu dài trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp
cơng nhân thống nhất với lợi ích tồn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Vấn đề đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay diễn ra
trong điều kiện mới, với những nội dung và hình thức mới. Nội dung đấu tranh giai
cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển;
thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc
phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái. Đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây
dựng nước ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân ấm lo hạnh phúc.
Về phương hướng xây dựng CNXH trên lĩnh vực kinh tế. Đảng và Nhà
nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hố nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN mà Đại hội IX gọi là: nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, làm rõ sự khác nhau giữa nền kinh tế đó với kinh tế thị trường trong
chủ nghĩa tư bản về mục tiêu, hình thức sở hữu, thành phần kinh tế, vai trò của yếu
tố nền tảng, yếu tố chủ đạo trong nền kinh tế, phương thức phân phối…
Về quan điểm phát triển: Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng
trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường ngay từ bước phát triển; gắn việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp chặt chẽ phát triển KT-XH với quốc
phòng - an ninh. Tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hố và giáo dục, xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa



20
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần
của nhân dân; nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực đất nước.
Đại hội IX còn đưa ra quan điểm đồng bộ, hệ thống về những động lực của
quá trình xây dựng CNXH, phát triển đất nước: một là, đại đoàn kết toàn dân trên cơ
sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo; hai là, kết
hợp hài hồ các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn
lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội; ba là, phát huy dân chủ trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương.
Như vậy, Đại hội IX đã thể hiện một bước quan trọng làm sáng tỏ hơn nữa
vấn đề CNXH và con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam. Một bước phát triển quan
trọng trong tư duy lý luận của Đảng ta qua tổng kết thực tiễn đổi mới, xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006), cùng với việc
kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và tổng kết qua 20 năm tiến
hành công cuộc đổi mới và tiếp tục hoạch định đường lối phát triển đất nước trong
giai đoạn mới. Đặc biệt, Đại hội X đã có bổ sung những quan điểm mới về xã hội
XHCN mà nhân dân ta xây dựng: “Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được
giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển
toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân các nước trên thế giới”. Như vậy, so với 6 đặc trưng được thể hiện
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thơng

qua tại Đại hội VII đã có sự bổ sung, phát triển: ngoài sự bổ sung đặc trưng thứ nhất



×