Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Đánh giá đặc điểm sinh trưởng, sinh khối, nốt sần của các dòng keo Lưỡi Liềm ( Acacia crassicarpa ) ở BQLRPH Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.46 KB, 43 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
KHOA LÂM NGHIỆP
  
KHOÁ LUẬN
TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
Đánh giá đặc điểm sinh trưởng, sinh khối, nốt sần của các dòng
keo Lưỡi Liềm ( Acacia crassicarpa ) ở BQLRPH Hương Thủy
tỉnh Thừa Thiên Huế
Sinh viên thực hiện: Trần Bảo Thành
Lớp: Quản lý tài nguyên rừng và môi trường K42
Thời gian thực hiện: Tháng 1 đến tháng 6 năm 2012
Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS Đặng Thái Dương
Bộ môn : Lâm Sinh
Huế, 5/2012
Lời cảm ơn
Được sự phân công của Khoa Lâm nghiệp Trường Đại Học Nông
Lâm Huế, được sự đồng ý của Thầy giáo hướng dẫn TS. Đặng Thái
Dương và giám đốc điều hành công ty lâm nghiệp Phong Điền tôi đã
thực hiện đề tài “Đánh giá đặc điểm sinh trưởng, sinh khối, nốt sần của
của các dòng keo Lưỡi Liềm ( Acacia crassicarpa ) ở tỉnh Thừa Thiên
Huế”
Để hoàn thành khoá luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy
cô giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và rèn luyện ở Trường Đại học Nông lâm Huế.
Xin chân thành cảm ơn Thầy giáo hướng dẫn TS. Đặng Thái Dương đã
tận tình , chu đáo hướng dẫn tôi thực hiện khoá luận này.
Cảm ơn Ban lãnh đạo, cán bộ, công nhân viên Công ty lâm nghiệp
Phong Điền đã giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho tôi ở cơ sở thực tập.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất. Song do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu khao học,


tiếp cận với thực tế sản xuất cũng như hạn chế về kiến thức và kinh
nghiệm nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân
chưa thấy được. Tôi rất mong được sự góp ý của quý Thầy, Cô giáo và
các bạn đồng nghiệp để khoá luận được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Huế, ngày 15 tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Trần Bảo Thành
PHẦN I:
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo đánh giá của các nhà khoa học, nước ta là một trong những quốc
gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, nếu nhiệt độ trái đất tăng
thêm 2 độ C thì 22 triệu người Việt Nam sẽ mất nhà cửa, 45% diện tích đất
nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngập chìm trong nước. Vậy
nhưng “bức tường ngăn bão tố” là hệ thống rừng phòng hộ, trong đó có rừng
phòng hộ ven biển, lại đang bị tàn phá từng ngày.
Vì vậy, việc bảo vệ “bức tường xanh” đang được đặt ra cấp thiết hơn
bao giờ hết.
Nếu như từ năm 1943 - 1993, do nhiều nguyên nhân, diện tích rừng
giảm từ 43% xuống còn 20% thì những năm gần đây, được sự quan tâm của
Đảng, Nhà nước và ý thức người dân được nâng cao, nhiều diện tích rừng đã
được phục hồi và nhân rộng. Trong thập kỷ qua, rừng Việt Nam đã khôi
phục nhanh chóng, độ che phủ tăng từ 33,2% (năm 1999) lên 37% (năm
2005) và 38,7% (năm 2008).
Trong đất rừng phòng hộ toàn quốc, diện tích đất có rừng chiếm
60,4%; diện tích đất không có rừng 29,6%; trong đất có rừng thì rừng tự
nhiên chiếm 86,6%. Rừng phòng hộ đầu nguồn tập trung chủ yếu ở các vùng
Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ. Rừng phòng hộ
chắn sóng, chống xói lở đê biển tập trung ở hai vùng Đồng bằng sông Hồng
và Đồng bằng sông Cửu Long. Rừng phòng hộ chống cát di động tập trung ở

vùng ven biển Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ.
Do đó, việc nghiên cứu, đánh giá, tìm hiểu về loài cây có vai trò
phòng hộ chắn cát, chắn gió, cải tạo đất và mang lại giá trị kinh tế là vấn đề
quang trọng và cấp thiết.
Sau hơn 10 năm nghiên cứu, xây dựng thành công nhiều mô hình
thử nghiệm trên nhiều vùng sinh thái khác nhau của nước ta, đặc biệt là
các đồi cát nội đồng và đồi cát di động ở tỉnh Thừa Thiên Huế, các nhà
khoa học Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam phối hợp với Trung tâm
giống cây lâm nghiệp thuộc Sở NN-PTNT tỉnh Bình Thuận và Chi cục
lâm nghiệp Thừa Thiên-Huế đưa ra khuyến cáo bà con và các địa
phương vùng duyên hải miền Trung nước ta bổ sung vào cơ cấu trồng
rừng phòng hộ ven biển giống keo lưỡi liềm được chọn tạo thành công từ
nguồn giống nhập nội của Australia.
Vì vậy để góp phần hoàn thiện những đặc điểm sinh trưởng của
loài keo lá liềm chúng tôi đã thực hiện đề tài “Đánh giá đặc điểm sinh
trưởng, sinh khối, nốt sần của các dòng keo Lưỡi Liềm ( Acacia
crassicarpa ) ở huyện Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên Huế”
PHẦN II
TỔNG QUAN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Nghiên cứu trên thế giới.
2.1.1Một số nghiên cứu trên thế giới
Một số nghiên cứu ở Thái Lan cho thấy với rừng trồng Acacia
crassicarpa xuất xứ Papua New Guinea sau 3 năm đạt 207 tấn sing khối
khô/ha( Visaranata 1989). Ở vùng khô hơn là Ratchaburi – Thái Lan nó
có năng suất ngang bằng Keo lá tràm 40 tấn sinh khối/ha (3 tuổi).
Ở Sarah – Malaysia nó được trồng trên đất đá có tầng mặt mỏng và đất
cát cho kết quả H = 15 – 23m, D
1,3
= 10 – 16cm sau 4 năm tuổi, tốt hơn
cả A. auriculiformis và A. mangium ( Sim và Gan 1991 )

Nhiều nghiên cứu của các nước trong khu vực cho thấy A.
crassicarpa sinh trưởng ngang bằng hoặc hơn cả A. auriculiformis và A.
mangium ( Các nghiên cứu ở Thái Lan, Myanma, Trung quốc, Lào )
của một số tác giả.
2.1.1 Nguồn gốc và đặc điểm của Keo lưỡi liềm.
Keo lưỡi liềm (còn gọi là keo lá liềm vì lá có hình lưỡi liềm) có tên
khoa học là Acacia crassicarpa hay Racosperma crassicarpum, thuộc họ
Trinh nữ (Mimosaceae). Cây thân gỗ có thể biến dạng từ thân bụi đến thân
gỗ lớn tùy môi trường sống.
Những đặc điểm chủ yếu:
Cây ưa sáng, thân thẳng, đâm nhiều cành nhánh, vỏ màu sẫm hay nâu
xám, nhiều vết nứt sâu. Rễ phát triển mạnh, có nhiều vi khuẩn cố định đạm
cộng sinh nên vừa có tác dụng bảo vệ và cải tạo đất rất tốt, đặc biệt là các
vùng cát trắng ven biển.
- Khí hậu: Độ cao thích hợp dưới 200m, cũng có thể trồng tới độ cao 700m
so với mặt biển. Lượng mưa bình quân hàng năm từ 1.000- 3.500mm, mưa
theo mùa hoặc mưa tập trung vào mùa hè, chịu được khô hạn, gió Lào…
Chịu nhiệt độ bình quân các tháng nóng nhất là 31-34
0
C, nhiệt độ bình quân
các tháng lạnh nhất 15-22
0
C, không có sương giá.
- Đất: Có thể sinh trưởng trên nhiều loại đất khác nhau kể cả đất cát sâu và
đất sét khó thoát nước. Có thể chịu được độ mặn, đất cằn cỗi và khả năng
chịu lửa tốt. Nhưng điều kiện sinh trưởng, phát triển tốt nhất là trên các loại
đất feralit, pH từ 3 – 7, độ cao thích hợp dưới 200m, cũng có thể trồng tới độ
cao 700m so với mặt biển.
- Đặc tính lâm sinh: . Lá già nhẵn bóng mọc thành lá kép, màu xanh lục, lá
đơn hình lưỡi liềm dài 11-12cm, rộng 1-4cm, thường xanh. Hoa màu vàng

nhạt gần giống hoa keo lá tràm. Quả dạng quả đậu, mọc xoắn, hạt nhẵn màu
đen, khoảng 35.000-40.000 hạt/kg.
- Công dụng: Gỗ keo lưỡi liềm khá nặng, gỗ lớn dùng đóng đồ mộc, gỗ xây
dựng, làm ván ghép thanh; gỗ nhỏ dùng làm nguyên liệu giấy, dăm, ván ép,
cọc trụ mỏ… Do tán lá rộng thường xanh, mọc chồi khỏe, có khả năng cạnh
tranh với cỏ dại nên dùng để trồng trên đồi trọc làm cây che bóng cho các
cây ăn quả, cây công nghiệp rất tốt. Trên các vùng đất dốc có thể trồng thành
hàng rào hay băng xanh để chống xói mòn, làm băng cản lửa, chắn gió để
bảo vệ đất rất hữu hiệu. Với các vùng đất cát ven biển, đặc biệt là các đồi
cát nội đồng hoặc đồi cát di động, bán di động… là cây trồng lý tưởng để
hình thành rừng phòng hộ bảo vệ đất, điều hóa khí hậu, chống cát bay, cát
nhảy, cải tạo môi trường sinh thái, tạo điều kiện thuận lợi cho canh tác nông
nghiệp và đời sống dân sinh.
2.2 Nghiên cứu trong nước
2.2.1 Một số nghiên cứu ở Việt Nam về cây
Hoạt động nghiên cứu và sản xuất lâm nghiệp của Việt nam đã có
từ lâu đời, đặc biệt trên các vùng đất cát ở các tỉnh miền trung vào thời
Pháp thuộc người dân đã trồng những dải rừng Phi lao chắn cát ven biển
như vùng Quảng Bình, Nghệ An, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế…lúc này
nghề trồng rừng Phi lao đã chiếm 50-60% thu nhập hàng năm của người
dân đặc biệt là ở Bình Dương – Quảng Nam, ngoài ra cây này còn mang
lại lợi ích chắn gió chắn cát, cải tạo đất, bảo vệ sinh thái nên cây Phi Lao
được coi là cây “độc nhất vô nhị” trên vùng đất cát miền Trung.Tuy
nhiên, nhằm nâng cao tính đa dạng sinh học cho các vùng sinh thái và
tăng giá trị sản xuất cho người dân các nhà nghiên cứu lâm sinh đã tìm
ra một loài cây nhập nội mới là cây keo Lưỡi liềm rất có khả năng thích
hợp với một số vùng trồng ở Việt Nam nên đã tiến hành một số nghiên
cứu nhằm phát triển tiềm năng lâm nghiệp.
Điều tra tập đoàn cây trồng trên cát và xây dựng mô hình trồng
rừng Keo Lưỡi Liềm ( Acacia crassicarpa ) trên cát nội đồng vùng Bắc

Trung Bộ do Nguyễn Thị Liệu ở Trung tâm khoa học Bắc Trung Bộ thực
hiện năm 2000. Đây là nghiên cứu được thực hiện ở 3 tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên Huế dựa trên phương pháp bố trí thí nghiệm
trồng rừng thực tế và tìm hiểu ảnh hưởng của biện pháp làm đất, mật độ
trồng và chế độ bón phân đến sinh trưởng của loài cây Keo Lưỡi liềm và
cây Keo Lá tràm (cây đối chứng ). Kết quả của nghiên cứu đã chọn ra
được các loài cây trồng chính ở vùng cát của các tỉnh Bắc Trung Bộ chủ
yếu là : Keo lá tràm ( Acacia auriculiformis ), keo lưỡi liềm ( A.
crassicarpa ), Phi lao ( Casuarina equisetifolia ). Trông đó nghiên cứu
rút ra tổng kết là trong tất cả các loài cây thì khả năng sinh trưởng của
keo lưỡi liềm tốt nhất, thích nghi rộng và tỉ lệ sống cao nhất trên điều
kiện đất cát nội đồng, cây thường đơn thân, xanh tốt.
Nghiên cứu đánh giá khả năng sinh trưởng của các loài Bạch đàn
Eucalyptus camaldulensis, Eucaluytus pellita và các loài keo : Acacia
crassicarpa, Acacia aulacocarpa trồng thử nghiệm 3 năm tại trạm thực
nghiệm MangYang tỉnh Gia Lai do Nguyễn Danh của sở Tài nguyên và
môi trường tỉnh gia lai thực hiện. Kết quả của nghiên cứu đã cho thấy
loài cây bạch đàn Eucalyptus camaldulensis và keo Acacia crassicarpa
sinh trưởng rất tốt trên điều kiện tự nhiên tỉnh Gia Lai.
Nghiên cứu kỹ thuật trồng rừng vùng cát ven biển Miền trung của
PGS.TS Đặng Thái Dương trường Đại học nông lâm huế năm 2011.
Nghiên cứu đã đánh giá tình hình chung của điều kiện tự nhiên và sinh
thái toàn bộ các tỉnh ở miền trung, đưa ra một số mô hình trồng nông
lâm kết hợp trên vùng đất cát trong đó có các loài keo. Đề tài này đã
cung cấp đặc điểm thích nghi của một số loài cây và trình bày kỹ thuật
trồng cây trên đất cát rất bổ ích.
“Theo dõi tình hình sinh trưởng của một số loài cây phân xanh Họ
Đậu trồng xen kẻ với cây Lâm Nghiệp trên vùng gò đồi ở trại Hương
Vân huyện Hương Trà tỉnh TT Huế.” Là một tạp chí khoa học cung cấp
những thông tin về tác dụng và vai trò của nốt sần cây Họ Đậu.

2.2.2 Sinh trưởng, sinh khối, nối sần và tính dụng phòng hộ, môi
trường sinh thái của cây keo lưỡi liềm.
2.2.2.1 Sinh trưởng.
Việc tạo mới các yếu tố cấu trúc không thuận nghịch của tế
bào, mô và toàn bộ cây, kết quả dẫn đến sự tăng về kích thước, thể tích,
trọng lượng của chúng, vd. sự phân chia và giãn của tế bào, tăng kích
thước quả, lá, hoa, nảy lộc, đâm chồi STTV chia ra hai giai đoạn: sinh
trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực. Trong giai đoạn thứ nhất là
quá trình sinh trưởng của cơ quan dinh dưỡng (rễ, thân, lá); ở giai đoạn
thứ hai chuyển sang hình thành cơ quan sinh sản và dự trữ như hoa, quả,
hạt, vv. Trong quá trình sinh trưởng của cây, các chất sinh trưởng
(hocmon thực vật) có ý nghĩa rất quan trọng: các chất auxin kích thích
dãn của tế bào và đặc biệt là quá trình sinh trưởng của hệ thống rễ; các
xitolinin kích thích phân chia tế bào, hình thành và sinh trưởng chồi;
gibberellin kích thích giãn mạch tế bào và vươn cao của thân. Người ta
đã hiểu được quá trình STTV và điều chỉnh nó theo ý muốn như kĩ thuật
tạo tán cây, tạo hình; trong nghề trồng dâu nuôi tằm, trồng chè, táo, dùng
kĩ thuật đốn cây tạo ra cành mới có sức sống cao hơn
2.2.2.2 sơ lược sinh khối của cây
Sinh khối của là tổng khối lượng của cây, bao gồm khối lượng của
thân, lá, cành, rễ và các bộ phận khác của cây. Bao gồm sinh khối tươi
và sinh khối khô.
Sinh khối tươi là khối lượng của cây, bao gồm khối lượng của
thân, lá, cành, rễ và các bộ phận khác của cây khi còn tươi.
Sinh khối khô là khối lượng của cây, bao gồm khối lượng của
thân, lá, cành, rễ và các bộ phận khác của cây khi đc sấy khô hoàn toàn.
2.2.2.3 sơ lược nốt sần
Một đặc trưng nổi bật của các loài cây thuộc họ Đậu là chúng là
các loại cây chủ cho nhiều loài vi khuẩn tại các nốt sần trên rễ của
chúng. Các loại vi khuẩn này được biết đến như là vi khuẩn nốt

rễ (rhizobium), có khả năng lấy khí nitơ (N
2
) trong không khí và chuyển
hóa nó thành các dạng chất mà cây có thể hấp thụ được (NO
3

-

hay NH
3

).
Hoạt động này được gọi là cố định đạm. Cây đậu, trong vai trò của cây
chủ, còn vi khuẩn nốt rễ, trong vai trò của nhà cung cấp nitrat có ích, tạo
ra một quan hệ cộng sinh.
- Đặc tính của vi khuẩn nốt sần
Đặc tính sinh học và tính chuyên hóa của vi khuẩn nốt sần.
Vi khuẩn nốt sần Rhizobium là loại trực khuẩn hình que, hảo khí, gram âm,
không sinh nha bào, có tiên mao nmọc theo kiểu đơn mao hoặc chu mao, có
khả năng di động được. Khuẩn lạc có màu đục, nhày, lồi, có kích thước 2 – 6
mm. Tế bào Rhizobium có kích thước 0,5 - 0,9 x 1,2 – 3,2 . Chúng thích ứng
ở pH = 6,5 – 7,5, độ ẩm 60 – 70%, nhiệt độ 28 – 30
- sự hình thành nốt sần ở rể cây họ Đậu
Sự hình thành nốt sần
Chỉ tiêu đánh giá nốt sần trong quá trình cộng sinh là tính chất về hình thái,
sinh lý, sinh hóa của nốt sần tạo nên ở rễ cây, thể hiện trong từng giai đoạn,
từng mức độ cố định nitơ của hệ cộng sinh.
+ Giai đoạn đầu là giai đoạn xâm nhiễm của VKNS vào rễ cây họ đậu:
Vi khuẩn nốt sần thường xâm nhập vào rễ cây họ đậu thông qua các lông hút
và đôi khi thông qua vết thương ở vỏ rễ. Mỗi loại cây họ đậu thường tiết ra

xung quanh rễ những chất có tác dụng kích thích những chủng vi khuẩn nốt
sần chuyên tính và ức chế những chủng không chuyên tính để thực hiện quá
trình xâm nhiễm như các hợp chất gluxit, các axit amin, các axit hữu cơ (axit
malic, axit asparaginic, ).
Nhiều tác giả cho rằng, VKNS có tính chuyên tính rất cao đối với cây họ đậu
cùng chi. Một số lại cho rằng chúng có tính chuyên tính thấp đối với cây họ
đậu cùng chi.
Theo quan điểm thứ nhất người ta làm thí nghiệm thấy chủng ĐX1 (VKNS
cây đậu xanh) nhiễm cho cây lạc không tạo được nốt sần ở lạc, còn theo
quan điểm thứ hai thì chủng G3 (VKNS đậu tương) nhiễm cho cây lạc tạo
được nốt sần.
Dưới ảnh hưởng của vi khuẩn nốt sần, cây hô đậu tiết ra enzym
polygalacturonaza làm phá vỡ thành lông hút và giúp cho vi khuẩn nốt sần
xâm nhập vào rễ. Ở trong lông hút, vi khuẩn nốt sần sẽ tạo thành “dây xâm
nhập”, đó là một khối chất nhày dạng sợi, bên trong chứa đầy vi khuẩn dạng
hình que, “dây xâm nhập” đi dần vào bên trong với tốc độ khoảng 5 – 8 /s.
Sự vận động của “dây xâm nhập” được thực hiện dưới áp lực sinh ra do sự
phát triển của VKNS bên trong dây. Đến lớp nhu mô, VKNS kích thích các
tế bào rễ cây phát triển và phân chia, vi khuẩn thoát ra khỏi “dây xâm nhập”
và đi vào tế bào chất. Ở đó chúng sinh sản rất nhanh và tạo dạng giả khuẩn.
2.2.3 Tác dụng phòng hộ và môi trường sinh thái
Một số nghiên cứu của Viện KHLN Việt Nam cho một số loài cây
trồng trên cát vùng Bắc Trung Bộ gồm có: Phi lao, Keo lá tràm, Keo tai
tượng, Keo lưỡi liềm, các loài Keo chịu hạn, các loài Bạch đàn, muồng
đen kết quả cho thấy Phi lao có khả năng thích ứng rộng nhưng cũng chỉ
trên đất cát vàng và cát di động. Theo TS Nguyễn Hoàng Nghĩa và GS.TS
Lê Đình Khả thì A. crassiarpa vừa có khả năng sinh trưởng nhanh, lại vừa có
thể thích ứng được với vùng cát nội đồng úng ngập và khô hạn nên rất có
triển vọng đối với các tỉnh miền Trung.
Theo một số khảo nghiệm của WFT trên cát nội đồng tại Đông Phong

- Thừa Thiên Huế cho một số loài cây lá rộng và lá kim thì sau 2 năm tuổi
cho thấy A. crassiarpa có tỷ lệ sống đạt > 90%, và cao tới 6,0m, trong khi đó
A. mangium chỉ sống 40% và cao 3,0m, còn các loài khác thì không thể
sống được (Lê Đình Khả).
Tuy nhiên những nghiên cứu cây trồng trên cát nội đồng chỉ với qui
mô nhỏ và chưa đi sâu vào các chỉ tiêu cụ thể và chưa đánh giá đầy đủ.
Cơ sở của vấn đề nghiên cứu.
Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam Á nơi được xem là giàu có
bậc nhất thế giới về tài nguyên di truyền thực vật. Cùng với nền văn
minh nông lâm nghiệp lâu đời nên Việt Nam có di sản quý giá là tài
nguyên cây trồng phong phú, đa dạng. Cho đến nay, hệ thống bảo tồn tài
nguyên di truyền thực vật phục vụ cho mục tiêu nông nghiệp, trồng rừng
của nước ta đang bảo tồn 20.000 giống của 200 loài cây trồng trong đó
có nhiều loài cây trồng quan trọng như lúa, chuối, khoai sọ, nhiều loài
thuộc chi cam - quýt, nhiều loài thuộc chi vải - nhãn, nhiều loài cây họ
đậu và nhiều tập đoàn các cây trồng lâm nghiệp khác của Việt Nam.
Với một số lượng tập đoàn cây trồng phong phú như vậy, cho đến nay
vẫn chưa có công trình nào trong nước nghiên cứu đánh giá, tư liệu hoá
ở mức độ phân tử về đa dạng di truyền các tập đoàn cây trồng ở Việt
Nam một cách sâu rộng, bài bản có hệ thống.
Khu vực miền Trung gồm 14 tỉnh nằm dọc theo bờ biển từ Thanh
Hóa đến Bình Thuận, có diện tích đất cát ven biển lớn 415.000 ha chiếm
78 % tổng diện tích đất cát ven biển của cả nước (Đặng Văn Thuyết,
2000). Các tỉnh có diện tích đất cát ven biển lớn như: Tỉnh Quảng Bình
có 34.000 ha (Nguyễn Xuân Chàm, 1996), Quảng Trị có 30.133 ha (Viện
Điều tra và Quy hoạch rừng - 2001), Thừa Thiên Huế có 28.498,8 ha
(Viện Điều tra và Quy hoạch rừng - 2001), Tỉnh Ninh Thuận và Tỉnh
Bình Thuận có 170.000 ha (Lâm Công Định, 1990). Theo số liệu từ các
trung tâm điều tra quy hoạch của các tỉnh, hiện nay diện tích đất cát
hoang hóa chưa sử dụng của các tỉnh khá lớn chiếm bình quân từ 22-

35% tổng diện tích đất cát ven biển của tỉnh. Như tỉnh Hà Tĩnh tổng diện
tích đất cát còn hoang hóa là 8500ha/28.000ha chiếm 30,35%; Quảng Trị
10.020ha /30.133ha chiếm 33,25%; Tỉnh Thừa Thiên Huế là 6515,97ha,
đất hoang hóa chiếm tỷ lệ 6515,97/28.498ha chiếm 22,86%; Tỉnh Quảng
Bình tỷ lệ 8200ha/ 34000ha chiếm 24,1% Đặc biệt 2 huyện Tuy Phong
và Bắc Bình (Bình Thuận) có diện tích đất cát hoang hoá lớn khảong
35000 ha. Những vùng đất hoang hóa này rất khô căn và nắng nóng vì
vậy bức bách và cần thiết phải chọn ra giống cây chịu hạn, nóng để phủ
xanh vùng đất phòng hộ xung yếu này.
Trong những năm gần đây do biến đổi khí hậu nên khu vực miền
trung thường xuyên phải hứng chịu những trận bão lớn và những trận lũ
lụt kinh hoàng, bờ biển bị lấn chiếm dần như bờ biển Hòa Duân của
Thừa Thiên Huế, đảo Lý Sơn Quảng ngãi. Sóng lớn hàng năm tấn công
vào bờ, cộng với nạn khai thác cát bừa bãi nên đảo Lý Sơn bị xâm thực
nghiêm trọng, diện tích đất ở huyện đảo đang mất dần. Nếu năm 1975
diện tích đất của đảo là 1.400ha thì đến năm 2010 chỉ còn lại 997ha.
Nước biển xâm thực ảnh hưởng nghiêm trọng cuộc sống và việc sản xuất
của người dân vùng cát.
Quá trình di động của cát và hiểm họa sa mạc hóa vùng duyên hải
miền Trung đã thật sự trở thành mối hiểm nguy đe doạ đến môi trường
sinh thái và sự phát triển ổn định bền vững của kinh tế xã hội toàn vùng.
Nhiều vùng đất đai đã bị thoái hoá lâu ngày, đất cát di động mạnh hoặc
phục hồi sự di động vẫn chưa đưa vào sử dụng được. Đời sống người dân
trong vùng còn nghèo nàn, gặp nhiều khó khăn. Ví dụ hai huyện Tuy
Phong và Bắc Bình (Bình Thuận) có các đồi cát di động với diện tích
khảong 5000 ha hiện nay là nguy cơ thưòng xuyên tạo ra những cơn bão
cát, dữ dội, bay bốc, di chuyển cát từ dải ven biển trở vào; đe doạ chôn
vùi làng mạc, ruộng đồng, phủ lấp quốc lộ 1A trên một phạm vi rộng
hàng ngàn ha.
Đây là vùng sinh thái rất nhạy cảm và khắc nghiệt, chịu sự tác

động mạnh của các yếu tố tự nhiên, thường xuyên bị ảnh hưởng của các
loại hình thiên tai. Rừng bị tàn phá nghiêm trọng do con người và do
thiên nhiên, nạn chặt phá rừng, đào bới cát để khai thác titan, nguyên
liệu làm thủy tinh, vật liệu xây dựng và đào hồ nuôi tôm trên cát là mối
nguy hại nghiêm trọng ảnh hướng đến hệ sinh thái khu vực ven biển.
Đây là vùng đất có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế -
xã hội, an ninh, quốc phòng và phòng hộ môi trường bờ biển của đất n-
ước, chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, chú ý tới việc đầu
tư bảo tồn, phát triển môi trường-kinh tế - xã hội ở vùng này. Việc bảo
tồn và lựa chọn cây lâm nghiệp để phục vụ trồng rừng ven biển miền
Trung là một trong những mục tiêu quan trọng của Chính phủ.
Tuy vậy, hiện nay cơ cấu cây trồng trên vùng cát ven biển còn khá
đơn giản. Nhiều loài cây đang trong giai đoạn khảo nghiệm, sự thích ứng
và độ bền vững của những loài cây này trong điều kiện khí hậu khắc
nghiệt, đất khô nóng - nghèo chất dinh dưỡng, đặc biệt là khu vực cát
bay, tốc độ gió mạnh, nắng nóng cao, còn rất nhiều hạn chế. Cho đến nay
chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu chọn dòng cây lâm
nghiệp có khả năng chống chịu tốt và năng suất cao để phát triển rừng
ven biển miền Trung.
Vì vậy thực hiện đề tài này nhằm giải quyết được những vấn đề
bức thiết đã nêu trên. Nghiên cứu chọn tạo dòng keo lá liềm phục vụ
phát triển rừng vùng đất cát biển là hết sức cấp bách và cần thiết, có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn cao hiện nay.
Keo lá liềm (Acacia crassicarpa) thuộc họ trinh nữ (Minosaceae).
Qua điều tra tập đoàn cây trồng rừng chủ yếu trên đất cát nội đồng vùng
miền Trung đã xác định Keo lưỡi Liềm là loài cây trồng có triển vọng
nhất. Đây là loài cây có khả năng thích nghi trong điều kiện khắc nghiệt
của đất cát nội đồng, có khả năng sinh trưởng tốt trên cát nội đồng úng
ngập khi được lên líp, vừa thích hợp trong điều kiện cát bay cục bộ nhờ
bộ rễ đặc biệt phát triển. Ngoài ra, với bộ rễ có nhiều nốt sần và bộ tán lá

dày, rụng lá nhiều nên có ưu thế trong việc cải tạo đất, cải tạo môi
trường. Gỗ lớn dùng đóng đồ mộc, gỗ xây dựng, làm ván ghép thanh…
Gỗ nhỏ dùng làm nguyên liệu giấy, dăm, ván sợi ép, trụ mỏ.
Việc chọn lọc dòng có khả năng chịu nóng, chịu hạn và sinh
trưởng vượt trội hơn cây đại trà là lựa chọn chỉ tiêu đánh giá phù hợp khi
chọn lọc dòng cây trồng vùng đất cát ven biển. Để giải quyết việc tìm ra
nguồn giá thể tạo giống cây keo lá liềm, chúng tôi tiến hành thu thập
các loại vật liệu từ các địa phương trong khu vực. Từ đó ứng dụng các
phương pháp chọn tạo giống cổ truyền và hiện đại để tạo và chọn ra các
loại giống mới đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng và thị trường.
PHẦN III:
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu.
Tên phổ thông : keo lưỡi lềm, keo lưỡi mác.
Tên khoa học : Acacia crassicarpa
Họ : Minosaceae ( Họ Trinh Nữ )
Bộ : Legumimosales ( Bộ Đậu )
3.2 Phạm vi nghiên cứu.
Thời gian nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện từ ngày 10/1/2012 đến ngày 15/5/2012.
Không gian nghiên cứu:
Địa điểm thực hiện đề tài là tỉnh Thừa Thiên Huế.
Địa điểm tiến hành thí nghiệm:
+ BQLRPH Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên Huế.
+ Bộ môn Lâm Sinh khoa Lâm Nghiệp Trường ĐHNL Huế.
+ Vườn ươm khoa Lâm Nghiệp Trường ĐHNL Huế.
3.3 Mục tiêu nghiên cứu.
- Chon được một số dòng sinh trưởng nhanh của keo lưỡi liềm
( Acacia crassicarpa ) làm cơ sở đề xuất chọn dòng cây cho khu vực.

3.4 Nội dung nghiên cứu
3.4.1 Tìm hiểu điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của BQLRPH Hương
Thủy tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.4.2 Tìm hiểu kỹ thuật tạo cây con loài keo lá liềm từ hạt.
3.4.3 Nghiên cứu sinh trưởng, sinh khối của các dòng keo lưỡi liềm.
3.4.3.1 Nghiên cứu sinh trưởng D
0
và H
vn
của các dòng keo lá liềm ở giai
đoạn 7 tháng tuổi.
3.4.3.2 Nghiên cứu sinh khối toàn cây tươi và khô của các dòng keo lá liềm
ở giai đoạn 7 tháng tuổi.
3.4.3.3 Nghiên cứu sinh khối lá tươi và khô của các dòng keo lá liềm ở giai
đoạn7 tháng tuổi.
3.4.3.4 Nghiên cứu sinh khối rể tươi và khô của các dòng keo lá liềm ở giai
đoạn 7 tháng tuổi.
3.4.3.5 Nghiên cứu sinh khối thân ươi và khô của các dòng keo lá liềm ở
giai đoạn 7 tháng tuổi.
3.4.3.6 Nghiên cứu sinh khối nối sần tươi và khô của các dòng keo lá liềm ở
giai đoạn 7 tháng tuổi.
3.4.4 Lựa chọn dòng keo lá liềm ở giai đoạn 7 tháng tuổi.
3.5 Phương pháp nghiên cứu:
3.5.1 Phương pháp thu thập số liệu:
Sử dụng phương pháp cân, đo, đếm trực tiếp
- Đối tượng, dụng cụ:
+ Mẫu thực vật: thân, lá, rễ, nối sần của cây ở 18 dòng keo lưỡi liềm
+ Dụng cụ: Cân chính xác, kéo, thước dây, thước cứng, băng keo
giấy, máy sấy và một số dụng cụ khác.
- Cách tiến hành:

+Cây keo lưỡi liềm từ vườn ươm của BQLRPH Hương Thủy
được đem vào vườn ươm của Khoa Lâm Nghiệp Trường ĐHNL Huế.
Sau khi đem cây về tiến hành tưới nước cho cây có thể trở lại bình
thường sau khi vận chuyển từ Vườn ươm BQLRPH Hương Thủy về
Vườn ươm Khoa Lâm Nghiệp.
+ Chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ như kéo, thước dây, thước cứng, băng
keo giấy và một số dụng bị khác.
+ Tiến hành nghiên cứu lúc sáng sơm để có thể tránh đi sự mất nước ở
các mẫu thực vật.
+ Đối với lá: đếm số lá của cây, dùng cân chính xác và xác định khối
lượng của tươi lá, dùng 5cm băng keo quần quanh số lá và ghi mã số
của cây và dòng cây
+ Đối với thân: dùng thước thẳng để đo chiều dài và dùng thước dây
chu vi gốc, tiến hành dùng cân chính xác và xác định khối lượng của
thân tươi và dùng băng keo giấy quấn, ghi mã cây và mã dòng
+ Đối với rễ: dùng kéo tách rễ ra khỏi đất. dùng thước thẳng để đo
chiều dài, tiến hành dùng cân chính xác và xác định khối lượng của rễ
tươi và dùng băng keo giấy quấn, ghi mã cây và mã dòng
+ Nốt sần: lấy nốt nần của cây từ rễ và từ bầu đất, tiến hành dùng cân
chính xác và xác định khối lượng.
Sau khi tiến hành cân tươi cây ta tiến hành sấy khô:
+ Cho lá, thân, rễ, nốt sần vào mấy sấy, tiến hành sấy trong 24h từ
nhiệt độ tăng dần (55 độ C, 75 độ C, 105 độ C)
+ Sấy lần 1: cho tất cả các mẫu vào các khay sắt rồi cho vào máy sấy
Sau khi sấy lần 1, dùng cân chính xác để xác định khối lượng sau lần
sấy 1, ghi số liệu vào băng keo giấy bằng mực đỏ.
+ Sấy lần 2: Sau khi sấy lần 2, dùng cân chính xác để xác định khối
lượng sau lần sấy 2, nếu kết quả không đổi thì tiến hành nhập số liệu vào
máy tính, nếu kết quả thay đổi thì tiến thành sấy lần 3.
+ Tiếp tục sấy như vậy cho đến lúc các mẫu đều có khối lượng không

đổi thì ngừng sấy.
3.5.2 Phương pháp cho điểm.
+ Chỉ tiêu sinh trưởng về sinh khối rất quan trọng được cho 10 điểm.
+ Chỉ tiêu sinh trưởng D
0
và H
vn
cũng là một chỉ tiêu đánh giá sinh
trưởng nên được cho 7 điểm.
+ Chỉ tiêu sinh trưởng nốt sần quyết định khã năng cải tạo đất được
cho 5 điểm.
Nguyên lý chọn dòng cây.
+ Tiến hành tính tổng điểm cho những dòng được chọn.
+ Tiến hành chọn từ những cây có điểm từ cao đến thấp.
3.5.3 Phương pháp xử lý số liệu.
- Xử lý số liệu bằng các thuật toán của phần mền Microsoft Excel
+ Hàm Average, sort ascending, sort descending…
PHẦN IV
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Tìm hiểu điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của BQLRPH Hương
Thủy tỉnh Thừa Thiên Huế.
4.1.1 Điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lý, phạm vi, ranh giới:
Ban quản lý rừng phòng hộ Hương Thủy nằm trên địa bàn 3 xã:
Dương Hòa, Phú Sơn, Thủy Phù và 2 phường: Phú Bài, Thủy Châu thuộc thị
xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế với tổng diện tích quản lý là 20.236,3
ha.
- Phía Đông giáp xã Xuân Lộc, huyện Phú Lộc.
- Phía Nam giáp Ban quản lý rừng phòng hộ Nam Đông.
- Phía Tây giáp xã Bình Thành, huyện Hương Trà.

- Phía Bắc giáp xã Hương Thọ, huyện Hương Trà.
b. Địa hình:
Rừng phòng hộ Hương Thủy nằm dọc hai bên sông Tả Trạch và một
bộ phận thuộc lưu vực sông Hữu Trạch, đây là hai nhánh chính tạo thành
sông Hương. Toàn bộ khu vực có địa hình gò đồi, núi thấp.
Vùng núi thấp nằm phía Nam và phía Tây, phần lớn thuộc ranh giới
hành chính xã Dương Hòa với độ cao từ 300 - 800m, độ dốc bình quân 20 -
25
0
, cá biệt có nơi đến 40
0
. Đại bộ phận ở đây là rừng tự nhiên.
Vùng gò đồi: chiếm diện tích lớn có độ cao dưới 300m, độ dốc trung bình
từ 10

- 25
0
, đây là diện tích đã được trồng rừng trong nhiều năm qua theo các
Chương trình, Dự án khác nhau (Chương trình 327, 661).
c Khí hậu, thời tiết:
 Khí hậu:
Toàn bộ diện tích Ban quản lý rừng phòng hộ Hương Thủy nằm trong
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, do ảnh hưởng của dãy Trường Sơn, nên
lượng mưa trong năm tương đối cao. Khí hậu trong năm phân thành hai mùa
rõ nét: mùa khô từ tháng 3 đến tháng 8, nhiệt độ cao bình quân 30
o
C; đây là
những tháng khô nóng chịu ảnh hưởng của gió Tây nam, mùa mưa từ tháng
9 đến tháng 2 năm sau; đây là mùa mưa lạnh chịu ảnh hưởng của gió mùa
Đông Bắc.

Nhiệt độ bình quân năm 24
0
C; nhiệt độ cao nhất 39
0
C, nhiệt độ thấp nhất
10
0
C.
Độ ẩm không khí bình quân năm 75 - 80%.
Tổng lượng mưa trung bình năm từ 2.000 - 3.000 mm, tập trung từ
tháng 9 đến tháng 12. Đây là những tháng có cường độ mưa lớn gây lũ lụt.
Chế độ gió: Có 2 loại gió mùa chính:
+ Gió mùa Đông Bắc: Hoạt động từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau,
gió thổi theo hướng Bắc hoặc Đông Bắc, nhiệt độ không khí thấp, ẩm độ cao
thường kéo theo mưa phùn.
+ Gió mùa Tây Nam: Hoạt động từ tháng 4 đến tháng 9, do bị chắn
bởi dãy Trường Sơn nên biến tính khô, nóng, nhiệt độ cao, độ ẩm không
khí xuống thấp.
Nhìn chung, khu vực có nền nhiệt độ cao, lượng mưa lớn tương đối
thuận lợi cho phát triển nông-lâm nghiệp.
 Thuỷ văn:
Ban quản lý rừng phòng hộ Hương Thủy nằm trong khu vực có hệ
thống sông suối đa dạng, phong phú thuộc lưu vực hai nhánh sông Tả Trạch
và Hữu Trạch, chảy qua khu vực quản lý của đơn vị với chiều dài khoảng 15
km, cụ thể là hệ thống các khe, suối như: khe La Ma, khe De, khe 57, khe
Vàng, khe Rệ, khe Lụ (thuộc lưu vực sông Tả Trạch); Khe Chà Lôi, khe
Nghịa, khe Chà Và, khe Đầy (thuộc lưu vực sông Hữu Trạch).
Sông Hữu Trạch và sông Tả Trạch là hai nhánh sông cung cấp nước
cho sông Hương và là tuyến đường thủy nối liền các vùng với thành phố
Huế.

4.1.2 Tình hình dân sinh, kinh tế, xã hội.
a. Dân số và lao động:
Địa bàn của Ban quản lý rừng phòng hộ Hương Thủy nằm trên ranh
giới hành chính của 3 xã, 2 phường: xã Dương Hoà, xã Phú Sơn, xã Thuỷ
Phù, phường Thủy Châu và phường Phú Bài thuộc thị xã Hương Thuỷ, tỉnh
Thừa Thiên Huế, xong chỉ có dân cư thuộc hai xã Dương Hòa và Phú Sơn là
có ảnh hưởng nhiều nhất tới các hoạt động của Ban quản lý.
Theo niên giám thống kê năm 2007, dân số hai xã Dương Hòa và Phú
Sơn là 3.054 người, toàn bộ số dân là người Kinh.
Dân cư sống tập trung ở nơi có điều kiện buôn bán, phát triển ruộng
nước. Những năm trước đây, với tập quán canh tác lạc hậu, đời sống của đại
bộ phận dân cư trên tương đối khó khăn, nạn đốt nương làm rẫy và săn bắt
thú rừng để đảm bảo một phần cuộc sống gia đình vẫn là nhu cầu bức thiết.
Số người trong độ tuổi lao động là 1.756 người chiếm 55% số dân
trong khu vực. Nhân lực trong khu vực tập trung chủ yếu vào sản xuất nông
nghiệp (chiếm 85% số lao động); còn lại là các ngành nghề khác như thương
mại dịch vụ; tiểu thủ công nghiệp.
Theo kết quả điều tra, hiện có tới 15% lao động thiếu việc làm, đây là
nguy cơ tiềm ẩn gây sức ép lên bảo tồn tính đa dạng sinh học trong vùng do
những lao động trên vào rừng khai thác lâm sản làm kế sinh nhai chính.
Từ khi có dự án 327, dự án Trồng mới 5 triệu ha rừng và gần đây là
dự án JBIC với sự phát triển của nhiều loại cây phù hợp với tính chất đất đai,
cuộc sống của người dân trong vùng đã từng bước ổn định và nâng cao.
b. Tình hình sản xuất, đời sống thu nhập:
Thu nhập bình quân tính theo đầu người hàng năm tại 2 Xã rất thấp và
chỉ bằng 60% thu nhập bình quân tính theo đầu người/năm của Huyện, như
xã Phú Sơn là 3,5 triệu đồng/người; Dương Hòa 3,9 triệu đồng/người. Bình
quân lương thực trên địa bàn hai xã rất thấp chỉ đạt 138 kg/người/năm, bằng
35% của thị xã Hương Thủy. Kết quả khảo sát mức sống của các hộ gia đình
cho thấy 35% số hộ thuộc diện nghèo, cao hơn tỷ lệ bình quân của thị xã

Hương Thủy (7%) (Niên giám thống kê huyện, 2006)
Nông nghiệp hiện là một trong những ngành mũi nhọn, trọng tâm
trong cơ cấu phát triển kinh tế của các xã khu vực vùng đệm, với các ngành
chính là trồng trọt và chăn nuôi. Tuy nhiên, diện tích bình quân đất sản xuất
nông nghiệp chỉ đạt 1.170 m
2
/lao động, nên thu nhập từ trồng trọt chiếm tỷ
trọng thấp.
Do có ưu thế về nơi chăn thả nên chăn nuôi gia súc khá phát triển,
tổng đàn trâu bò trên địa bàn 2 xã đạt 1.960 con, trong đó trâu bò 750, lợn
1.210 con.
Trong những năm gần đây, do giá gỗ nguyên liệu đứng ở mức cao,
nên diện tích trồng rừng nguyên liệu phát triển mạnh. Đây cũng là nguồn thu
chủ yếu cho nhiều gia đình trong khu vực.
Tuy nhiên, hiện nay công tác giao đất trồng rừng đang triển khai rất
chậm, gây nhiều khó khăn cho các hộ gia đình. Với doanh thu 1 ha rừng
trồng nguyên liệu khoảng 35 – 40 triệu đồng/chu kỳ kinh doanh (6-7 năm),
mỗi hộ gia đình chỉ cần được giao bình quân 2 ha thì sẽ có thêm thu nhập từ
sản xuất lâm nghiệp 10 triệu đồng/năm, bằng 40% thu nhập hiện tại. Có thể
nói, giao đất lâm nghiệp để trồng rừng nguyên liệu mở ra cơ hội thoát nghèo
và tiến tới làm giàu cho nhiều hộ gia đình, góp phần bảo vệ khu bảo tồn
nhưng đây cũng là nguyên nhân dẫn tới tình trạng lấn chiếm đất rừng hiện
nay (Báo cáo, 2006).
c. Cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội :
- Giao thông: Trên địa bàn có 4 trục đường chính là: Từ Dạ Lê vào xã
Dương Hoà dài 18 km đường đã được rải nhựa; trục đường từ phường Phú
Bài đi xã Phú Sơn - Hai Nhánh dài 20 km đường mới được rải nhựa. Hai
trục đường này được sử dụng làm đường công vụ của hồ Tả Trạch và trục
đường thứ 3 từ cầu Bình Thành vào khe Đầy - khe Cá dài 15 km, đây là
đường lâm sinh phục vụ trồng rừng và phòng chống cháy rừng trong mùa

nắng nóng. Trục đường thứ 4 từ Xuân lộc vào Bãi Gạo - tiểu khu 187 dài 25
km được sử dụng chủ yếu vào khai thác gỗ rừng tự nhiên, do có độ dốc lớn
nên hàng năm đều phải sửa chữa lại mới sử dụng được.
- Y tế: Trong những năm qua nhờ sự quan tâm đầu tư của Nhà nước
thông qua các dự án, và sự giúp đỡ của các tổ chức xã hội trong và ngoài
nước, mạng lưới y tế đã phủ khắp thôn, xã. Sức khoẻ người dân ngày càng
được nâng cao.
- Giáo dục: Trong những năm gần đây hệ thống trường lớp trên địa
bàn đã từng bước phát triển, các Xã, Phường đều đã có trường tiểu học và
trung học cơ sở.
d. Điều kiện kinh tế xã hội của BQLRPH Hương Thủy
Trong những năm qua, nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước lãnh, chỉ
đạo các cấp chính quyền nên đời sống của nhân dân trên địa bàn cơ bản ổn
định và có bước cải thiện, kinh tế ngày càng tăng trưởng khá; sản xuất nông
lâm nghiệp, dịch vụ từng bước phát triển theo hướng bền vững; cơ sở hạ
tầng được đầu tư xây dựng theo hướng kiên cố và từng bước hiện đại, đặc
biệt là tuyến đường đi xã Dương Hòa - Hương Thủy và tuyến đường đi lên
Hai Nhánh thuộc xã Lộc Bổn - Phú Lộc đã được đổ nhựa kiên cố; văn hóa
xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ, bộ mặt nông thôn từng bước đổi thay,
góp phần ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Tuy nhiên,
người dân trong vùng còn gặp một số khó khăn như quỹ đất cho canh tác
nông nghiệp còn ít, đa số người dân thiếu vốn sản xuất, khả năng đầu tư
thấp, tiếp thu khoa học kỹ thuật còn hạn chế. Để phát triển kinh tế địa
phương ổn định cần có giải pháp hỗ trợ vốn và kỹ thuật cho người dân có
điều kiện thâm canh, tạo công ăn việc làm và thu nhập ổn định để nâng cao
đời sống nhân dân trong rừng và ven rừng, gắn kết họ với rừng nhằm thực
hiện tốt công tác quản lý bảo vệ rừng bền vững.
Hiện trạng tài nguyên và tình hình sử dụng đất:
Tổng diện tích:
Tổng diện tích rừng: 20.236,3 ha

- Đất có rừng : 15.965,9 ha
+ Rừng tự nhiên : 13.333,0 ha
+ Rừng trồng : 2.632,9 ha
- Đất chưa có rừng: 3.066,5 ha
- Đất khác : 597,7 ha
Tài nguyên rừng:
 Rừng tự nhiên:
- Rừng phòng hộ Hương Thủy được bao phủ bởi các kiểu rừng thường
xanh, do chịu tác động ở các mức độ khác nhau nên đã hình thành các kiểu
rừng thứ sinh và đây là các kiểu rừng ưu thế, đánh giá theo chất lượng cho
thấy.
- Rừng trung bình: Phân bố chủ yếu trên những sườn núi có độ dốc từ
trung bình đến thấp. Hầu hết là rừng đã chịu sự tác động mạnh trước đây
nhưng có thời gian phục hồi sau khai thác tương đối dài. Tổ thành loài cây
thường gặp: Trâm, Kiền, Trường, Ngát,
- Rừng nghèo: Do quá trình khai thác với cường độ lớn trong những
năm của thập niên 80, rừng chưa có thời gian phục hồi, tầng trên còn sót lại
một số cây cao, to nhưng phẩm chất xấu, tầng tán bị phá vỡ, dây leo, bụi rậm
phát triển mạnh, mật độ tái sinh trung bình, có những cây tiên phong ưa
sáng, đời sống ngắn như: Ba soi, Màng tan, tái sinh trên những khoảng
trống lớn tạo ra do khai thác, chất lượng rừng xấu. Tổ thành các loài cây
thường gặp: Ngát, Trường, Trâm, Sơn huyết
- Rừng chưa có trữ lượng: Chủ yếu là các diện tích sau diễn thế tích
cực từ trạng thái đất trống có cây gỗ tái sinh rải rác, phẩm chất xấu, tầng tán
bị phá vỡ, dây leo, bụi rậm phát triển mạnh, mật độ tái sinh trung bình, có
những cây tiên phong ưa sáng, đời sống ngắn.
 Rừng trồng
Trong thời gian qua, diện tích rừng trồng của Ban quản lý không ngừng tăng
lên, với diện tích rừng trồng hiện nay là 2.685,8 ha thuộc các Chương trình,
Dự án như: 327, 661, JBIC, Loài cây trồng chủ yếu là Keo và Keo xen

cây Bản địa. Nhìn chung, rừng sinh trưởng phát triển khá tốt đặc biệt là cây
Keo, chỉ có một số diện tích trồng xen cây bản địa do đất xói mòn, bạc màu,
rửa trôi nên cây Bản địa sinh trưởng phát triển kém
4.2 Tìm hiểu kỹ thuật tạo cây con loài keo lá liềm từ hạt.
4.2.1 Thu hái, chế biến và bảo quản hạt giống.
- Thu hái hạt giống trên những cây mẹ từ 5 tuổi trở lên. Cây mẹ được
chọn phải có hình dáng đẹp, thân thẳng, chiều cao dưới cành từ 6 m trở lên,

×