Tải bản đầy đủ (.pdf) (155 trang)

Luận án nghiên cứu phương pháp viết sử của sử gia việt nam qua bộ quốc sử thời lê đại việt sử ký toàn thư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.22 MB, 155 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đại Việt sử ký Tồn thư là bộ quốc sử có vai trị quan trọng trong lịch sử Việt
Nam, đồng thời có ý nghĩa to lớn trong việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam. Vào năm
Nhâm Thân niên hiệu Thiệu Long thứ 15 (1272) đời vua Trần Thánh Tông, bộ quốc
sử đầu tiên đƣợc Lê Văn Hƣu biên soạn và đặt tên là Đại Việt sử ký, ghi chép lịch
sử từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hồng. Sau đó, đến năm 1445, vua Lê Nhân Tông
sai Phan Phu Tiên tiếp tục soạn Đại Việt sử kí từ đời Trần Thái Tơng đến khi ngƣời
Minh rút về nƣớc (1427). Năm 1479, Ngô Sĩ Liên tiếp thu bộ sử của Lê Văn Hƣu và
Phan Phu Tiên để biên soạn thành bộ Đại Việt sử ký tồn thư (ĐVSKTT) gồm 15
quyển. Vì chiến tranh và có lẽ cịn do nhiều ngun nhân khác, hai bộ sử của Lê
Văn Hƣu và Phan Phu Tiên bị thất lạc, nhƣng rất may mắn là nội dung và tƣ tƣởng
của hai bộ sử trên đã đƣợc Ngô Sĩ Liên kế thừa và lƣu lại trong bộ ĐVSKTT.
Đến năm 1665, trong giai đoạn triều Lê Trung hƣng, Phạm Công Trứ đƣợc
giao biên soạn lịch sử giai đoạn triều Lê, ông đã chỉnh lý và thay đổi kết cấu lại
cuốn ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên, chép thêm một phần nội dung do ông biên soạn,
nhƣng vẫn gọi tên là ĐVSKTT. Năm 1697, Lê Hi tiếp tục công việc biên soạn của
các sử gia đời trƣớc, cuối cùng bộ sách này hoàn thành gồm 24 quyển, đƣợc khắc in
cùng năm, tức bản Chính Hịa-bản có ảnh hƣởng rất lớn đối với hậu thế.
Sau bản Chính Hịa đã có nhiều bản tục biên và bản chỉnh lý ra đời. Tiêu biểu
trong số Bản tục biên là bản Đại Việt sử ký tục biên (ĐVSKTB), bản chỉnh lý tiêu
biểu là bộ Đại Việt sử ký tiền biên của triều Tây Sơn, đƣợc khắc in năm 1800. Quá
trình biên soạn bộ ĐVSKTT đƣợc tiến hành trong một thời gian dài và phức tạp, vì
có nhiều sử gia sống trong nhiều thời đại khác nhau tham gia biên soạn, nên dĩ
nhiên đã thể hiện nhiều hệ tƣ tƣởng khác nhau.
Thực tế, ĐVSKTT không chỉ là bộ sách quý đối với việc nghiên cứu tƣ tƣởng
của lịch sử của Việt Nam, mà còn là nguồn sử liệu quan trọng nghiên cứu Việt Nam
đối với học giả nƣớc ngoài. Bộ sử này tuy đã đƣợc nhiều đề tài, nhiều nhà nghiên cứu
Việt Nam và quốc tế quan tâm, nghiên cứu và đã đạt đƣợc thành tựu đáng kể, nhƣng

1




hiện cịn để lại khơng ít vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Nhất là sau khi công bố văn
bản ĐVSKTT bản in Chính Hịa, Nội các quan bản, đặt ra khơng ít vấn đề cần thảo
luận, trong đó có vấn đề mộc bản và in ấn bộ sử này.
Bản thân tơi nhiều năm đi sâu tìm hiểu tƣ tƣởng biên soạn sách sử của Trung
Quốc, nên rất hứng thú nghiên cứu bộ quốc sử nổi tiếng của Việt Nam, ĐVSKTT, với
chủ hƣớng là đi sâu nghiên cứu văn bản bộ ĐVSKTT, thông qua tƣ tƣởng viết sử của
các tác giả bộ quốc sử này. Vì những lí do nêu trên, tôi chọn đề tài: ―Nghiên cứu
phƣơng pháp viết sử của sử gia Việt Nam qua bộ quốc sử thời Lê Đại Việt sử ký
Toàn thư”, làm đề tài cho luận án Tiến sĩ chun ngành Hán Nơm của mình.
Khái niệm phƣơng pháp viết sử ở đây sẽ không bao hàm những thao tác, kỹ
thuật biên soạn sử cụ thể, mà chủ yếu ở cách thức, thể tài, tƣ tƣởng viết sử của các
sử gia bộ ĐVSKTT.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Bộ sách ĐVSKTT đƣợc các sử gia sống ở nhiều thời đại đời nối nhau biên soạn
trong vòng hơn 400 năm nhƣ: Lê Văn Hƣu, Phan Phu Tiên, Ngơ Sĩ Liên, Phạm Cơng
Trứ, Lê Hi,... Vì họ sống ở nhiều thời đại khác nhau lại cùng biên soạn một bộ sách,
chắc chắn sẽ thể hiện nhiều tƣ tƣởng khác nhau. Sau đó, sách cịn đƣợc nhiều sử gia
đời sau soạn lại, hoặc biên soạn tiếp, tuy nhiên vẫn kế thừa tƣ tƣởng của ĐVSKTT.
Tuy nhiên, vấn đề quá trình biên soạn và tƣ tƣởng của các sử gia vẫn chƣa
đƣợc đề cập một cách rõ nét. Đơn cử nhƣ ảnh hƣởng quyền lực chính trị đối với
việc biên soạn sách sử ở các thời đại khác nhau, thì sẽ diễn ra khác nhau nhƣ thế nào?
Vì vậy, mục đích luận án là làm rõ các lớp văn bản của bộ ĐVSKTT, quan
điểm của từng sử gia tham gia biên soạn, chỉnh lý và hoàn chỉnh bộ sử này, cũng
nhƣ quan điểm của các sử gia thời Lê nói riêng và sử gia Việt Nam nói chung.
Trên cơ sở đó, luận án nhằm làm rõ tƣ tƣởng biên soạn của các sử gia và tìm
hiểu quá trình phát triển của bộ sách sử ĐVSKTT, cũng nhƣ lý luận phát triển sử học
của cổ đại Việt Nam.
Nhiệm vụ luận án: Sƣu tập và hệ thống các văn bản bộ ĐVSKTT, nhất là bản

in năm Chính Hịa. Trên cơ sở đó, so sánh, khảo cứu và chọn bản nền để nghiên

2


cứu. Đó là ĐVSKTT bản Nội các quan bản lƣu trữ tại Hội Á Châu (Société
Asiatique), Pháp, đƣợc in thành tập IV bộ ĐVSKTT bản dịch do Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, năm 1998 và 2011, cùng bản chính lý của Trần Kinh Hịa (Nhật Bản).
Ngồi ra cịn sử dụng các văn bản khác hiện đƣợc lƣu tại kho sách Hán Nôm Viện
nghiên cứu Hán Nôm.
Luận án làm rõ diễn tiến văn bản ĐVSKTT, phân tích các thể biên soạn của
ĐVKSTT, cũng nhƣ tƣ tƣởng viết sử của các sử gia của bộ ĐVSKTT.
3. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng chính của luận án là phƣơng pháp viết sử của các tác giả bộ
ĐVSKTT, cũng nhƣ các sử gia Việt Nam. Vì tính phức hợp của văn bản bộ sử
ĐVSKTT nói chung, văn bản ĐVSKTT bản Nội các quan bản nói riêng, nên cần lấy
việc nghiên cứu văn bản học làm đối tƣợng nghiên cứu. Đồng thời, nghiên cứu tƣ
tƣởng của các sử gia sống ở từng thời đại khác nhau, cũng nhƣ nghiên cứu về sự kế
thừa trong việc biên soạn bộ sử này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các văn bản khác nhau của bộ ĐVSKTT và các sách sử có liên
quan, đó là các bộ; Đại Việt sử ký, Đại Việt sử lược, An Nam chí lược, Đại Việt
Thông sử, Khâm định Việt sử thông giám cương mục. v.v, qua đó luận án sẽ nghiên
cứu sự khác nhau về tƣ tƣởng của các sử gia khi tham gia biên soạn cơng trình
ĐVSKTT. Ngồi ra, luận án cịn nghiên cứu về tƣ tƣởng của các bộ sử đó có ảnh
hƣởng nhƣ thế nào đối với ĐVSKTT.
Luận án nghiên cứu bắt đầu từ giai đoạn triều Lý (1010 - 1225) đến triều Lê
trung hƣng cuối thế kỷ XVII, trong đó đi sâu nghiên cứu về lịch sử biên soạn qua
các thời đại, cũng nhƣ tầm ảnh hƣởng của bộ ĐVSKTT.

Trên cơ sở tiếp thu những thành quả nghiên cứu của các học giả đi trƣớc, trong
bản luận án này, chúng tôi sẽ đi sâu nghiên cứu về hệ thống tƣ tƣởng viết sử của các
sử gia sống ở nhiều thời đại khác nhau. Tiếp đó luận án sẽ nghiên cứu tới tƣ tƣởng
thống nhất đƣợc thể hiện trong bộ sử ĐVSKTT, để tìm hiểu tồn bộ tƣ tƣởng viết sử
của bộ quốc sử thời Lê.

3


4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý thuyết
Đề tài này thuộc lĩnh vực sử học, yêu cầu cần nắm chắc tƣ tƣởng sử học cổ đại
Trung Quốc và Việt Nam, đồng thời vận dụng thành thạo phƣơng pháp luận Sử học
và Ngữ văn học để nghiên cứu các văn bản và so sánh quan điểm khác nhau của các
học giả. Thực tế, ĐVSKTT là bộ sử có vị trí lớn, đã đƣợc nhiều học giả trong và
ngồi nƣớc nghiên cứu, nên cần tìm hiểu kỹ những kết quả nghiên cứu này, cũng
nhƣ những vấn đề còn thảo luận. Đề tài cũng liên quan đến lĩnh vực triết học, do
vậy cũng cần vận dụng tốt phƣơng pháp nghiên cứu triết học để lý giải quan điểm
của các sử gia cổ đại đối với ĐVSKTT.
Sử học là một cơ quan có vai trị quan trọng trong bộ máy Nhà nƣớc, nhất là
trên lĩnh vực văn hóa, cũng nhƣ thể hiện tƣ tƣởng và quan điểm của mình về xã hội
và chính trị qua ngịi bút của mình. Phƣơng pháp luận sử học của Hà Văn Tấn đã
định hƣớng cho cơ sở phƣơng pháp luận sử học Việt Nam [26]. Qua quan điểm của
Hà Văn Tấn, NCS học tập, kế thừa để vận dụng vào việc phân tích các quan điểm
và tƣ tƣởng của sách sử và sử gia đời trƣớc. Tìm hiểu tƣ tƣởng viết sử là hƣớng theo
phƣơng pháp nghiên cứu sử học và lý giải quan điểm và tƣ tƣởng sử học trong
ĐVSKTT và các sử gia của bộ sử đó. [27]
4.2. Phương pháp nghiên cứu
+ Phƣơng pháp văn hiến học: là phƣơng pháp nghiên cứu về tƣ liệu văn hiến,
với thao tác cụ thể là hiệu đính, chỉnh lý nguồn gốc tƣ liệu, giải thích nghĩa chữ (義

字), văn pháp (文法), lịch sử (歷史), tƣ tƣởng (思想) chứa đựng bên trong tƣ liệu
văn hiến.
+ Phƣơng pháp văn bản học: Vận dụng phƣơng pháp văn bản học, so sánh và
nghiên cứu các vấn đề. Sƣu tập các dị bản của ĐVSKTT và kế thừa các thành quả
nghiên cứu của bộ sách này đối với lịch sử cổ đại Việt Nam.
+ Vận dụng một số thao tác của lý luận sử học nhằm làm rõ các mối quan hệ liên
quan tới ĐVSKTT. Trên cơ sở đó, luận án so sánh các quan điểm của các nhà nghiên cứu
liên quan đến ĐVSKTT cũng nhƣ nội dung cụ thể của bộ sách.

4


+ Phƣơng pháp khảo sát điền dã: Nghiên cứu sƣu tập tƣ liệu nhƣ gia phả, văn
bia, đồng thời tìm hiểu trực tiếp quê hƣơng của từng sử gia tham gia biên soạn bộ
ĐVSKTT.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Bộ quốc sử ĐVSKTT phản ánh văn hoá và tƣ tƣởng cơ sở của Việt Nam thời cổ,
do sử gia nhiều đời làm nên và có tƣ tƣởng biên soạn sử học rất phong phú. Luận án
làm rõ hơn một số vấn đề về văn bản ĐVSKTT bản Nội các quan bản, mà cụ thể là
khảo sát hệ thống các văn bản ĐVSKTT, trên cơ sở đó xác định bản NCQB của
Paul Démiville là bản có dấu tích mộc bản thời Lê, chọn làm bản nền, đồng thời xác
định đƣợc bản kí hiệu VHv. 2330 -2336 tại Viện Nghiên cứu Hán Nơm gần với bản
NCQB. Ngồi ra, luận án cũng chỉ ra phƣơng pháp viết sử nổi bật của bộ ĐVSKTT
này, cũng nhƣ quan điểm viết sử của các sử gia thời Lê. Trên cơ sở đó lý giải q
trình phát triển của tƣ tƣởng văn hố của dân tộc Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Bộ ĐVSKTT là bộ sách lịch sử quan trọng trong kho tàng di sản Hán Nơm Việt
Nam, có ảnh hƣởng rất lớn với việc biên soạn sử các đời sau. Phƣơng pháp viết sử
của bộ sử này thể hiện ở quan điểm sử học và tƣ tƣởng viết sử của các sử gia thời

Trần, Lê tham gia chỉnh lý, hoàn chỉnh bộ ĐVSKTT. Nghiên cứu phƣơng pháp viết
sử của bộ sách sử ĐVSKTT của thời Lê giúp chúng ta tìm hiểu về bộ sách này và tƣ
tƣởng thời đại trƣớc.
6.2. Giá trị thực tiễn
Nghiên cứu sâu sắc về tƣ tƣởng viết sử ĐVSKTT, từ đó giúp chúng ta lý giải
tinh thần và tƣ tƣởng của tiền nhân, tiếp đó kế thừa và phát huy giá trị của các sử
gia, xây dựng nên tinh thần của dân tộc Việt Nam hiện nay. Đồng thời học tập và
vận dụng kinh nghiệm, phƣơng pháp viết sử của sử gia trƣớc đây trong việc biên
soạn sách sử ngày nay.

5


7. Cấu trúc của Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Danh mục các cơng trình
cơng bố của tác giả và Phụ lục. Nội dung luận án đƣợc chia thành 4 chƣơng:
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
CHƢƠNG 2: Khảo sát văn bản và truyền bản ĐVSKTT
CHƢƠNG 3: Các Thể biên soạn của ĐVSKTT
CHƢƠNG 4: Tƣ tƣởng viết sử trong bộ ĐVSKTT
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

6


Chƣơng 1
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Về giá trị của ĐVSKTT, trƣớc nay, đã có nhiều thành tựu nghiên cứu của các
học giả ở Việt Nam và nƣớc ngồi. Vì đây là bộ sử có nguồn tƣ liệu phong phú và
hết sức quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam, nên bằng phƣơng
pháp trực tiếp hay gián tiếp mà các học giả Việt Nam và nƣớc ngoài đã khai thác
khá triệt để ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, do khuôn khổ luận án, nên
chúng tôi chỉ đi sâu giới thiệu những công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến
bộ ĐVSKTT, thuộc các lĩnh vực sau đây.
1.1. Về Mục lục học và Thƣ tịch học
Trong quá trình nghiên cứu học thuật từ cổ đại đến hiện đại, các học giả Hán
học tinh thông Hán tự đã chịu ảnh hƣởng sâu sắc của mục lục học và thƣ tịch học,
trƣờng hợp cụ thể về mục lục học và thƣ mục học của thƣ tịch cổ Việt Nam là bộ
ĐVSKTT.
Năm 1904, hai học giả ngƣời là Pháp Léopold Cadière và Paul Pelliot trong bài
―Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam‖, khi khảo sát
nguồn sách cổ của Việt Nam, đã giới thiệu về q trình phát triển của sách sử Việt
Nam. Trong đó, các tác giả nêu rõ quá trình biên soạn bộ ĐVSKTT và các mối quan
hệ đối với các sách lịch sử khác. [108]
Năm 1934, một học giả ngƣời Pháp khác là Emile Gaspardone đã công bố bài
―Bibliographie Annamite”, viết về quá trình diễn tiến của các loại sách cổ của Việt
Nam, và phân thành nhiều loại khác nhau. Đồng thời, giới thiệu về tiểu sử cũng nhƣ
các tác phẩm của những học giả cổ đại, tác giả cho rằng, các tác phẩm của Việt
Nam ít nhiều đều có sự ảnh hƣởng từ Trung Quốc. Tác giả đã nghiên cứu tƣơng đối
tồn diện q trình biên soạn của các sử gia đối với bộ ĐVSKTT, bao gồm từ bộ Đại
Việt sử ký đến bộ Đại Việt sử ký tiền biên, để qua đó giới thiệu về tƣ tƣởng viết sử
cũng nhƣ môi trƣờng soạn sử và tác dụng của sử liệu đối với văn bản Nội các quan
bản [109].

7



Năm 1936, Trần Văn Giáp đã phiên dịch thiên Nghệ văn chí trong Đại Việt
thơng sử của Lê Qúy Đơn và Thư tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của
Phan Huy Chú sang tiếng Pháp có tên là ―Les Chapitres bibliographiques de Phan
Huy Chú”, [110] sau đó 黃軼球 Hoàng Dật Cầu đã dịch bài nghiên cứu này sang
chữ Hán có tên gọi là ―Việt Nam điển tịch khảo/越南典籍考‖, đƣợc công bố tại
Trung Quốc. [112]
Năm 1959, Huyền Khắc Dụng trong tác phẩm ―Việt Nam sử liệu” cũng đã giới
thiệu về bộ ĐVSKTT, trong đó cho thấy phƣơng pháp biên soạn và nội dung giới
thiệu của ông cũng giống nhƣ học giả Pháp, nhƣng vì đây là cơng trình bằng tiếng
Việt nên nó có tầm ảnh hƣởng lớn ở Việt Nam. [3]
Năm 1964, Trần Văn Giáp có bài Lược khảo về bộ ĐVSKTT cùng tác giả của
nó, [5] trong đó, tác giả bài viết đã trình bày rất rõ về quá trình hình thành văn bản
của tác phẩm này. Tác giả cũng đƣa ra nhận định rằng: ngoài sử gia Ngơ Sĩ Liên,
cịn có Phạm Cơng Trứ, Lê Hi, Nguyễn Quý Đức là những sử gia sau này đã tiếp
tục biên soạn và chính thức cho khắc in vào năm 1697, bản mà chúng ta hiện đang
dùng thuộc hệ thống văn bản này.
Năm 1970, tác giả Trần Văn Giáp lại tiếp tục cơng bố tác phẩm Tìm hiểu kho
sách Hán Nôm - Nguồn tư liệu văn học sử học Việt Nam, tập I, đây là một tập đại
thành trong lĩnh vực mục lục học và thƣ tịch học của Việt Nam. Bài viết cho biết rõ
hơn về tác giả Lê Văn Hƣu, cũng nhƣ các bộ quốc sử Đại Việt sử ký [6, tr. 35-39],
Sử ký tục biên của Phan Phu Tiên; trong đó cho biết bộ ĐVSKTT của Ngơ Sĩ Liên
có 15 quyển [6, tr. 69-73], bản khắc ĐVSKTT có 24 quyển [6, tr. 73-84]. Tác giả
cũng giới thiệu về quá trình hình thành, cũng nhƣ số tác giả liên có quan đến
ĐVSKTT, theo đó tác giả đã rút ra nhiều kết luận rất quan trọng và ảnh hƣởng đến
các học giả sau.
Năm 2008, Lƣu Ngọc Quân công bố tác phẩm Nghiên cứu văn hiến học cổ tịch
Hán Nôm Việt Nam/越南漢喃古籍的文獻學研究, giới thiệu tình hình lƣu truyền
bộ sử của Việt Nam, nhƣng mới chỉ giới thiệu bản Đại Việt sử ký tiền biên mà chƣa
giới thiệu đến bản ĐVSKTT đƣợc lƣu truyền ở Trung Quốc [75].


8


Ngoài các tác phẩm mục lục học trên, một số học giả đã công bố một số thƣ
mục đơn giản hơn. Năm 1932, học giả Trung Quốc là Phùng Thừa Quân 冯承钧
biên soạn cuốn An Nam thư mục/ 安南书目 của Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội
giới thiệu quá trình phát triển sách sử nói chung và bộ sử ĐVSKTT nói riêng. [52]
Năm 1934, học giả Nhật Bản Matsumoto Nobuhiro 松本信广 biên soạn Thư
mục chữ Hán của Viện Viễn Đông bắc cổ Pháp ở Hà Nội/ 河內佛國極東學院所藏
安南本書目同追记 và công bố tại Nhật [98]. Năm 1937 học giả Nhật Bản Yamaoto
Tasturo tiếp tục biên soạn thƣ mục Sách chữ Hán bản An Nam và sách cổ chữ Nôm
tàng trữ tại Học viện Viễn Đông (EFEO) ở Hà Nội/河内佛國極東學院所藏字喃本
及び安南版漢籍書目[104]...ĐVSKTT đều đƣợc nhắc tới trong 2 cuốn thƣ mục trên.
Năm 1984, Trần Ngha v Franỗois Gos (ng ch biờn) biờn son Di sản Hán
Nôm Thư mục đề yếu, bộ thƣ mục đầy đủ về kho sách cổ hiện đƣợc lƣu trữ tại Viện
nghiên cứu Hán Nôm bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp. Trong đó có giới thiệu về
các dị bản của ĐVSKTT. Lƣu Xuân Ngân 刘春银, Vƣơng Tiểu Thuẫn 王小盾 và
Trần Nghĩa đồng chủ biên giới thiệu Thƣ mục Hán Nôm tại Viện Nghiên cứu Hán
Nơm bằng tiếng Trung, có tên là Việt Nam Hán Nôm văn hiến mục lục đề yếu/越南
漢喃文獻目錄提要, đƣợc xuất bản ở Đài Loan năm (2002). Công trình này rất hữu
ích cho việc tra cứu, đồng thời cũng khiến các học giả quốc tế có thể hiểu rõ tình
hình lƣu trữ của thƣ tịch Việt Nam nói riêng, bộ ĐVSKTT nói chung.
Năm 2008, Lƣu Ngọc Quân trong tác phẩm Nghiên cứu văn hiến học cổ tịch
Hán Nôm Việt Nam vừa nêu ở trên, giới thiệu quá trình biên soạn mục lục văn hiến
Hán Nôm Việt Nam và cơng bố các cơng trình về mục lục đã đƣợc biên soạn. [75, tr.
8-13] Loại thƣ mục giản lƣợc chỉ trình bày thơng tin của sách cổ và khác rất nhiều
với tác phẩm mục lục học.
Các cơng trình mục lục học và thƣ mục giản lƣợc trên đã giới thiệu chính là cơ
sở để nghiên cứu về loại thƣ mục cổ Việt Nam nói chung và bộ quốc sử ĐVSKTT
nói riêng.

1.2. Về Văn bản
Trên cơ sở nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nƣớc, năm 1983 Phan
Huy Lê mang về một bản khắc in từ Thƣ viện Hội Á Châu ở Paris. Sau đó, đã cho

9


công bố bài ĐVSKTT: Tác giả - văn bản - tác phẩm, đăng trên tạp chí Nghiên cứu
lịch sử. [13] Bài viết cho biết rõ hơn về các bản khắc in, cũng nhƣ quá trình hình
thành bản Nội các quan bản. Qua đó, cịn cho biết thêm về quan điểm của các học
giả nƣớc ngoài nhƣ: Nga, Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc… họ đã căn cứ vào nhan đề,
chữ kiêng húy, niên đại để đi sâu nghiên cứu về ĐVSKTT. Quan điểm của Phan Huy
Lê đã có ảnh hƣởng lớn đến các nghiên cứu sau này.
Bài khảo cứu này của Phan Huy Lê đƣợc Đặng Quảng Sâm dịch ra tiếng Trung
và Đặng Thủy Chính hiệu đính 鄧廣森譯 鄧水正校 đăng trên Tạp chí Ấn Độ Chi
Na số 1 và số 2 năm 1985 ở Trung Quốc bài viết với nhan đề Tác giả và quá trình
biên soạn của ĐVSKTT [114].
Năm 1986, Vũ Thƣợng Thanh học giả Trung Quốc công bố bài Từ Đại Việt sử
ký đến ĐVSKTT. [60] Năm 1987, tác giả lại tiếp cơng bố bài Q trình phát triển và
hồn thành của ĐVSKTT, [61] đây là cơng trình đầu tiên giới thiệu một cách toàn
diện về văn bản và nội dung của bộ ĐVSKTT ở Trung Quốc. Tác giả cho rằng chữ
viết có hai ý nghĩa đó là nói 曰 và viết soạn 写. Phan Huy Lê trong bài nghiên cứu
này đã lí giải cụm từ Lê Văn Hƣu viết/黎文休曰 tức là Lê Văn Hƣu viết sử. Cũng
nhƣ thế cụm từ Phan Phu Tiên viết/潘孚先曰 nghĩa là Phan Phu Tiên viết sử.
Nhƣng thực tế là Lê Văn Hƣu nói và bình luận lịch sử, Phan Phu Tiên vẫn nói và
bình luận lịch sử. Tuy nhiên, khi khảo sát nguyên văn bài viết của Phan Huy Lê ở
mục "Lê Văn Hưu viết” và mục “Phan Phu Tiên viết”, [13, tr.29-30] có đoạn lời
bình của Lê Văn Hƣu và Phan Phu Tiên, thì Nghiên cứu sinh cho rằng quan điểm
của Vũ Thƣợng Thanh chƣa thực sự hợp lý.
Ngày 16 tháng 4 năm 1988, Ủy ban Khoa học Xã hội (nay là Viện Hàn lâm

Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức Hội thảo về bộ ĐVSKTT. Sau đó, 16 bài trong
số các tham luận của Hội thảo này đƣợc công bố trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số
5-6, năm 1988. Nội dung các bài tham luận này đi sâu nghiên cứu về các nhóm vấn
đề sau:
- Vấn đề niên đại: Nhóm này gồm các bài của Lê Trọng Khánh, Phan Huy Lê,
Nguyễn Tài Cẩn, Trần Nghĩa, Nguyễn Quang Hồng, Vũ Minh Giang, Ngô Thế Long.

10


- Vấn đề Nội các, gồm: Đỗ Văn Ninh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Gia Phu đi sâu
bàn về cơ quan Nội các ở Việt Nam và Trung Quốc. Trong đó, nhóm phản biện của
Bùi Thiết cho rằng Nội các là cơ quan thuộc thời Nguyễn.
- Về ấn chƣơng, nhóm này gồm: Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí, Chu Quang Trứ
đi sâu nghiên cứu về ấn chƣơng và bìa của bản Nội các.
Cuối cùng hội nghị đi đến khẳng định về kết quả giám định niên đại khắc in bộ Đại
Việt sử kí Tồn thư của bản Nội các quan bản: Đây là bản khắc in rất cổ theo hệ thống
bản 1697, và đƣợc in lại trong giai đoạn Lê - Trịnh, bản này rất có giá trị . [9]
Năm 1988, Ngô Thế Long trong bài ―Về bản ĐVSKTT in ván gỗ của Phạm Cơng
Trứ mới đƣợc tìm thấy‖ đã giới thiệu về một bản Tục biên do Nguyễn Văn Huyên lƣu
giữ. Ngô Thế Long xác định đây là nguyên bản khắc in của soạn giả Phạm Công Trứ,
đồng thời cho rằng có thể Lê Hi đã sửa lại bản của Phạm Cơng Trứ, bản này rất có giá
trị đối với giới nghiên cứu [16].
Năm 1989, học giả Trung Quốc gọi Quách Chấn Đạc 郭振铎 công bố bài Đại
Việt sử ký tục biên sơ thám/《大越史记续编》初探, giới thiệu quá trình biên soạn và
nội dung bản của Phạm Công Trứ, tác giả cũng thừa nhận bản thân đã bị thuyết
phục rằng ĐVSKTT của Lê Hi. [62] Bài viết này đƣợc dịch sang tiếng Việt với nhan
đề Bước đầu tìm hiểu Đại Việt sử ký tục biên và đƣợc cơng bố trên Tạp chí Hán
Nôm, số 2, năm 1990①.
Năm 1990, học giả Quách Chấn Đạc công bố bài Vấn đề biên soạn và những

vấn đề khác của ĐVSKTT/越南《大越史記全書》的編撰及其若干問題, [68] giới
thiệu về văn bản và q trình hồn thành của sách này. Trong đó, tác giả đi sâu phê
phán quan điểm phong kiến cổ đại, đồng thời cũng hy vọng giới học thuật Trung
Quốc tiếp tục nghiên cứu ĐVSKTT một cách sâu sắc hơn.
Năm 2003, học giả Nhật Bản là Hasuda Takashi 蓮田隆志 công bố bài Vấn đề
nghiên cứu Đại Việt sử ký tục biên『大越史記本紀続編』研究ノート[97] giới thiệu
và khảo sát Đại Việt sử ký Bản kỷ tục biên, tức là bản của Nguyễn Văn Huyên mà


Thuật ngữ Tục biên ở đây, ý chỉ Bản kỷ tục biên 本紀續編 trong ĐVSKTT, khác với bộ Đại Việt sử ký tục
biên bộ sử chép tiếp từ 1676 đến 1789 thời Lê Trịnh.

11


học giả Ngô Thế Long đã giới thiệu. Qua so sánh với hai bản chép lƣu trữ ở Viện
Viễn Đông bác cổ Pháp, tác giả cho rằng không thể xác định đƣợc bản Nguyễn Văn
Huyên thuộc niên hiệu Cảnh Trị mà cho rằng bản này của soạn giả Phạm Công Trứ,
thuộc cuối giai đoạn Lê Trung hƣng.
Năm 2008, học giả ngƣời Nga là A.L.Fedorin đã cho ra mắt chuyên khảo
Những cứ liệu mới về việc viết sử Việt Nam, đƣợc Tạ Tự Cƣờng dịch sang tiếng
Việt, ấn hành vào năm 2011. Cơng trình này chủ yếu khảo cứu về vấn đề văn bản
học của bộ quốc sử ĐVSKTT. Bằng phƣơng pháp định lƣợng và nghiên cứu về hình
thức đã cho phép có cách nhìn mới về vấn đề biên soạn và lƣu giữ bộ sử gốc này.
Đặc biệt là đã chứng minh đƣợc rằng bộ ván in đầu tiên của nó đã xuất hiện ngay ở
thế kỷ thứ XV, tức sớm hơn 200 năm so với điều mọi ngƣời vẫn nghĩ trƣớc đây.
Tác giả đã dành riêng một chƣơng viết về Lịch sử khảo cứu ĐVSKTT ở Việt Nam và
nước ngồi, chƣơng này giới thiệu tồn bộ các cơng trình của học giả Pháp, Nga,
Nhật Bản và Việt Nam có liên quan đến nghiên cứu văn bản của bộ ĐVSKTT. [111]
Năm 2015, tác giả Trần Kim Đỉnh có bài ĐVSKTT (bản in 1697): quá trình

biên soạn và nội dung cơ bản, in trong Một số vấn đề lịch sử sử học Việt Nam,
nghiên cứu trên cơ sở tài liệu của các học giả Việt Nam, bài viết đi sâu giới thiệu
q trình hồn thành cũng nhƣ phản ánh tƣ tƣởng của thời đại. [4]
Năm 2016, NCS. Tạ Vinh Toàn ở Trung Quốc công bố bài ―Lược thuật về
nguồn lưu giữ văn bản của ĐVSKTT”/《大越史記全書》版本源流述略[92], cơng trình
này chủ yếu dùng tài liệu nghiên cứu của học giả Việt Nam, để từ đó đi đến phân tích
quan điểm của mình. Tuy nhiên, tác giả tuy là ngƣời am hiểu tiếng Việt, nhƣng có lẽ
chƣa biết đến cơng trình của học giả A.L.Fedorin đã giới thiệu, nên thiếu phần tham
khảo cơng trình này.
Năm 2021, NCS cơng bố bài ―Q trình biên soạn và truyền bản bộ Đại Việt sử ký
toàn thư‖ giới thiệu các bản khắc in của ĐVSKTT và truyền bản khắc in các thời đại
lƣu trữ đến hiện nay. [22]

12


1.3. Về mối quan hệ của các bộ sách sử với ĐVSKTT
Năm 1952, học giả Nhật Bản là Yamamoto Tatsuro 山本达郎 công bố bài
“Việt sử lược và Đại Việt sử ký” /「越史略と大越史記」. Bài viết đã đi sâu nghiên
cứu về mối quan hệ văn bản của hai bộ sách sử này. Tác giả cũng đƣa ra một số
nhận định nhƣ, bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hƣu đƣợc kế thừa từ bộ Việt chí của
Trần Chu Phổ; bên cạnh đó cũng khẳng định soạn giả sách Việt sử lược là Hồ Tông
Thốc sống ở cuối thời Trần, tức là Việt sử lược là Việt sử cương mục, các bộ sách sử
khác đã có ảnh hƣởng rất lớn tới bộ ĐVSKTT. [105]
Năm 1970, Trần Văn Giáp trong cơng trình Tìm hiểu kho sách Hán Nôm đã
đƣa ra một giả thuyết, tác giả của Đại Việt sử lược có thế là Trần Chu Phổ, và việc
soạn sử riêng chƣa phổ biến. [6, tr.37-38]
Năm 1980, Trần Kinh Hịa cơng bố bài Soạn giả và nội dung của Đại Việt sử
lược『大越史略』-その內容と編者 bằng tiếng Nhật, cơng trình này khơng đồng ý
với quan điểm của Yamamoto Tasturo. [99] Theo An Nam chí lược tác giả đƣa ra

nhận định tác giả của Đại Việt sử lược là Trần Chu Phổ, gọi đƣợc Việt chí, tức sau
khi Lê Văn Hƣu sửa lại nhan đề Đại Việt sử ký. Năm 1983 học giả Lý Tháp Na dịch
cơng trình này sang tiếng Trung. [113]
Phan Huy Lê trong tác phẩm ĐVSKTT: Tác giả - văn bản - tác phẩm, đăng
trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử, sau khi trình bày và so sánh quan điểm của
Yamamoto Tasturo và Trần Kinh Hòa đã viết: ―tất cả những chủ trương thuộc hai
khuynh hướng trên đây đều là những giả thuyết khoa học đáng lưu ý, nhưng trong
tình trạng sử liệu hiện nay, thì chưa thể coi đó là những kết luận khoa học có đủ sức
thuyết phục‖[13, tr.28].
Năm 1982, Nguyễn Đổng Chi trong bài Tìm hiểu văn bản sách ĐVSKTT tục
biên hay là những phần cuối của bộ ĐVSKTT, đã nghiên cứu về toàn bộ các bản
Tục biên đƣợc xuất hiện sau thời Lê Hi và Nguyễn Quý Đức. Các bộ Tục biên thể
hiện rõ lập trƣờng và tƣ tƣởng phong kiến trong quá trình biên soạn, vì các sử thần
của các bản Tục biên đều là trung thần của họ Trịnh, do vậy còn thấy rõ tƣ tƣởng đề
cao chúa Trịnh và phê phán chúa Nguyễn. [1]

13


Năm 1997, học giả Trung Quốc là Trƣơng Tiếu Mai 張笑梅 và Quách Chấn
Đạc 郭振鐸 cho công bố bài Vấn đề biên soạn sách sử Việt sử lược của Việt Nam,
cơng trình này khơng đồng ý với quan điểm của Yamamoto Tasturo và Trần Kinh
Hòa, tác giả cho rằng Việt sử lược và Đại Việt sử ký là hai bộ sách sử khác nhau và
khơng có liên quan đến nhau, nhƣng không cho biết tác giả của Việt sử lược là ai.[63]
Năm 2009, Nguyễn Hữu Tâm bảo vệ luận án Tiến sĩ sử học với tiêu đề Quốc
sử quán triều Nguyễn (1820 - 1945) đi sâu giới thiệu cơ cấu soạn sử của các đời
trƣớc và Quốc sử quán nhà Nguyễn. Đây là cơng trình nghiên cứu chun sâu về cơ
quan soạn sử có giá trị nghiên cứu. [34]
Năm 2009, Ngơ Thu Yến hồn thành luận án thạc sĩ ở Đài Loan, nhan đề
Nghiên cứu Hán tịch Việt Nam lưu trữ ở thời Minh, Trung Quốc /明代中國所見越

南漢籍研究, tác giả cho rằng tác giả của Việt sử lược là Trần Chu Phổ, tức là sách
Việt chí ghi chép trong An Nam chí lược. Quan điểm này hồn tồn thống nhất với
quan điểm của Trần Kinh Hòa. [77]
Năm 2013, Nguyễn Thị Oanh đã giới thiệu 9 bản Đại Việt sử ký bằng chép tay
đang lƣu trữ tại Viên Nghiên cứu Hán Nôm[19], trong đó tập trung nghiên cứu bản
A.1486/1-5 và A.1272/1-4, cho rằng, hai bản này giống nhau và có quan hệ nhiều
với Đại Việt sử ký tiền biên và Đại Việt sử ký toàn thư. Đây là bản Tập Hiền Viện 集
賢院 nhà Nguyễn biên soạn và kế thừa nhiều nội dung và tƣ tƣởng với NCQB. [20]
Năm 2015, học giả Trung Quốc là Ngƣu Quân Khải công bố bài Bước đầu tìm
hiểu Tục biên của ĐVSKTT/《大越史記全書》“續編”初探, tác giả nghiên cứu về
các bộ sử sau năm 1675, tức là bản Chính Hịa. Từ đó, nghiên cứu về q trình biên
soạn ở cuối thời Lê trung hƣng và thái độ của nhà Nguyễn đối với các bản Tục biên,
và cho rằng có ảnh hƣởng lớn về mặt chính trị. [86]
Năm 2020, NCS công bố bài về quan hệ NCQB với Đại Việt sử ký bản kỷ tục
biên là bản khắc của Nguyễn Văn Huyên, rút ra nhận xét rằng, bộ sử này đã phát
triển tƣ tƣởng tôn sùng chúa Trịnh. [90]

14


1.4. Về phƣơng pháp và tƣ tƣởng viết sử
Năm 1962, Nguyễn Phƣơng cho công bố bài Những sai lầm của ĐVSKTT, bài
viết chỉ rõ Lê Văn Hƣu chính là tác giả quan trọng của ĐVSKTT, đồng thời cũng là
sử gia đầu tiên của Việt Nam, khơng phải chỉ có Ngơ Sĩ Liên. [23] Tiếp đó, tác giả
lại cho cơng bố bài Phương pháp sử của Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên, cho rằng
Trung 忠 và Hiếu 孝 là quan niệm căn bản của hai sử gia. Sau đó, tác giả lại so
sánh về sử liệu, mục đích và cách dùng sử liệu, đó chính là một phƣơng pháp viết
sử quan trọng. [24]
Năm 1972, học giả O.W.Wolters công bố bài Historians and emperors of
Vietnam and China: Comments arising of Le Van Huu`s history, bài viết nghiên cứu

về hoàn cảnh biên soạn của bộ Đại Việt sử ký, từ đó đƣa ra nhận định rằng việc Nho
học chiếm vị trí quan trọng trong thời nhà Trần, đã tạo điều kiện tốt cho Lê Văn
Hƣu hoàn thành bộ quốc sử Đại Việt sử ký. [106]
Năm 1984, Nguyễn Duy Hinh với bài Lê Văn Hưu với ĐVSKTT đi sâu nghiên
cứu về các tác giả của ĐVSKTT và giới thiệu nội dung khái quát của bộ sử này.
Trong đó, nghiên cứu tƣơng đối sâu về tƣ tƣởng soạn sử, tƣ tƣởng Phật giáo, Nho
giáo trong từng lời bàn của Lê Văn Hƣu, qua đó so sánh với lời bàn của Ngơ Sĩ
Liên. Ví dụ, tác giả đã phê phán một số quan điểm của Lê Văn Hƣu nhƣ Triệu Vũ
Đế không phải là vua đầu tiên mở nƣớc… [7]
Năm 1997, hƣớng tới kỉ niệm tròn 300 năm bộ ĐVSKTT đƣợc khắc in
(1697-1997), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã cho ra mắt cuốn Ngơ Sĩ Liên và
ĐVSKTT, năm 1998, do Phan Đại Dỗn chủ trì. [2] Cơng trình này chia thành ba
phần, thứ nhất là Cuộc đời và sự nghiệp của Ngô Sĩ Liên (gồm 9 bài), trong đó Phan
Đại Dỗn có bài Mấy khía cạnh triết học lịch sử của Ngơ Sĩ Liên. Bài viết cho rằng
Ngô Sĩ Liên đã kế thừa quan điểm sử học của Tƣ Mã Thiên và bộ sách sử Sử Ký,
khi đi vào phân tích và gọi Mã sử 馬史, bên cạnh đó cũng cho rằng thể loại của
ĐVSKTT là thể Biên niên, vì phần Bản kỷ trong Sử ký cũng là thể Biên niên. Tác giả
còn chỉ ra tƣ tƣởng biên soạn của Ngô Sĩ Liên chịu sự ảnh hƣởng lớn dƣới thời đại
Lê Thánh Tông.[2, tr.27-45]

15


Bài Danh nhân Ngơ Sĩ Liên - khí phách cương trực chính đại của ơng sống
cùng quốc sử của Đặng Văn Tu nói về khí phách, tinh thần trực bút của sử gia qua
lời bình luận của Ngơ Sĩ Liên. [2, tr.46-57]
Ngồi ra, trong cuốn Ngơ Sĩ Liên và ĐVSKTT, do Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, ấn hành năm 1998, cịn có nhiều bài viết khá sâu sắc nhƣ:
Bài Đọc những lời bình sử của Ngơ Sĩ Liên của Nguyễn Hải Kế [2, tr.58- 91],
nghiên cứu về sử luận và đánh giá về tƣ tƣởng viết sử của Ngô Sĩ Liên. Qua thao tác

nghiên cứu tỉ mỉ, tác giả đã có những lời bình rất xác đáng về Lê Văn Hƣu và Ngô
Sĩ Liên.
Bài Tư tưởng sử học của Ngơ Sĩ Liên của Hồng Hồng [2, tr.92- 108] đi sâu
phân tích về Ngoại kỷ và Bản kỷ. Tác giả đƣa ra nhận định rằng, trƣớc Ngơ Sĩ Liên
chƣa có sử gia nào sử dụng phƣơng pháp với mục đích viết sử làm gƣơng răn dạy
đời sau nhƣ Ngô Sĩ Liên. Tác giả cũng cho rằng đối với Ngô Sĩ Liên thì Nho đạo là
Sử đạo từ đó đi vào phân tích tƣ tƣởng Nho giáo của Ngơ Sĩ Liên đƣợc thể hiện cụ
thể trong phần chính văn và phần lời bình.
Hà Văn Tấn trong bài Một vài suy nghĩ tản mạn về Ngô Sĩ Liên [2, tr.111-121],
thông qua biểu văn, lời bình và phần chính văn trong 15 quyển do Ngơ Sĩ Liên soạn
để tìm hiểu về tƣ tƣởng sử học của ông. Tác giả cho rằng Ngô Sĩ Liên soạn ra Kỉ
Kinh Dƣơng Vƣơng - Hùng Vƣơng - An Dƣơng Vƣơng là tìm về cội nguồn quốc sử,
đó cũng là kế thừa và phát triển tƣ tƣởng sử học của Lê Văn Hƣu và Phan Phu Tiên vậy.
Tìm hiểu Ngô Sĩ Liên và tài năng và sử bút của Trần Bá Chí [2, tr.111-121],
nghiên cứu về các khái niệm sử tài, sử học, sử thực của Lƣu Tri Cơ ngƣời thời
Đƣờng. Tác giả cũng cho rằng Ngô Sĩ Liên rất tài năng về sử bút, ngồi ra cịn
chuẩn xác về sử thể, đây nội dung rất quan trong của tƣ tƣởng viết sử ở Việt Nam.
Ý thức hệ tư tưởng chính thống và tính khách quan lịch sử trong ĐVSKTT của
Nguyễn Danh Phiệt [2, tr.111-121], đi sâu trình bày về tƣ tƣởng chính thống của các
sử gia, theo quan điểm này thì các sử gia phải chịu sự ảnh hƣởng một cách khách
quan từ lịch sử. Vì quan điểm chính thống của đời sau sẽ khác với đời trƣớc, qua đó

16


các sử gia phải sửa lại sự kiện lịch sử hoặc soạn lại sách sử, trong quá trình thời thế
thay đổi đã có sự ảnh hƣởng nhất định đến chính trị và đất nƣớc.
Bài viết Học giả Pháp nghiên cứu về Ngô Sĩ Liên và ĐVSKTT của tác giả
Nguyễn Thừa Hỷ tổng kết và giới thiệu tồn bộ q trình nghiên cứu, cũng nhƣ
những thành tựu và quan điểm của học giả ngƣời Pháp này khi nghiên cứu về Ngô

Sĩ Liên và ĐVSKTT. [2, tr.212-220]
Nghiên cứu ĐVSKTT tại Nhật Bản của Momoki Shiro là tác giả ngƣời Nhật
Bản, đi sâu trình bày về thành tựu nghiên cứu của ĐVSKTT ở Nhật. Tác giả chú
trọng giới thiệu cơng trình văn bản học của cố Trần Kinh Hịa, ghi lại cơng việc và
quá trình hiệu chỉnh bản ĐVSKTT và ấn hành trong các năm năm 1984-1986. Tác
giả cịn giới thiệu các cơng trình khác liên quan ĐVSKTT, giúp giới học giả thêm
hiểu biết về thành tựu nghiên cứu vấn đề này ở Nhật Bản. [2, tr.221-229]
Khuynh hướng trở về với cội nguồn dân tộc thời kỳ văn minh Đại Việt và sự ra
đời của Đại Việt sử ký Ngoại kỷ Toàn thư (quyển 1), [2, tr.183-211] của Nguyễn
Quang Ngọc tiến hành khảo sát cụ thể về diên cách quốc sử từ cuốn Việt sử lược đến
ĐVSKTT (quyển 1) của Ngô Sĩ Liên, từ đó đi đến nhận định Ngơ Sĩ Liên có kế thừa
các sử gia đời trƣớc. Qua phần so sánh diên cách quốc sử, rồi đi đến kết luận Ngô Sĩ
Liên đã chịu ảnh hƣởng sâu sắc từ Việt sử lược, đó là quyển 1, tức Hồng Bằng kỷ và
Thục kỷ. Nhƣng chƣa đề cập đến vấn đề Ngô Sĩ Liên có tham khảo từ Việt sử lược.
Luận án cịn cho rằng tài liệu của Việt sử lược có thể giống với Đại Việt sử ký, vì vậy
tác giả nhận định Ngô Sĩ Liên đã chịu ảnh hƣởng sâu sắc từ Việt sử lược .
Năm 1999, tác giả Hoàng Văn Lâu trong bài Lối viết truyện trong bộ sử biên
niên ĐVSKTT, [12] phân tích khái niệm về Truyện trong tác phẩm sử học Trung
Quốc và nhận định rằng ĐVSKTT biên soạn truyện cho nhân vật lịch sử, và cho rằng
đây là một nét đặc sắc của Toàn thư, và cũng là "nét riêng" của sử học Việt Nam so
với sử học Trung Quốc. Tác giả đề xuất vấn đề trong Sử biên niên có sử thể truyện,
tức là sáng tạo trong quá trình biên soạn và vận dụng tổng hợp của các sử thể Kỷ
truyện và Biên niên.

17


Năm 2000, Đinh Quang Trung, trƣờng Đại học Nam Khai đã hồn thành luận
án của mình với đề tài Luận Sử ký và ĐVSKTT. Tác giả đã thuật lại đầy đủ q trình
sáng tác và các đặc điểm chính của hai bộ sử này. Cùng với đó, tác giả cho rằng Sử

ký đã ảnh hƣởng rất lớn đến ĐVSKTT, nhƣng phân tích rất đơn giản, chƣa thể hiện
đƣợc quan điểm rằng Ngô Sĩ Liên đã kế thừa một cách sâu sắc từ Tƣ Mã Thiên.[73]
Năm 2006, một học giả Hàn Quốc là Yu InSun công bố bài Lê Văn Hưu and
Ngô Sĩ Liên, A Comparison of Their Perception of Vietnamese History, cơng trình
này đi sâu nghiên cứu quan điểm chính thống của hai sử gia thời Trần và thời Lê sơ,
tiếp đó cịn so sánh quan niệm sử học của hai sử gia ở hai thời đại khác nhau.[107]
Năm 2008, Văn Tạo có bài ĐVSKTT”: nghĩ về viết và sử học, đi sâu thảo luận
về trách nghiệm của sử quan, đó là tinh thần Thực lục, mong muốn sử học phải thể
hiện rõ tinh thần dân tộc, nhƣng bài viết chƣa triển khai luận thuật phƣơng pháp sử
học Thực lục.[29]
Năm 2010, Vƣơng Phƣợng Hoa thuộc Trƣờng Đại học Trịnh Châu đã hồn
thành luận văn Thạc sỹ của mình với đề tài Phân tích sử luận của ĐVSKTT/試析<
大越史記全書>的史論. Luận văn nghiên cứu cụ thể về tƣ tƣởng nhƣ: Chính thống
quan, Thiên mệnh quan và Hoa Di quan. Tuy nhiên, tác giả chƣa đi sâu giải quyết
vấn đề, những kết luận còn rất đơn giản, chƣa phản ánh hết tƣ tƣởng sâu sắc của các
sử gia các đời. [79]
Ngồi những cơng trình, bài viết của các tác giả nêu trên, bản thân NCS cũng
đã bƣớc đầu nghiên cứu về Đại Việt sử kí Tồn thư, thơng qua 5 bài viết, gồm:
Năm 2011, công bố bài Lược luận ĐVSKTT 15 quyển của Ngô Sĩ Liên/吳士連
《大越史記全書》十五卷略論. [80] Bài viết nghiên cứu về quá trình hồn thành bộ
Đại Việt sử kí Tồn thư (bản 15 quyển) do Ngơ Sĩ Liên soạn, qua đó đi sâu phân
tích về mối liên quan giữa tƣ tƣởng và tâm lý viết sử của Tƣ Mã Thiên và Ngô Sĩ
Liên. Từ đó, NCS đƣa ra nhận định rằng Ngơ Sĩ Liên ảnh hƣởng nhiều phƣơng
pháp viết sử của Tƣ Mã Thiên.
Năm 2012, NCS cơng bố bài Tích luận quyển Hồng Bàng Kỷ và Thục Kỷ trong
ĐVSKTT. [81] Bài viết chỉ rõ Ngô Sĩ Liên đã kế thừa phƣơng pháp và tƣ tƣởng viết

18



sử từ Ngũ Đế bản kỷ của Tƣ Mã Thiên. Trong đó, Ngơ Sĩ Liên đã sử dụng tài liệu
huyền thoại trong Lĩnh Nam chích quái để soạn ra Hồng Bàng Kỷ và Thục Kỷ.
Năm 2014, NCS tiếp tục công bố bài Lược luận thể lệ biên soạn của ĐVSKTT
Bản Chính Hịa. [84] Bài viết nghiên cứu về phƣơng pháp viết sử của các sử gia
gồm; Ngô Sĩ Liên, Phạm Cơng Trứ, Lê Hi để từ đó đi đến nhận định bộ ĐVSKTT
đƣợc chia thành Ngoại kỷ, Bản bỷ, Bản kỷ Thực lục, Bản kỷ Tục biên là theo tƣ
tƣởng viết sử của Tƣ Mã Quang trong tác phẩm Tư trị thông giám, đồng thời cũng
chịu ảnh hƣởng từ Tư trị thơng giám Cương mục của Chu Hy. Điều đó cho thấy, các
sử gia sống ở thời đại khác nhau thì có các tiếp cận lịch sử khác nhau.
Năm 2015, NCS cơng bố bài viết thứ 4 của mình với nhan đề Sử luận và sử học
trong Việt sử thông khảo Tổng luận của Lê Tung. [85] Bài viết nghiên cứu về quá trình
Lê Tung kế thừa tƣ tƣởng sử học của Ngô Sĩ Liên và Vũ Quỳnh vào sáng tác của mình.
Trong đó, đã đi sâu so sánh để đƣa ra nhận định Ngô Sĩ Liên chịu ảnh hƣởng soạn sử
từ Tƣ Mã Thiên và Tƣ Mã Quang. Còn Lê Tung thì chịu ảnh hƣởng soạn sử của Chu
Hy trong Tư trị thơng giám Cương mục, vì Lê Tung vâng theo sắc chỉ của vua Lê Tƣơng
Dực để soạn, cho nên tƣ tƣởng của bộ sử này chịu sự ảnh hƣởng từ chính quyền Lê sơ.
Năm 2016, NCS lại công bố bài Việc biên soạn và tư tưởng trong Đại Việt sử
ký của Lê Văn Hưu. [87] Từ lời bình của Lê Văn Hƣu trong ĐVSKTT để đƣa ra
nhận định Lê Văn Hƣu đã có những quan điểm riêng trong khi soạn sử, và những
quan điểm đó có ảnh hƣởng lớn đến các sử gia đời sau. Thí dụ, trong lời bình về các
nhân vật lịch sử ơng thƣờng dẫn viện quan điểm của đức Khổng Tử, đó là điểm
khác với Ngô Sĩ Liên.
Năm 2019, trong bài ―Phƣơng pháp biên soạn ―Kỷ‖ trong Đại Việt sử ký toàn thư
của Ngô Sỹ Liên‖, NCS xác định việc Ngô Sĩ Liên sáng tác thể tài trong bộ sử đó, đồng
thời trình bày quan hệ giữa các thể biên soạn và tƣ tƣởng kế thừa sử giả đời trƣớc. [21]
1.5. Về nội dung sử liệu
Năm 1966, Văn Tân với bài Vài sai lầm về tài liệu của bộ ĐVSKTT [28] đã khảo
đính một số vấn đề về địa lý, thời gian, nhân vật trong bộ sử ĐVSKTT, đồng thời còn đƣa
ra ý kiến phê phán của mình đối với việc phân tích về lĩnh vực sử liệu của bộ sử.


19


Năm 1978, học giả Nhật Bản là Wada Hironori công bố bài viết Quan hệ giữa
Việt Nam và các anh hùng cuối thời Nguyên: sự ghi chép trong ĐVSKTT /元末の群
雄とベトナム: 陳友諒・朱元璋に関する大越史記全書の記事, [103] tác giả
đi sâu khảo cứu tƣ liệu viết về hai nhân vật trong ĐVSKTT, đó là Trần Hữu Lƣợng
và Trần Ích Tắc. Trong đó, tác giả nghiên cứu kĩ về mối quan hệ cha con của hai
nhân vật sống ở thời nhà Trần này, có mối liên hệ và từng tham gia nổi dậy ở cuối
thời Nguyên.
Năm 1988, Lê Thành Lân công bố bài Một vài ghi chú về niên đại nhà Mạc
cho bộ ĐVSKTT.[11] Theo tác giả bài viết, căn cứ vào những sử liệu ghi chú niên
đại nhà Mạc, từ đó đƣa ra nhận định rất có thể sử gia Lê Trung hƣng do thiếu sử
liệu nên đã dùng tài liệu quốc sử của nhà Mạc, trên cơ sở đó có sửa chữa thêm để
đƣa vào bộ ĐVSKTT.
Năm 1989, tác giả Trần Nghĩa có bài ĐVSKTT bản “Nội các quan bản” không
phải là không kiêng húy, [17] đƣợc đăng trên Tạp chí Hán Nơm số 2/89. Bài viết đã
cung cấp cho những ngƣời có cùng mối quan tâm đến Đại Việt sử kí Tồn thư một
thơng tin hết sức quý giá: ĐVSKTT bản – bản Nội các quan bản có xuất hiện chữ
húy, đó là trƣờng hợp chữ Trừ 除. Điều này làm thay đổi quan niệm của các nhà
nghiên cứu trƣớc nay cho rằng Đại Việt sử kí Tồn thư, khơng có chữ kiêng húy.
Năm 2009 tác giả Nguyễn Hữu Sơn có bài Mối quan hệ Văn - Sử nhìn từ tương
quan Nam ơng mộng lục và ĐVSKTT. [25] Tác giả bài viết cho rằng hai bộ sách này
đƣợc soạn hoàn toàn độc lập, nhƣng lại có nhiều chi tiết giống nhau, từ đó đƣa ra
nhận định hai bộ sách này có chung nguồn tƣ liệu gốc.
Năm 2010, Nguyễn Cơng Việt có bài Về bài Thiên đô chiếu trong ĐVSKTT, từ
việc so sánh các dị bản của Thiên đô chiếu, tác giả đƣa ra nhận định rằng bản Thiên
đơ chiếu trong ĐVSKTT là hồn bị nhất. [35]
Năm 2013, NCS công bố bài Chiếu thư thảo Giao Châu của Tống Thái Tông
trong ĐVSKTT đăng trên Tập san nghiên cứu Hán tịch ngoại vực xác định, bản

Chiếu thư thảo Giao Châu của Tống Thần Tông trong ĐVSKTT không phải là

20


nguyên bản. Bản này do Nho sinh Vƣơng Vũ Xứng 王禹偁 viết có nhan đề là Dụ
Giao Chỉ văn 諭交阯文, Dụ Giao Chỉ văn sau khi sang Việt Nam đƣợc ghi vào Việt
sử lược và ĐVSKTT. Còn chiếu bản chiếu thƣ gốc lại đƣợc nằm trong bộ Tống đại
chiếu lệnh tập 宋大詔令集. [82]
Năm 2014, Lƣơng Mậu Hoa công bố bài Xương công ngư” và “Hầu ngư”
trong ĐVSKTT. [8] Tác giả bài viết đã khảo cứu và thích nghĩa về hai lồi cá là
―Xƣơng cơng ngƣ‖ và ―Hầu ngƣ‖ vốn đƣợc ghi trong ĐVSKTT, và cho biết đây là
hai loài cá heo biển, vì cho rằng ―heo‖ là âm Hán Việt của chữ ―Hầu‖ trong tiếng
Khách gia miền Nam - Trung Quốc.
Năm 2014, Thạc sĩ Giả Cái Đơng đã hồn thành Luận án Nghiên cứu tục tự
trong bộ sách chữ Hán ĐVSKTT/越南漢籍《大越史記全書》俗字研究. [83] Luận
án đi sâu khảo cứu về nguồn gốc và việc phân loại tục tự, trong đó phân chia rõ ràng
loại chữ do Việt Nam sáng tạo và loại chữ đƣợc kế thừa từ Trung Quốc. Nghiên cứu
này có giá trị cao trong nghiên cứu về phƣơng diện văn tự của ĐVSKTT.
Năm 2016, các học giả Trung Quốc là Phùng Tiểu Lộc và Trƣơng Hoan đã cho
công bố bài Khảo luận các bài thơ của người Minh được chép trong sách ĐVSKTT/

《大越史記全書》載明人詩考論. [91] Nội dung bài viết nghiên cứu về quá trình
lƣu truyền và việc sử dụng các bài thơ của các tác giả đời nhà Minh đƣợc chép
trong bộ sử này, trong đó, có một số thơ của ngƣời Minh đã thất truyền ở Trung
Quốc. Tác giả còn khảo sát nguyên nhân của các bài thơ đƣợc chép vào ĐVSKTT có
phản ánh về quan hệ giữa nhà Lê và nhà Minh.
1.6. Về các sử gia
Năm 1959, Trần Huy Liệu có bài Kỷ niệm Lê Văn Hưu, sử gia đầu tiên của
Việt Nam, số 1, Tập san nghiên cứu Lịch sử. [15] Tác giả bài viết giới thiệu về cơng

trình của Lê Văn Hƣu và tinh thần của sử gia trong việc biên soạn bộ sử này. Đồng
thời, xác định rõ giá trị của ĐVSKTT cùng vai trò quan trọng của Lê Văn Hƣu, qua
đó gợi ý các hƣớng nghiên cứu tiếp theo cho các học giả đời sau.

21


Năm 1964, các tác giả Nguyễn Kha và Trần Huy Bá đăng bài Phát hiện những
tài liệu liên quan đến sử gia Lê Văn Hưu. [10] Bài viết giới thiệu về nhóm tƣ liệu
mới gồm; gia phả và văn bia đƣợc sƣu tầm tại thôn Phủ Lý, xã Thiệu Trung, huyện
Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa - nơi quê hƣơng của sử gia Lê Văn Hƣu. Trong đó,
nguồn văn bia đã cho biết rõ thông tin về năm sinh, năm mất của ông .
Trong cuốn Ngô Sĩ Liên và ĐVSKTT, do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn
hành năm 1998, có bài Ngơ Sĩ Liên với lịch sử qn sự dân tộc, cùng nhiều bài viết
đề cập đến sử gia Ngô Sĩ Liên nhƣ: giới thiệu về quê hƣơng, sự nghiệp, hành trạng,
thành tựu của ơng. Bên cạnh đó, tác giả Lê Đình Sỹ có bài nghiên cứu xoay quanh
các cuộc chiến tranh đƣợc ghi chép trong ĐVSKTT, đây là nguồn tƣ liệu quý khi
nghiên cứu về lịch sử quân sự Việt Nam [2, tr.147-155].
Bài Về hoàn cảnh ra đời ĐVSKTT của Trƣơng Hữu Quýnh thì đề cập tới nền
kinh tế, xã hội chính trị của thời Lý, Trần và Lê sơ. Ngô Sĩ Liên là ngƣời đƣợc kế
thừa các tác phẩm sử học đời trƣớc, bên cạnh đó lại có ý thức mang trọng trách là
ngƣời biên soạn quốc sử nên đã toàn tâm hoàn thành bộ ĐVSKTT. [2, tr.159-166]
Hồng Văn Lâu có bài Nhà sử học Ngơ Sĩ Liên với lối viết Toàn thư đã đề cập đến
vai trị của Ngơ Sĩ Liên trong q trình biên soạn bộ ĐVSKTT, Ngô Sĩ Liên xác định
đƣợc thể lệ sử học tạo thành các kỉ, gồm Bản kỷ và Ngoại kỷ, từ đó vận dụng thành
thục bút pháp sử học. Tác giả cũng cho rằng, Ngô Sĩ Liên chƣa ghi chép về điển
chƣơng chế độ, hoặc những sinh hoạt văn hóa của triều đình và dân gian. [2,
tr.196-211]

Bài Một vài cảm nhận khi đọc hai tấm bia về Ngô Sĩ Liên, Hồng Văn Khốn

lại đề cập đến hai tấm bia có liên quan tới sử gia Ngơ Sĩ Liên, đƣợc soạn vào năm
1862, nên nói sơ qua về nội dung liên quan đến ngô sĩ Liên. [2, tr. 251-257]
Tác giả Vũ Văn Quân công bố bài Ngô Sĩ Liên trong lịch sử khoa bảng Hà Tây,
[2, tr. 259-268] bài viết đề cập tới vị trí của Ngơ Sĩ Liên đối với các nhà khoa bảng
tỉnh này. Ngồi ra cịn có bài Vài nét về quê hương nhà sử học Ngô Sĩ Liên của
Nguyễn Hữu Thức và Chương Mỹ với Ngô Sĩ Liên của Bùi Anh Tỉnh cũng nghiên

22


cứu về vai trị, vị trí của danh nhân văn hóa Ngơ Sĩ Liên đối với q hƣơng mình [2,
tr.281-285].
Năm 1994, tác giả Đặng Đức Thi cho công bố tác phẩm Lê Văn Hưu –Nhà sử
học đầu tiên của nước ta, do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Cơng
trình đi sâu nghiên cứu về hành trạng của Lê Văn Hƣu và bộ Đại Việt sử ký, chủ yếu
thơng qua phân tích lời bình luận của Lê Văn Hƣu trong Đại Việt sử ký, để nghiên
cứu về quan điểm của ơng, từ đó cho thấy vị trí, vai trò của sử gia Lê Văn Hƣu đối
với vấn đề quốc sử ở Việt Nam. [32]
Năm 2000, Đặng Đức Thi trong tác phẩm Lịch sử sử học Việt Nam, từ thế kỷ XI
đến thế kỷ XIX, đã giới thiệu và khảo sát quá trình phát triển sử học Việt Nam qua các
bộ sách sử cổ, đồng thời còn khảo sát tƣ tƣởng Nho giáo và quan điểm Chính thống
của Lê Văn Hƣu, Ngô Sĩ Liên, Lê Tung, Phạm Công Trứ.v.v. Tác giả có đóng góp
trong việc nghiên cứu lịch sử, nhƣng chƣa khảo sát sâu sắc văn bản lƣu truyền về
ĐVSKTT và các bộ sách sử khác. Tƣ tƣởng sử học ở cổ đại Việt Nam rất phong phú,
NCS trên cơ sở đó sẽ tiếp nghiên cứu sâu sắc. [33, tr.165-220]
Năm 2000, Viện Sử học tổ chức Hội thảo về Danh nhân Nguyễn Qúy Đức - Nhà
chính trị văn hóa lớn thế kỷ XVII –XVIII. Hội thảo đã tập trung nghiên cứu hành trạng
và sự nghiệp của sử gia. Trong đó, đáng chú ý hơn cả là tác giả Tạ Ngọc Liễn với bài
Nguyễn Qúy Đức-Nhà sử học. Bài viết đã tìm hiểu một cách cụ thể quá trình tham gia
viết sử của Nguyễn Quý Đức với Việt sử thông khảo và Đại Việt sử ký Tục biên. Bên

cạnh đó, cịn nhận định rằng quan điểm lịch sử của Nguyễn Qúy Đức là tƣ tƣởng của
nhà Nho, đó là ý thức dân tộc cao, cùng tinh thần biên soạn sử rất thận trọng và cẩn mật. [14]
1.7. Về các văn bản chỉnh lý đã công bố
Trong gần 100 năm nghiên cứu của giới học thuật trong và ngoài nƣớc, văn
bản của ĐVSKTT đã đƣợc nhiều lần chỉnh lí, khiến cho giới học giả đƣợc tiếp cận
một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên, đã có nhiều thành quả nghiên cứu về tƣ tƣởng viết
sử của bộ ĐVSKTT, nhƣng chủ yếu là tƣ tƣởng của từng cá nhân sử gia, mà chƣa có
bất cứ một nghiên cứu nào mang tính hệ thống về tƣ tƣởng của tập thể các sử gia.

23


Năm 1883, học ngƣời Nhật Bản là Toshiaki Hikita 引田利章 căn cứ vào bản
khắc in đƣợc sƣu tầm tại Việt Nam, đã cho khắc lại bộ ĐVSKTT rồi đem xuất bản ở
Nhật Bản. Sau đó, sách này lƣu truyền sang nhiều nƣớc khác, và có tầm ảnh hƣởng
khá lớn, bằng chứng là từ đó có nhiều học giả quốc tế biết đến và bắt đầu nghiên
cứu về truyền bản này.
Năm 1967, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội đã cho ấn hành bản dịch bộ ĐVSKTT
gồm 4 tập, do nhà Hán học Cao Huy Giu dịch và giáo sƣ Đào Duy Anh hiệu đính.
Năm 1971, bộ sử này lại đƣợc tái bản lần thứ hai, có sửa chữa và bổ sung.
Trần Kinh Hồ chủ trì chỉnh lý bộ ĐVSKTT, tác giả cho biết đã trải qua một
thời gian dài (từ 1984-1986) để hiệu chỉnh, rồi đem xuất bản ở Nhật Bản cơng trình
nghiên cứu của mình với nhan đề Hiệu hợp bản ĐVSKTT. Sau bản Chính Hịa, tác
giả lại cho xuất bản thêm 5 quyển Tục biên (tức đến năm 1789 là thời kì nhà Lê
trung hƣng mất). Trần Kinh Hòa còn viết bài Văn bản và biên soạn của ĐVSKTT/「
大越史記全書の撰修と伝本」bằng tiếng Nhật, trong đó đề cập đến giá trị, văn bản,
cũng nhƣ tƣ tƣởng của những văn bản chỉnh lý. Bài viết này đƣợc các học giả quốc
tế đánh giá cao, bởi kết quả nghiên cứu đó đã giúp ích rất nhiều cho giới học thuật.
Năm 1983, Phan Huy Lê đã có cơng mang bộ ĐVSKTT từ Paris về Việt Nam,
Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam sau đó đã tổ chức biên dịch và xuất bản tập I

vào năm 1983, tập II vào năm 1985, năm 1992 cho in lại tập I và II, tiếp đó lại cho
xuất bản tập III và tập IV (trong đó, tập IV là bản nguyên văn chữ Hán).
Năm 2015, Nhà xuất bản Nhân dân ở Trung Quốc cho công bố bản chỉnh lý
mới của bộ ĐVSKTT. Tuy nhiên, bản này chƣa thể vƣợt qua bản Hiệu hợp bản
ĐVSKTT của Trần Kinh Hoà.
1.8. Nhận xét đánh giá và định hƣớng nghiên cứu
ĐVSKTT là bộ quốc sử vô cùng quan trọng thời Lê, kế thừa bộ ĐVSK từ thời
Trần do nhóm Lê Văn Hƣu soạn và chính thức biên soạn thành ĐVSKTT vào thời Lê
sơ do nhóm Ngơ Sĩ Liên soạn, tiếp tục bổ sung và hoàn thiện và in ấn dƣới niên
hiệu Chính Hịa (1680-1705) vua Lê Hy Tơng. Trải qua q trình sử dụng và chỉnh

24


lý, biên soạn bổ sung và hoàn thiện, in ấn, lƣu truyền khá dài, nên để lại khơng ít
vấn đề về niên đại học và văn bản học, cũng nhƣ phƣơng pháp, nội dung tƣ tƣởng
của soạn giả qua các giai đoạn. Chính vì vậy, bộ sử này đƣợc nhiều nhà nghiên cứu
ở Việt Nam và nƣớc ngoài hết sức chú trọng và thực tế có rất nhiều nghiên cứu đã
công bố nhƣ giới thiệu ở trên.
Những nghiên cứu về nội dung, giá trị tƣ liệu bộ sử này thì khá nhất quán,
đều khẳng định ý nghĩa cao của bộ sử này trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam, cũng
nhƣ quan điểm viết sử của sử gia trƣớc đây.
Vấn đề niên đại bản in Nội Các quan bản cũng còn một số ý kiến chƣa hồn
tồn thống nhất.
Vì vậy, định hƣớng nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ hơn vấn đề văn
bản và truyền bản của bộ ĐVSKTT. Vấn đề nghiên cứu văn bản không chỉ thuần
túy dựa vào một vài chi tiết của bộ sách, mà đi sâu phân tích từng từng trang sách,
từng vấn đề đƣợc đề cập đến. Đồng thời cũng cần phân biệt bản khắc in với bản
giấy đƣợc in ra. Bởi bản khắc có thể có niên đại sớm, cịn sách đƣợc in ra thì có thể
muộn hơn về sau, nên khơng tránh khỏi sự thêm bớt khi in ấn.

Về văn bản, luận án chọn văn bản ĐVSKTT bản in Chính Hịa tại Pháp làm bản
nền để khảo sát. Ƣu điểm nổi bật của bản này là bản in rõ ràng, đầy đủ. Đồng thời
luận án đi sâu phân tích phƣơng pháp viết sử của các sử gia trong bộ ĐVSKTT qua
tƣ tƣởng biên soạn của họ. Trên cơ sở đó rút ra những nghiên cứu về tƣ tƣởng, tinh
thần dân tộc thể hiện trong bộ quốc sử này.

25


×