Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Nghiên cứu tình trạng nhu cầu chăm sóc sức khỏe răng miệng và đánh giá kết quả 2 năm thực hiện nội dung chăm sóc răng miệng ban đầu ở người cao tuổi tại hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (992.86 KB, 104 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh răng miệng là bệnh phổ biến ở mọi lứa tuổi. Theo điều tra của nhiều tác
giả trên thế giới cũng như trong nước cho thấy người mắc bệnh răng miệng
chiếm tỷ lệ rất cao, như sâu răng,viêm lợi, viêm quanh răng, mất răng…, nhất
là sâu răng và nha chu viêm, đặc biệt tỷ lệ này tăng dần theo tuổi. Như theo
điều tra sức khoẻ răng miệng toàn quốc năm 2000, tỷ lệ sâu răng ở lứa tuổi 12
là 55,9%, tuổi 15 là 60,3%, 35 đến 44 là 79%, trên 45tuổi là 89,7%. Theo điều
tra của tổ chức NIDR(1985-1986) ở Mỹ cho thấy số người mất răng toàn bộ
tăng dần theo độ tuổi, 7,2% ở lứa tuổi 45-55 và 34,6% ở lứa tuổi65-74. .
Nếu sâu răng là nguyên nhân gây mất răng ở người trẻ thì nha chu viêm là
nguyên nhân chủ yếu gây mất răng ở người cao tuổi. Do đó làm ảnh hưởng
đến sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của người bệnh. Theo tổ chức y tế thế
giới, người cao tuổi được xác định là những người 60 tuổi trở lên. Ngày nay
do điều kiện sống tốt hơn và có nhiều tiến bộ về y học nên tuổi thọ con người
ngày càng cao, do đó tỷ lệ người cao tuổi cũng ngày càng cao. Theo ước tính
của tổ chức y tế thế giới, hiện tại trên thế giới có khoảng 700 triệu ngườicao
tuổi và sẽ tăng lên con số 1 tỷ vào năm 2020. Ở VN hiện nay có khoảng trên 8
triệu người cao tuổi, chiếm ~9% dân số và cũng đang có xu hướng gia tăng.
Do đó việc CSSK cho người cao tuổi đối với ngành y tế nói chung, và
CSSKRM cho người cao tuổi của ngành RHM nói riêng là một nhiệm vụ rất
quan trọng. Mặc dù có nhiều nỗ lực trong phịng chống và nâng cao sức khỏe
răng miệng, bệnh răng miệng hiện vẫn có xu hướng gia tăng ở mọi lứa tuổi
trong đó có người cao tuổi. Các tổn thương sâu răng, viêm lợi, VQR khi
không được điều trị kịp thời, nó khơng những ảnh hưởng đến chức năng ăn
nhai, thẩm mỹ, mà cịn có thể gây nhiều biến chứng nặng nề tại chỗ hay tồn
thân, thậm chí cịn ảnh hưởng đến tính mạng đặc biệt ở người cao tuổi, khi mà
sự lão hoá làm suy giảm khả năng phục hồi, do đó dễ mắc bệnh và mắc nhiều
loại bệnh cùng lúc. Bệnh QR là nguyên nhân chính gây mất răng ở người cao
tuổi bệnh không phải do cảm nhiễm (Susceptibility), mà do q trình tích luỹ


bệnh tật theo thời gian sống của họ và lien quan đến vệ sinh, CSRM cá nhân
cũng như mức sống và mức độ hiểu biết (dân trí). Mà người cao tuổi, nhất là
ở vùng nơng thơn hay miền núi, thường ít quan tâm tới việc CSSKRM. VD
như nghiên cứu của Phạm Văn Việt tại Hà Nội cho kết quả 90% người cao
tuổi trong diện nghiên cứu không hiểu biết hay chỉ hiểu biết một phần về vai
trò, chức năng răng miệng, cũng như về bệnh SR, bệnh QR, và theo kết quả
điều tra SKRM toàn quốc năm 2000 trên 999 người 45 tuổi trở lên thì có tới
55% chưa đi khám răng miệng lần nào. Trên thế giới, từ những năm 70 của
thế kỷ trước đã có nhiều nghiên cứu và đưa vấn đề RM người cao tuổi trở
thành chuyên ngành riêng. Ở VN ngày nay, chuyên ngành Lão Khoa có rất


2

nhiều nghiên cứu về CSSK người cao tuổi, nhưng nghiên cứu chun sâu về
RM người cao tuổi cịn ít, do đó việc CSSKRM người cao tuổi, đặc biệt người
cao tuổi ở nông thôn lại càng hạn chế.Việc nghiên cứu, đánh giá tình trạng các
bệnh RM, đặc biệt là bệnh QR và nhu cầu điều trị chưa có hệ thống, vấn đề đào
tạo cán bộ đến tổ chức mạng lưới dịch vụ, đặc biệt đối với người cao tuổi ở
nông thôn cũng từ đó chưa được quan tâm triển khai thoả đáng.
Xuất phát
từ những vấn đề đó, chúng tơi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu thực
trạng bệnh QR và nhu cầu điều trị của người cao tuổi ở một vùng nơng thơn
quận Hồng Mai- Hà Nội” nhằm các mục tiêu sau đây: *Mô tả thực trạng bệnh
QR ở người cao tuổi(trên 60 tuổi) tại một vùng nông thôn thuộc quận Hồng
Mai-Hà Nội năm 2009. *Phân tích kiến thức thái độ ,thực hành của người cao
tuổi ở nông thôn Hà Nội về CSSKRM NĂM 2009. *Xác định nhu cầu điều trị
bệnh QR của người cao tuổi ở một vùng nông thơn Hà-Nội năm 2009. Trên cơ
sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao SKRM của người cao tuổi ở
nơng thơn, góp phần đảm bảo chất lượng cuộc sống cho họ.

TỔNG QUAN
Chức năng nuốt
Chức năng nuối liên quan nhiều tới hoạt động của lưỡi. Lưỡi giảm sự khéo
léo làm cho việc đưa thức ăn chuyển động giảm hơn nữa việc nuốt cũng bị
ảnh hưởng do những thoái triển về vận động cơ và thần kinh.
*Tại hội nghị Quốc tế về người già ở Viên (Áo – 1982) đã quy định đó là
những người từ 60 tuổi trở lên. Khái niệm “Người cao tuổi” hiện nay đang
được dùng phổ biến ở nước ta nó mang nhiều ý nghĩa tích cực, động viên so
với khái niệm “Người già”. Tuy nhiên, về mặt khoa học thì như nhau.
*Vùng QR lập thành một bộ phận hình thái và chức năng, cùng với răng tạo
nên một cơ quan chức năng trong cơ thể, nó bao gồm tồn bộ tổ chức bao bọc
quanh răng : lợi, dây chằng QR, xương răng và xương ổ răng.
Vùng QR và răng là một thành phần của bộ máy nhai, phát âm và vai trò thẩm
mỹ. Khi tổ chức QR bị viêm (gọi là viêm nha chu), bao gồm q trình tổn
thương viêm và tổn thương thối hố. Viêm nha chu tuỳ theo mức độ mà chia
ra hai bệnh là viêm lợi và viêm QR. Khi nha chu viêm giai đoạn nặng, tổ chức
QR bị phá huỷ, sự liên kết chức năng giữa răng và tổ chức QR cũng bị phá
huỷ, làm răng lung lay, ảnh hưởng tới ăn nhai, cuối cùng là mất răng. Nha chu
viêm làm bệnh nhân khó chịu như: hơi miệng, chảy máu lợi khi đánh răng
hoặc chảy máu lợi tự nhiên, răng lung lay và mất răng ảnh hưởng đến ăn nhai,
phát âm, thẩm mỹ và do đó ảnh hưởng tới sức khoẻ, chất lượng cuộc sống,
đặc biệt khi đó là người cao tuổi có sức đề kháng kém.
I. GIẢI PHẪU- SINH LÝ HỌC VÙNG QUANH RĂNG
1. Lợi : Gồm có lợi tự do và lợi dính.
Giữa lợi tự do và
răng là một rãnh nông gọi là rãnh lợi sinh lý, đáy tạo bởi biểu mơ bám dính, là


3


nơi lợi bám dính vào răng, bình thường rãnh sâu 0,5-2mm.
* Lợi tự do : Gồm nhú lợi và đường viền lợi.
Nhú lợi là phần lợi che kín các kẽ răng. Có một nhú phía ngồi, một
nhú phía trong, giữa hai nhú là một vùng lõm.
Đường viền lợi ôm sát cổ răng, cao 0,5mm, mặt trong đường viền lợi là
thành ngồi của rãnh lợi.
Hình thể của nhú lợi
và đường viền lợi phụ thuộc hình thể của chân răng và xương ổ răng, nó cịn
phụ thuộc vào sự liên quan giữa các răng và vị trí của răng trên xương hàm.
*Lợi dính : là phần lợi bám dính vào chân răng và
xương ổ răng. Bề rộng của lợi dính có ý nghĩa quan trọngđối với việc giữ cho
vùng quanh răng bình thường.
-Tổ chức lợi : bao gồm biểu mô và tổ chức đệm.
Phủ bề mặt lợi dính và mặt ngồi viền lợi là lớp biểu bì sừng hố. Từ
sâu ra nơng gồm 4 lớp tế bào : TB đáy, TB gai, TB hạt và TB sừng hoá.
Phủ mặt trong
rãnh lợi là biểu mơ khơng sừng hố, liên tiếp với phía trên bởi biểu mơ sừng
hố của lợi tự do và phía dưới bởi biểu mơ bám dính. Biểu mơ bám dính là
biểu mơ ở đáy rãnh lợi bám dính vào răng. Lớp biểu mơ này khơng sừng hố,
khơng có các lồi ăn sâu vào tổ chức đệm ở dưới, và bám vào men răng, xương
răng bởi các bán Desmosom. Tổ chức đệm : là tổ chức liên kết nhiều sợi
keo ít sợi chun. Những sợi keo xếp thành những bó sợi lớn tạo nên hệ thống
sợi của lợi, trong đó đáng chú ý là các nhóm sợi răng- lợi, xương ổ răng- lợi
và nhóm sợi vịng.
2. Dây
chằng QR :
Có nguồn gốc trung
mơ, cấu trúc chính là những sợi keo, tạo nên những dây chằng, được sắp xếp
tuỳ theo chức năng ở răng và vùng QR . Nó Gĩư răng trong ổ răng và đảm bảo
sự liên quan sinh lý giữa răng và ổ răng nhờ những TB liên kết đặc biệt trong

tổ chức dây chằng.Bề rộng của khoảng QR~ 0,15- 0,21mm. Tuỳ theo sự sắp
xếp và hướng đi của các bó sợi mà người ta phân ra thành các nhóm sau:
- Nhóm cổ răng (hay nhóm mào cổ răng) : Gồm những bó
sợi đi từ mào xương ổ răng đến xương răng gần cổ răng.
- Nhóm ngang : Gồm những sợi đi từ xương răng ở chân răng thẳng
góc với trục của răng đến xương ổ răng.
- Nhóm
chéo : Gồm những bó sợi đi từ xương ổ răng chếch xuống dưới phía chân
răng, bám vào xương răng. Nhóm này chiếm số lượng nhiều nhất trong dây
chằng QR.
- Nhóm cuống răng : Gồm
những bó sợi đi từ xương răng ở cuống răng, toả hình nan quạt để đến bám
vào xương ổ răng vùng cuống răng.
- Nhóm giữa các chân răng: Đối với răng nhiều chân


4

cịn có các bó sợi đi từ kẽ giữa 2 hay 3 chân răng đến bám vào vách xương ổ
răng. Giữa các bó sợi trên là tổ chức liên kết lỏng lẻo, trong đó người ta thấy
có TB tạo xương răng, TBxơ non, TB xơ già, TB liên kết dạng bào thai,
những đám biểu bì Mallassez. Ngồi ra cịn có mạng lưới rất giàu các mạch
máu, bạch mạch, thần kinh. Theo Weski, những lưới này có tác dụng như một
cái hãm nước.
Trong tổ chức liên kết của dây chằng thường thấy có 3
thành phần là: TBchất tựa, sợi, chất nền.
Dây chằng QRcấu tạo bởinhững
sợi Collagen, những sợi đó lồng vào trong xương răng, chùm lên chân răng
giải phẫu và từ đó chạy vào lá đáy của túi lợi, màng xương phủ huyệt răng và
xương ổ răng, xương răng của răng bên cạnh, quan trọng nhất là trực tiếp vào

trong xương ổ răng riêng biệt.
3. Xương răng : Được hình thành trong quá trình hình thành chân răng.
Là một dạng đặc biệt của xương, trong đó thành phần vơ cơ và hữu cơ chiếm
tỷ lệ ngang nhau. Xương răng bao phủ chân răng và đi qua phần men răng,
phủ trên bề mặtmen ở cổ răng. bề dày của xương răng thay đổi theo tuổi, tuỳ
vùng và chức năng, dầy nhất là vùng cuống răng, mỏng nhất là vùng cổ răng.
Zander nghiên cứu và đo bề dày xương
răng giữa các vùng khác nhau của chân răng, giữa người già và người trẻ cho
thấy : sự đắp dày thêm của xương răng xảy ra từ từ và đều đặn theo tuổi.
Ngồi ra cịn do cavs yếu tố khac như: kích thích của quá trình viêm, hố chất
vùng cuống răng và do chuyển hố.
Về cấu trúc , xương răng gồm 2 loại : Xương răng khơng có TB và
xương răng có TB. Xương răng khơng có TB là lớp đầu tiênđược taọ ra trong
q trình tạo ngà ở chân răng, phủ lên chân răng bởi xương răng thứ phát (hay
xương răng có TB).Qúa trình tạo xương răng có TB nhanh, những TB tạo
xương răng non bám chắc và giữ lại tới lúc phát sinh lớp xương răng mới
vàTB xương răng được trưởng thành. Sự bồi đăps xương răng liên tục, suốt
đời, ở cuống răng thì nhanh hơn ở cổ răng, những lớp được bồi đắp tạo điều
kiện cho sự bám chắc của những dây chằng mớigiữ cho bề rộng vùng QR,
xương răng không bị tiêu sinh lý và thay đổi cấu trúc như xương.
Về mặt chức phận, xương răng tham gia vào sự hình
thành hệ thống cơ học nối liền răng với xương răng, cùng với xương ổ răng
giữ bề rộnh cần thiết cho vùng QR, bảo vệ ngà răng và tham gia sửa chữa ở
một số trường hợp tổn thương ngà chân răng.
4. Xương ổ răng :

phần lõm của xương hàm để giữ chân răng, là một bộ phận của xương hàm,
gồm lá xương thàng trong huyệt ổ răng và tổ chức xương chống đỡ xung
quanh huyệt ổ răng. phần xương ổ răng ở mặt bên, kẽ giữa hai răng nhô lên
gọi là mào xương ổ răng. Hoạt động chuyển hoá của xương ổ răng rất mạnh.

Qúa trình tạo xương liên tục, nếu xương khoẻ, chiều cao của mào xương ổ


5

răng phát triển liên tục phù hợp với sự mòn sinh lý của răng, tức là khớp cắn
không bị giảm, kể cả ở lứa tuổi cao. Can xi xương ở trong xương, giữa các sợi
là những tinh thể apatit, ngoài việc đảm bảo độ cứng của xương nó cịn là
nguồn dự trữ mức canxi trong máu. Thành phần hữu cơ của xương là chất keo
và những TB như tạo cốt bào, TB xương đa nhân . Xương ổ răng cũng có q
trình tiêu và phục hồi ln cân bằng thì xương luôn chắc và đảm bảo chức
năng. Nếu mất thăng bằng, quá trình tiêu xương lớn hơn phục hồi thì dẫn đến
tiêu xương( gặp ở quá trình bệnh lý QR, sang chấn khớp cắn…)
5. Tuần hoàn quanh răng :
Răng,
dây chằng QR và xương ổ răng thường có một mạch máu nuôi dưỡng. Mỗi
răng và khe QRđược nuôi dưỡng bởi một động mạch nhỏ là một nhánh của
động mạch chính trong xương tới lỗ cuống răng, trước khi vào lỗ cuống răng
nó tách ra các nhánh vào trong xương ổ răng, một nhánh vào khe QR nuôi các
dây chằng QR. Nhánh chính đi vào tuỷ răng qua lỗ cuống răng, động mạch
tuỷ răng khơng có nhánh nối với bên ngồi. Cịn trong xương ổ răng thì có
nhiều mạng nối chằng chịt với nhau, ở vùng dây chằng QR cũng vậy,có
những nhánh xuyên qua bản xương
thành trong huyệt răng nối với mạng
lưới tuần hoàn trong khe QR. Tĩnh mạch đi song song với động mạch và đặc
biệt là mạng lưới nối tĩnh mạch ở vùng QR tập trung quanh lỗ cuống răng.
6. Thần kinh
vùng quanh răng :
Có hai loại : - Các sợi giao
cảm chạy song song với mạch máu, điều hoà máu chảy trong các mao mạch.

- Các sợi cảm giác hầu hết là các nhánh có
Myelin của nhánh II hoặc nhánh III của dây thần kinh tam thoa.
Vùng
dây chằng QR giàu mạng lưới mạch máu và cũng giàu các sợi cảm giác.
Người ta tìm thấy có hai loại thần kinh tận cùng :là có vỏ bọc và khơng có vỏ
bọc ở đầu tận cùng. Nhánh tận đầu tự do đáp ứng với cảm giác đau, trong khi
đó đầu có vỏ bọc đáp ứng với thay đổi áp lực ; ở những đầu có vỏ bọc cấu
trúc phức tạp hơn nhiều so với ở da và niêm mạc miệng, hơn nữa phần lớn nó
đáp ứng với khả năng nhạy cảm của dây chằng quanh
răng.
1.1. Một số đặc điểm sinh lý, bệnh lý ở
người cao tuổi.
1.1.1. Biến đổi sinh lý chung. [11],[10],[18]
Lão hóa đưa đến những thối triển biến đổi dần và khơng phục hồi về hình
thái và chức năng ở các cơ quan, khả năng thích nghi với những biến đổi của
mơi trường xung quanh ngày càng bị rối loạn.
Lão hóa bắt đầu từ da: Da cứng và răn reo, tăng lớp mỡ dưới da ở bụng, ngực,
đùi, mơng.
Tóc chuyển bạc, trước ít và chậm sau nhiều và nhanh hơn.
Mắt điều tiết kém đi gây lão hóa và thị lực giảm. Thính lực kém đi.


6

Hoạt động chức năng các cơ quan, phủ tạng giảm dần, bài tiết dịch vị kém ăn
uống kém ngon và chậm tiêu, hoạt động chức năng gan, thận cũng giảm dần,
hệ thống nội tiết yếu đi.
Sự thích ứng với những thay đổi ngoại cảnh kém dần như thời tiết nóng, lạnh.
Chức năng hô hấp giảm, chức năng tim mạch kém thích ứng với lao động
nặng.

Giảm khả năng làm việc trí óc, nhanh mệt, tư duy nghèo dần, liên tưởng kém,
trí nhớ giảm hay quên, kém nhạy bén, chậm chạp.
Thời gian phục hồi vết thương kéo dài, xương dễ gãy do chứng loãng xương.
Khả năng đáp ứng của cơ thể trước các kháng nguyên ngoại lai, vi khuẩn
giảm dễ dẫn đến nhiễm trùng và nổi lên là hiện tượng tự miễn [17].
Tất cả những lão hóa đó là nguyên nhân làm cho sức khỏe người cao tuổi
giảm sút và hay mắc các bệnh mãn tính và cấp tính.
1.1.2. Biến đổi sinh lý ở vùng răng miệng [11],[9],[20],[22],[25].
1.1.2.1. Biến đổi trên răng và quanh mô răng
Biến đổi ở tổ chức cứng men và ngà răng
Về khối lượng:
Mòn mặt nhai: Tùy theo cá nhân, nhưng tăng lên theo tuổi, thường là mịn
khơng đều tùy theo khớp cắn của từng người. Mịn có thể làm mất hết lớp
men để lộ ra lớp ngà mà nó nhanh chóng đổi thành màu nâu. Mức độ và tốc
độ mòn phụ thuộc vào độ cứng của men ngà, tính chất của thức ăn, yếu tố
nghề nghiệp và thói quen nghiến răng. Do mòn, nhiều khi mặt nhai trở thành
bằng phẳng làm cho khớp cắn mất ổn định và hiệu quả nhai kém. Mòn mặt
bên làm cho điểm tiếp xúc giữa các răng trở thành diện tiếp xúc kèm theo
sựdi lệch của răng. Mòn mặt bên sẽ làm giảm chiều dài trước sau của cung
răng, tạo ra sự chênh lệch trước sau ở vùng răng hàm và khớp cắn đầu chặn
đầu ở phía trước.
Về chất lượng:
Mơ cứng của răng trở nên cứng hơn xong khả năng thẩm thấu, chuyển hóa cơ
bản ở men và ngà đều kém. Điều này được chứng minh bằng các thử nghiệm
đo đồng vị phóng xạ. Theo thời gian sống, tỉ lệ chất khoáng và kích thước các
tinh thể bề mặt men răng tăng lên. Ở người trẻ ống tủy thường rộng, dây
Tome thường đi gần tới đường ranh giới men – ngà, nhưng ở người già dây
Tome thường thối hóa ngắn lại, ống Tome bị bịt kín. Lịng các ống ngà bị thu
hẹp do sự bồi đắp ngà thứ phát, bị vơi hóa dẹp dần đến tắc lại và ngà trở nên
trong được gọi là ngà trong hay ngà xơ. Do sự thối hóa ở tủy răng, tạo ngà

bào bị giảm hoặc mất nên một số ống ngà khơng có dây Tome, ngà ở đây
khơng có sự chuyển hóa và tạo nên một vùng ngà chết. Việc tăng tỉ lệ khoáng
chất ở ngà, tăng ngà xơ, có vùng ngà chết, giảm tạo ngà thứ phát bảo vệ làm
cho răng người già một mặt có khả năng chống đỡ sự tấn công của axit gây


7

sâu răng, khi chữa răng cảm giác ê buốt có thể ít hơn. Mặt khác, lại giảm khả
năng tự bảo vệ tủy, do ngà khống hóa cao về mặt cơ học nên dễ gãy hơn và
thường răng bị gãy, vỡ khi có miếng trám to.
Biến đổi ở tủy răng
Do sự hình thành của ngà thứ phá sinh lý theo tuổi và ngà thứ phát bệnh lý (vì
sâu răng, mịn răng, tiêu cổ răng..) dẫn tới buồng tủy hẹp dần lại. Biểu hiện từ
mất sừng buồng tủy đến trần buồng tủy thấp xuống (đôi khi sát hoặc chạm
vào sàn buồng tủy) trên phim X-quang ở người trên 50 tuổi thường thấy
buồng tủy, ống tủy chân rất hẹp, nhỏ. Ống tủy cáh cuống răng 4-5mm thường
khơng nhìn thấy và khi điều trị rất khó đi qua.
Mật độ tế bào đệm giảm đi, trong khi đó có hiện tượng tăng sợi làm gia tăng
thể tích các bó Collagen. Ngà răng tiếp tục được bồi đắp và làm hẹp dần thể
tích các buồng tủy, các tạo ngà bào khơng cịn ngun vẹn, giảm kích thước
và số lượng, thậm chí có thể mất hẳn ở trên chỗ chia đôi hoặc chia ba của
răng nhiều chân. Các tế bào thần kinh và mạch máu cũng có những biến đổi
tương tự.
Biến đổi ở xương răng
Nhiều nghiên cứu đã xác định các biến đổi ở xương răng bao gồm: Độ dày
của lớp xương răng tăng lên theo tuổi. Các răng có sự di chuyển về phía gần
biểu hiện ở độ dày rõ hơn ở cạnh xa chân răng. Xương răng bị phì đại do ảnh
hưởng của những hoạt động chức năng. Xương ở cuống răng và vùng khe
giữa các chân răng của răng nhiều chân do được bồi đắp đã làm bít tắc dàn

các lỗ chóp chân răng dẫn đến giảm tuần hồn đi vào ni dưỡng tủy. Nếu
quá trình bồi đắp này quá mức sẽ làm cho chân răng phình ra có hình như dùi
trống, gây khó khăn khi phải nhổ.
Biến đổi ở lợi
Tác động lão hóa lên mô liên kết lợi được đặc trưng bởi những biến đổi thoái
triển ỏ mạch máu và thần kinh. Mạch máu ở lợi giảm về số lượng và khả năng
thẩm thấu cũng như lắng đọng Hyalin trong các tiểu động mạch. Lợi mất dần
tính đàn hồi, có vẻ hơi phù nề và bóng láng, lợi bị co va teo lại gây hở chân
răng có khi tới 2/3 chiều dài của chân răng. Hiện tượng này cần được đánh giá
không phải chỉ do nhiều tuổi đơn thuần mà còn phụ thuộc vào nhiều nguyên
nhân như: vệ sinh răng miệng không tốt, răng mọc lệch, lợi bị chấn thương
kéo dài….
Biến đổi ở dây chằng quanh răng
Có những thay đổi về mạch máu như ở lợi.Vì vậy, vai trị làm đêm của mơ
quanh răng giảm, mật độ tế bào (nguyên bào sợi, tạo cốt bào, hủy cốt bào) và
tăng sợi keo, những nguyên bào xơ, thành phần tế bào chính của mơ dây
chằng quanh răng có xu hướng hịa vào nhau để sinh ra những tế bào đa nhân.
Tỉ lệ đổi mới của mô liên kết chậm lại dẫn tới khả năng liền sẹo kém. Dây


8

chằng có thể thối triển coi như mất xơ, xương ổ răng lan vào xương chân
răng làm cho chân răng người già gần như dính vào xương.
Biến đổi ở xương ổ răng
Xương ổ răng cũng như xương hàm có hiện tượng mạch máu ít đi, chuyển
hóa cơ bản thấp, gần như khơng có sự bồi đắp xương mới, tế bào xương giảm
về số lượng và hoạt động. Ở mặt ngoài răng cửa và răng hàm nhỏ hàm dưới
xương ổ răng xốp hơn so với phần xương ổ răng ở mặt lưỡi, trong khi đó ở
răng hàm lớn thì ngược lại. Lớp xương ở chân răng khi bị hở nếu bị mịn hoặc

mất đi sẽ làm hở lớp ngà ở phía dưới gây ra cảm giác ê buốt, thậm chí có thể
gây tổn thương tủy. Lợi co ở khoảng giữa 2 răng sẽ tạo ra khoảng trống dễ
gây ứ đọng mảng bám răng, thức ăn và vi khuẩn dẫn đến viêm kẽ và sâu răng
ở mặt bên.
1.2.1.2. Ảnh hưởng trên niêm mạc miệng
Biểu mô niêm mạc miệng
Biểu mô phủ và mô liên kết ở khoang miệng teo và mỏng, giảm mối liên kết
giữa các protein và Mucoprotein theo tuổi. Tăng số lượng tương bào và hậu
quả là giảm tính đàn hồi và tăng sự nhạy cảm của mô đối với sang chấn. Tổ
chức niêm mạc phủ khoang miệng ở người cao tuổi có những biến đổi dạng
phù nề, các nhú biểu mô mất dần làm cho vùng tiếp giáp giữa biểu mô và mô
liên kết bị xẹp xuống làm cho lớp biểu mô dễ bị bong trước. Thời gian thay
thế tế bào biểu mô kéo dài số lượng tế bào Langerhans ít đi. Vì các biến đổi
nêu trên, nên bề mặt của niêm mạc miệng kém chịu đựng trước các kích thích
như nóng, lạnh, sức đề kháng với nhiễm trùng giảm đi, niêm mạc dễ bị tổn
thương và khi bị tổn thương thì cũng lâu lành.
Niêm mạc lưỡi
Các nghiên cứu cho thấy các gai lưỡi có hiện tượng giảm và teo. Số gai hình
dây của lưỡi giảm làm cho lưỡi có vẻ trơn láng, gai lưỡi hình đài bị teo nhiều
nhất với số lượng giảm hoặc mất dần các nụ vị giác gây ra những rối loạn vị
giác với các chất ngọt, chua, mặn….Nói chung, niêm mạc lưỡi miệng nhợt
nhạt, teo mỏng do giảm chất gian bào, giảm khả năng tăng sinh tế bào và
giảm đáp ứng miễn dịch tại chỗ cũng như toàn thân thường thấy ở người cao
tuổi.
1.2.1.3. Ảnh hưởng ở khớp thái dương – hàm và xương hàm
Khớp thái dương hàm
Ở khớp thái dương hàm thường gặp sự xơ hóa và thối hóa khơp, thể tích lồi
cầu xương hàm giảm, diện khớp trở lên phẳng, các dây chằng dão. Cùng với
sự thoái triển nêu trên, trương lực của các cơ nâng hàm và hạ hàm mất dần
làm cho khớp mất tính ổn định, vận động của hàm bị ảnh hưởng, khớp cắn

mất cân bằng dẫn đến khả năng nhai, nghiền thức ăn kém, dễ gây đau, mỏi và
có tiếng kêu ổ khớp.


9

Xương hàm
Xương hàm cũng có những biến đổi thối triển chung theo hệ xương của cơ
thể. Trước hết, xương hàm giảm khối lượng do độ đậm đặc bởi hiện tượng
loãng xương sinh lý. Trên phim X-quang xương, người già ít cản quang, có
những vạch sáng chiều rộng vài mm. Xương hàm người cao tuổi yếu và dễ
gãy, khi bị gãy thường can xấu và chậm. Sống hàm trên tiêu nhiều hơn theo
chiều hướng tâm, sống hàm dưới ít tiêu hơn theo chiều ly tâm. Như vậy, sau
khi mất răng, hình thái các xương hàm trên và dưới sẽ có những biến đổi sâu
sắc.
1.2.1.4. Ảnh hưởng trên các chức năng vùng miệng
Chức năng nhai
Tốc độ và biên độ chuyển động của hàm dưới giảm trong quá trình vận động
há, ngậm và độ rộng lên xuống trong khi chiều sang bên thì vẫn giữ nguyên.
Vì vậy, thời gian của chu kì nhai khơng có khác nhiều so với thời kỳ trung
niên. Tuy nhiên, hiệu quả của nhai bị giảm sút do răng suy yếu, hệ thống môi,
má, lưỡi và các cơ giảm sự khéo léo, khả năng phối hợp.
Chức năng nuốt
Chức năng nuối liên quan nhiều tới hoạt động của lưỡi. Lưỡi giảm sự khéo
léo làm cho việc đưa thức ăn chuyển động giảm hơn nữa việc nuốt cũng bị
ảnh hưởng do những thoái triển về vận động cơ và thần kinh.
Chức năng phát âm
Có những sự thay đổi nhất định về giọng điệu và khả năng nói theo tuổi.
Nhưng, nếu khơng có các bệnh lý liên quan thì đặc điểm này ít được chú ý.
Chức năng tạo dáng khuôn mặt

Các biến đổi nét mặ là do mất răng và do giảm hoặc mất trương lực các cơ ở
mặt. Thường có sự hạp thấp tầng mặt dưới, những thay đổi này không chỉ là
thẩm mỹ mà còn là sự trở ngại tới chức năng nhai, nuốt.
Chức năng tiết nước bọt
Nhu mô tuyến nước bọt suy thoái dẫn đến giảm tiết về số lượng nước bọt kể
cả chức năng tổng hợp các protein nước bọt, IgA giảm 2/3. Trên thực tế tình
trạng khơ miệng còn do 1 số bệnh lý ở tuyến, đặc biệt do hậu quả một số
thuốc điều trị cao huyết áp, tâm thần….
1.2. Một số đặc điểm bệnh lý răng miệng ở người cao tuổi.
Bệnh lý vùng răng miệng ở người cao tuổi cũng giống như người trẻ. Các
bệnh phổ biến như sâu răng, viêm lợi, viêm quanh răng cũng có tỉ lệ mắc rất
cao. Bên cạnh đó là sự lão hóa tổ chức ở người cao tuổi nên bệnh vùng răng
miệng cũng có những hình thái, biểu hiện lâm sáng khác biệt.
1.2.1. Các tác nhân gây bệnh: Có rất nhiều lý do khiến vi khuẩn, nấm…có
điều kiện để tụ tập, sinh sống và phát triển ở môi trường miệng của người cao


10

tuổi do các khe răng rộng, hở chân răng, các răng sâu vỡ thân to, răng di lệch,
khớp cắn sang chấn, miệng khô, các răng sâu không được trám hoặc miếng
trám thừa, mất răng khơng được phục hình….đây là những điều kiện để thức
ăn, mảng bám dễ tập trung, ứ đọng trong và sau khi ăn. Tình trạng này ngày
càng trở nên nặng nề hơn vì việc tự vệ sinh răng miệng của người cao tuổi đã
không được thực hiện tốt.
Bên cạnh đó, sức đề kháng của cơ thể giảm và tính chất thường mắc các bệnh
mãn tính. Miệng là nơi thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với một loạt nhân tốt
có thể gây bệnh và rất nhiều yếu tố gây kích thích, sang chấn từ các hoạt động
nhai, nuốt. Bệnh lý quanh răng ở người cao tuổi
Bệnh quanh răng có 2 loại: viêm lợi và viêm quanh răng, cả 2 đều do vi khuẩn

gây nên, tương tác với quá trình đáp ứng miễn dịch của cơ thể. Một số yếu tố
tại chỗ hoặc tồn thân có tác động thúc đẩy và làm bệnh nặng thêm [27].
Viêm lợi
Viêm lợi có nguyên nhân tại chỗ là do vi khuẩn ở mảng bám, cao răng, bựa
răng và các yếu tố làm tăng tích lũy vi khuẩn, một số ngun nhân tồn thân
khác như các bệnh về máu, nội tiết…có biểu hiện ở lợi với các hình thài và
mức độ nặng nhẹ khác nhau. Viêm lợi có biểu hiện ban đầu chỉ là các tổn
thương tại chỗ khu trú có đau, chảy máu nhẹ đến các mức độ nặng như vết
loét, mảng hoại tử. Một số thể viêm lợi hay gặp ở người cao tuổi có ngun
nhân tồn thân là chính nhưng thường kèm theo sự tác động phối hợp của vi
khuẩn trong môi trường miệng như: viêm lợi người mãn kinh, viêm lợi do
dùng thuốc, viêm lợi trong các bệnh về máu.
Viêm quanh răng
Có đầy đủ các biểu hiện lâm sàng như viêm lợi, ngồi ra cịn có túi lợi bệnh
lý, có thể có răng lung lay, răng di lệch do xương ổ răng tiêu nhiều, cùng với
hiện tượng mất bám dính của lợi làm chân răng bị bộc lộ ít hay nhiều trong
môi trường miệng. Viêm quanh răng ở người cao tuổi thường diễn biến mãn
tính, hoặc bán cấp, các triệu chứng tại chỗ ít ồ ạt, tiến triển chậm, phá hủy từ
từ. Tiên lượng viêm quanh răng ở người cao tuổi thường xấu, dễ dẫn đến mất
răng. Ở những trường hợp bị bệnh tiểu đường, khả năng mắc viêm quanh răng
tăng lên, khả năng mất răng rất cao.
Viêm quanh cuống răng hay viêm dây chằng quanh cuống
Là bệnh lý rất thường gặp bởi tủy chết do không được điều trị kịp thời gây
nhiễm khuẩn mơ quanh chóp răng. Do sự xơ hóa của dây chằng nên thường
có biểu hiện của viêm mãn tính với lỗ rị ở ngách tiền đình, hoặc ở phía mặt
lưỡi, mặt hàm ếch….


11


trẻtựu lớn nhất của xã hội lồi người, nó là kết quả tổng hợp của tất cả
các ngành khoa học tự nhiên cũng như xã hội. Cộng đồng người cao tuổi tăng
lên là do chất lượng mọi mặt của cuộc sống đã khơng ngừng được cải thiện,
trong đó có khoa học Y học. Theo đó, số lượng người cao tuổi ngày một tăng
cũng đặt ra nhiều vấn đề trong xã hội, trong đó có Y tế, nhằm đảm bảo cho
các cụ sống ngày một tuổi thọ hơn và chất lượng cuộc sống ngày một tốt hơn,
đó chính là mục tiêu của chương trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi,
trong đó có vấn đề chăm sóc sức khỏe răng miệng ban đầu người cao tuổi.
Tại hội nghị Quốc tế về người già ở Viên (Áo – 1982) đã quy định đó là
những người từ 60 tuổi trở lên. Khái niệm “Người cao tuổi” hiện nay đang
được dùng phổ biến ở nước ta nó mang nhiều ý nghĩa tích cực, động viên so
với khái niệm “Người già”. Tuy nhiên, về mặt khoa học thì như nhau. [10],
[18]
1.1. Một số đặc điểm sinh lý, bệnh lý ở người cao tuổi.
1.1.1. Biến đổi sinh lý chung. [11],[10],[18]
Lão hóa đưa đến những thối triển biến đổi dần và khơng phục hồi về hình
thái và chức năng ở các cơ quan, khả năng thích nghi với những biến đổi của
môi trường xung quanh ngày càng bị rối loạn.
Lão hóa bắt đầu từ da: Da cứng và răn reo, tăng lớp mỡ dưới da ở bụng, ngực,
đùi, mơng.
Tóc chuyển bạc, trước ít và chậm sau nhiều và nhanh hơn.
Mắt điều tiết kém đi gây lão hóa và thị lực giảm. Thính lực kém đi.
Hoạt động chức năng các cơ quan, phủ tạng giảm dần, bài tiết dịch vị kém ăn
uống kém ngon và chậm tiêu, hoạt động chức năng gan, thận cũng giảm dần,
hệ thống nội tiết yếu đi.
Sự thích ứng với những thay đổi ngoại cảnh kém dần như thời tiết nóng, lạnh.
Chức năng hơ hấp giảm, chức năng tim mạch kém thích ứng với lao động
nặng.
Giảm khả năng làm việc trí óc, nhanh mệt, tư duy nghèo dần, liên tưởng kém,
trí nhớ giảm hay quên, kém nhạy bén, chậm chạp.

Thời gian phục hồi vết thương kéo dài, xương dễ gãy do chứng loãng xương.
Khả năng đáp ứng của cơ thể trước các kháng nguyên ngoại lai, vi khuẩn
giảm dễ dẫn đến nhiễm trùng và nổi lên là hiện tượng tự miễn [17].
Tất cả những lão hóa đó là nguyên nhân làm cho sức khỏe người cao tuổi
giảm sút và hay mắc các bệnh mãn tính và cấp tính.
1.1.2. Biến đổi sinh lý ở vùng răng miệng [11],[9],[20],[22],[25].
1.1.2.1. Biến đổi trên răng và quanh mô răng


12

Biến đổi ở tổ chức cứng men và ngà răng
Về khối lượng:
Mòn mặt nhai: Tùy theo cá nhân, nhưng tăng lên theo tuổi, thường là mịn
khơng đều tùy theo khớp cắn của từng người. Mịn có thể làm mất hết lớp
men để lộ ra lớp ngà mà nó nhanh chóng đổi thành màu nâu. Mức độ và tốc
độ mòn phụ thuộc vào độ cứng của men ngà, tính chất của thức ăn, yếu tố
nghề nghiệp và thói quen nghiến răng. Do mòn, nhiều khi mựt nhai trở thành
bằng phẳng làm cho khớp cắn mất ổn định và hiệu quả nhai kém. Mòn mặt
bên làm cho điểm tiếp xúc giữa các răng trở thành diện tiếp xúc kèm theo sự
di lệch của răng. Mòn mặt bên sẽ làm giảm chiều dài trước sau của cung răng,
tạo ra sự chênh lệch trước sau ở vùng răng hàm và khớp cắn đầu chặn đầu ở
phía trước.
Về chất lượng:
Mơ cứng của răng trở nên cứng hơn xong khả năng thẩm thấu, chuyển hóa cơ
bản ở men và ngà đều kém. Điều này được chứng minh bằng các thử nghiệm
đo đồng vị phóng xạ. Theo thời gian sống, tỉ lệ chất khống và kích thước các
tinh thể bề mặt men răng tăng lên. Ở người trẻ ống tủy thường rộng, dây
Tome thường đi gần tới đường ranh giới men – ngà, nhưng ở người già dây
Tome thường thối hóa ngắn lại, ống Tome bị bịt kín. Lịng các ống ngà bị thu

hẹp do sự bồi đắp ngà thứ phát, bị vơi hóa dẹp dần đến tắc lại và ngà trở nên
trong được gọi là ngà trong hay ngà xơ. Do sự thối hóa ở tủy răng, tạo ngà
bào bị giảm hoặc mất nên một số ống ngà khơng có dây Tome, ngà ở đây
khơng có sự chuyển hóa và tạo nên một vùng ngà chết. Việc tăng tỉ lệ khoáng
chất ở ngà, tăng ngà xơ, có vùng ngà chết, giảm tạo ngà thứ phát bảo vệ làm
cho răng người già một mặt có khả năng chống đỡ sự tấn công của axit gây
sâu răng, khi chữa răng cảm giác ê buốt có thể ít hơn. Mặt khác, lại giảm khả
năng tự bảo vệ tủy, do ngà khống hóa cao về mặt cơ học nên dễ gãy hơn và
thường răng bị gãy, vỡ khi có miếng trám to.
Biến đổi ở tủy răng
Do sự hình thành của ngà thứ phá sinh lý theo tuổi và ngà thứ phát bệnh lý (vì
sâu răng, mịn răng, tiêu cổ răng..) dẫn tới buồng tủy hẹp dần lại. Biểu hiện từ
mất sừng buồng tủy đến trần buồng tủy thấp xuống (đôi khi sát hoặc chạm
vào sàn buồng tủy) trên phim X-quang ở người trên 50 tuổi thường thấy
buồng tủy, ống tủy chân rất hẹp, nhỏ. Ống tủy cáh cuống răng 4-5mm thường
khơng nhìn thấy và khi điều trị rất khó đi qua.
Mật độ tế bào đệm giảm đi, trong khi đó có hiện tượng tăng sợi làm gia tăng
thể tích các bó Collagen. Ngà răng tiếp tục được bồi đắp và làm hẹp dần thể
tích các buồng tủy, các tạo ngà bào khơng cịn ngun vẹn, giảm kích thước
và số lượng, thậm chí có thể mất hẳn ở trên chỗ chia đôi hoặc chia ba của


13

răng nhiều chân. Các tế bào thần kinh và mạch máu cũng có những biến đổi
tương tự.
Biến đổi ở xương răng
Nhiều nghiên cứu đã xác định các biến đổi ở xương răng bao gồm: Độ dày
của lớp xương răng tăng lên theo tuổi. Các răng có sự di chuyển về phía gần
biểu hiện ở độ dày rõ hơn ở cạnh xa chân răng. Xương răng bị phì đại do ảnh

hưởng của những hoạt động chức năng. Xương ở cuống răng và vùng khe
giữa các chân răng của răng nhiều chân do được bồi đắp đã làm bít tắc dàn
các lỗ chóp chân răng dẫn đến giảm tuần hồn đi vào ni dưỡng tủy. Nếu
q trình bồi đắp này q mức sẽ làm cho chân răng phình ra có hình như dùi
trống, gây khó khăn khi phải nhổ.
Biến đổi ở lợi
Tác động lão hóa lên mơ liên kết lợi được đặc trưng bởi những biến đổi thoái
triển ỏ mạch máu và thần kinh. Mạch máu ở lợi giảm về số lượng và khả năng
thẩm thấu cũng như lắng đọng Hyalin trong các tiểu động mạch. Lợi mất dần
tính đàn hồi, có vẻ hơi phù nề và bóng láng, lợi bị co va teo lại gây hở chân
răng có khi tới 2/3 chiều dài của chân răng. Hiện tượng này cần được đánh giá
không phải chỉ do nhiều tuổi đơn thuần mà còn phụ thuộc vào nhiều nguyên
nhân như: vệ sinh răng miệng không tốt, răng mọc lệch, lợi bị chấn thương
kéo dài….
Biến đổi ở dây chằng quanh răng
Có những thay đổi về mạch máu như ở lợi.Vì vậy, vai trị làm đêm của mô
quanh răng giảm, mật độ tế bào (nguyên bào sợi, tạo cốt bào, hủy cốt bào) và
tăng sợi keo, những nguyên bào xơ, thành phần tế bào chính của mơ dây
chằng quanh răng có xu hướng hịa vào nhau để sinh ra những tế bào đa nhân.
Tỉ lệ đổi mới của mô liên kết chậm lại dẫn tới khả năng liền sẹo kém. Dây
chằng có thể thối triển coi như mất xơ, xương ổ răng lan vào xương chân
răng làm cho chân răng người già gần như dính vào xương.
Biến đổi ở xương ổ răng
Xương ổ răng cũng như xương hàm có hiện tượng mạch máu ít đi, chuyển
hóa cơ bản thấp, gần như khơng có sự bồi đắp xương mới, tế bào xương giảm
về số lượng và hoạt động. Ở mặt ngoài răng cửa và răng hàm nhỏ hàm dưới
xương ổ răng xốp hơn so với phần xương ổ răng ở mặt lưỡi, trong khi đó ở
răng hàm lớn thì ngược lại. Lớp xương ở chân răng khi bị hở nếu bị mòn hoặc
mất đi sẽ làm hở lớp ngà ở phía dưới gây ra cảm giác ê buốt, thậm chí có thể
gây tổn thương tủy. Lợi co ở khoảng giữa 2 răng sẽ tạo ra khoảng trống dễ

gây ứ đọng mảng bám răng, thức ăn và vi khuẩn dẫn đến viêm kẽ và sâu răng
ở mặt bên.
1.2.1.2. Ảnh hưởng trên niêm mạc miệng
Biểu mô niêm mạc miệng


14

Biểu mô phủ và mô liên kết ở khoang miệng teo và mỏng, giảm mối liên kết
giữa các protein và Mucoprotein theo tuổi. Tăng số lượng tương bào và hậu
quả là giảm tính đàn hồi và tăng sự nhạy cảm của mô đối với sang chấn. Tổ
chức niêm mạc phủ khoang miệng ở người cao tuổi có những biến đổi dạng
phù nề, các nhú biểu mô mất dần làm cho vùng tiếp giáp giữa biểu mô và mô
liên kết bị xẹp xuống làm cho lớp biểu mô dễ bị bong trước. Thời gian thay
thế tế bào biểu mô kéo dài số lượng tế bào Langerhans ít đi. Vì các biến đổi
nêu trên, nên bề mặt của niêm mạc miệng kém chịu đựng trước các kích thích
như nóng, lạnh, sức đề kháng với nhiễm trùng giảm đi, niêm mạc dễ bị tổn
thương và khi bị tổn thương thì cũng lâu lành.
Niêm mạc lưỡi
Các nghiên cứu cho thấy các gai lưỡi có hiện tượng giảm và teo. Số gai hình
dây của lưỡi giảm làm cho lưỡi có vẻ trơn láng, gai lưỡi hình đài bị teo nhiều
nhất với số lượng giảm hoặc mất dần các nụ vị giác gây ra những rối loạn vị
giác với các chất ngọt, chua, mặn….Nói chung, niêm mạc lưỡi miệng nhợt
nhạt, teo mỏng do giảm chất gian bào, giảm khả năng tăng sinh tế bào và
giảm đáp ứng miễn dịch tại chỗ cũng như toàn thân thường thấy ở người cao
tuổi.
1.2.1.3. Ảnh hưởng ở khớp thái dương – hàm và xương hàm
Khớp thái dương hàm
Ở khớp thái dương hàm thường gặp sự xơ hóa và thối hóa khơp, thể tích lồi
cầu xương hàm giảm, diện khớp trở lên phẳng, các dây chằng dão. Cùng với

sự thoái triển nêu trên, trương lực của các cơ nâng hàm và hạ hàm mất dần
làm cho khớp mất tính ổn định, vận động của hàm bị ảnh hưởng, khớp cắn
mất cân bằng dẫn đến khả năng nhai, nghiền thức ăn kém, dễ gây đau, mỏi và
có tiếng kêu ổ khớp.
Xương hàm
Xương hàm cũng có những biến đổi thối triển chung theo hệ xương của cơ
thể. Trước hết, xương hàm giảm khối lượng do độ đậm đặc bởi hiện tượng
loãng xương sinh lý. Trên phim X-quang xương, người già ít cản quang, có
những vạch sáng chiều rộng vài mm. Xương hàm người cao tuổi yếu và dễ
gãy, khi bị gãy thường can xấu và chậm. Sống hàm trên tiêu nhiều hơn theo
chiều hướng tâm, sống hàm dưới ít tiêu hơn theo chiều ly tâm. Như vậy, sau
khi mất răng, hình thái các xương hàm trên và dưới sẽ có những biến đổi sâu
sắc.
1.2.1.4. Ảnh hưởng trên các chức năng vùng miệng
Chức năng nhai
Tốc độ và biên độ chuyển động của hàm dưới giảm trong quá trình vận động
há, ngậm và độ rộng lên xuống trong khi chiều sang bên thì vẫn giữ ngun.
Vì vậy, thời gian của chu kì nhai khơng có khác nhiều so với thời kỳ trung


15

niên. Tuy nhiên, hiệu quả của nhai bị giảm sút do răng suy yếu, hệ thống môi,
má, lưỡi và các cơ giảm sự khéo léo, khả năng phối hợp.
Chức năng phát âm
Có những sự thay đổi nhất định về giọng điệu và khả năng nói theo tuổi.
Nhưng, nếu khơng có các bệnh lý liên quan thì đặc điểm này ít được chú ý.
Chức năng tạo dáng khuôn mặt
Các biến đổi nét mặ là do mất răng và do giảm hoặc mất trương lực các cơ ở
mặt. Thường có sự hạp thấp tầng mặt dưới, những thay đổi này không chỉ là

thẩm mỹ mà còn là sự trở ngại tới chức năng nhai, nuốt.
Chức năng tiết nước bọt
Nhu mô tuyến nước bọt suy thoái dẫn đến giảm tiết về số lượng nước bọt kể
cả chức năng tổng hợp các protein nước bọt, IgA giảm 2/3. Trên thực tế tình
trạng khơ miệng còn do 1 số bệnh lý ở tuyến, đặc biệt do hậu quả một số
thuốc điều trị cao huyết áp, tâm thần….
1.2. Một số đặc điểm bệnh lý răng miệng ở người cao tuổi.
Bệnh lý vùng răng miệng ở người cao tuổi cũng giống như người trẻ. Các
bệnh phổ biến như sâu răng, viêm lợi, viêm quanh răng cũng có tỉ lệ mắc rất
cao. Bên cạnh đó là sự lão hóa tổ chức ở người cao tuổi nên bệnh vùng răng
miệng cũng có những hình thái, biểu hiện lâm sáng khác biệt.
1.2.1. Các tác nhân gây bệnh:
Có rất nhiều lý do khiến vi khuẩn, nấm…có điều kiện để tụ tập, sinh sống và
phát triển ở môi trường miệng của người cao tuổi do các khe răng rộng, hở
chân răng, các răng sâu vỡ thân to, răng di lệch, khớp cắn sang chấn, miệng
khô, các răng sâu không được trám hoặc miếng trám thừa, mất răng khơng
được phục hình….đây là những điều kiện để thức ăn, mảng bám dễ tập trung,
ứ đọng trong và sau khi ăn. Tình trạng này ngày càng trở nên nặng nề hơn vì
việc tự vệ sinh răng miệng của người cao tuổi đã không được thực hiện tốt.
Bên cạnh đó, sức đề kháng của cơ thể giảm và tính chất thường mắc các bệnh
mãn tính. Miệng là nơi thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với một loạt nhân tốt
có thể gây bệnh và rất nhiều yếu tố gây kích thích, sang chấn từ các hoạt động
nhai, nuốt.
1.2.2. Bệnh lý răng
Sâu răng
Sâu răng là một bệnh ở tổ chức cứng của răng, xuất phát từ hoạt động của vi
khuẩn, đặc trưng bởi việc mất Canxi của thành phần vô cơ trong răng và tiếp
theo là phân hủy thành những chất hữu cơ, tạo thành lỗ sâu. Sâu răng lúc đầu
không đau, nhưng các biến chứng gây viêm tủy, viêm cuống răng và nặng hơn
là viêm tấy lan tỏa vùng miệng, nhiễm khuẩn huyết….đơi khi có thể dẫn tới tử

vong.


16

Ở người cao tuổi, sâu răng nói chung và sâu chân răng nói riêng có tỉ lệ mắc
cao hơn và vị trí sâu răng cũng khác so với người trẻ, ít gặp sâu răng ở mặt
nhai, mặt láng mà thường là sâu tái phát xung quanh vết trám cũ. Sâu ở chân,
cổ răng sát lợi và mặt bên răng gặp nhiều hơn.
Tiêu thân răng
Tiêu cổ răng hình chêm thường gặp phổ biến ở người cao tuổi do bệnh đã có
từ lâu và thể hiện rõ ràng hơn khi nhiều tuổi. Nguyên nhân giả thiết cho rằng
do mài mòn cơ học, quan niệm hiện nay cho rằng tiêu là do độ vi uốn kém
theo chiều ngoài – trong của các răng trong khi nhau, lực nhai tác động tới
cấu trúc tinh thể mất khả năng đàn hồi của men răng vùng cổ làm nó dễ bị vỡ
vụn. Các yếu tố gây mịn kahcs, các bệnh tồn thân như thấp khớp, bệnh gút,
hoặc là tổn thương ở tế bào tạo ngà gây loạn dưỡng tại chỗ…có thể góp phân
vào tiêu cổ răng.
Sang chấn thân răng
Mòn răng: Ở tổ chức cứng hay gặp nhất là hiện tượng mịn răng, mịn răng có
thể do nhai mòn, do tiêu mòn và mài mòn. Nhai mòn có ngun nhân do nhai,
nếu mịn trong giới hạn sinh lý, thì hiện tượng mịn răng sẽ được lớp ngà thứ
phát trong buồng tủy bù đắp lại làm răng không bị kích thích, nếu mịn q
nhanh và khơng đều thì tủy răng không đủ thời gian tái tạo ngà thứ phát gây
tổn thương, hở tủy, viêm tủy và hoại tử…Mài mịn có ngueyen nhân chủ yếu
do cơ học, do dùng bàn chải cứng hoặc thuốc chải răng có nhiều chất làm
mòn thường thấy ở vùng răng cửa, răng nanh và răng hàm nhỏ. Mịn tạo thành
rãnh, ở mặt ngồi sát với với cổ răng dần rộng và sau tạo thành những hõm
hình chêm đáy cứng màu nâu đỏ, ngà răng xơ hóa làm buồng tủy răng ngày
càng thu hẹp. Tiêu mịn do thức ăn nhiều axit, có thể do giảm tiết nước bọt

(đặc biệt ở gn cao tuổi) không trung hịa được axit mơi trường miệng làm cho
pH nước bọt thấp gây mịn răng nhanh, cũng có thể một số bệnh nhân trào
ngược dạ dày, thực quản, ợ mãn tính hay do cơng việc hít thở nhiều hơi, bụi
axit. Tất cả hậu quả của mòn răng sẽ dẫn tới hở ngà răng, kích thích tủy gây
viêm tủy, viêm quanh cuống răng, kích thích gây tiêu xương ổ răng, làm sai
lệch khớp cắn ảnh hưởng vận động nhai và khớp thái dương hàm.[6]
Mẻ thân răng: Thường gặp do khi ăn nhai cắn phải vật cứng trên các rãnh
răng đã giòn, mòn có các điểm yếu dễ gãy. Răng bị mẻ ở thân có thể chỉ ảnh
hưởng tới men hoặc cả tới ngà hoặc có liên quan tới tủy gây biến chứng tủy.
Rạn thân răng: Rất thường gặp, do tai nạn, sang chán ở khớp cắn, thay đổi
nhiệt tình ở thức ăn. Răng rạn dễ bị mẻ, gãy, tiêu xương ổ răng, dọc theo vết
gãy.
Bệnh tủy răng
Bệnh lý ở tủy răng thường thấy là viêm tủy mãn, khơng có biểu hiện lâm sàng
rõ, có thể tủy chết khơng rõ khi nào, bệnh nhân chỉ đi khám khi có các biến


17

chứng như lỗ rò, viêm quanh cuống, lung lay răng và đau…việc điều trị tủy
răng ở người cao tuổi thường khó do buồng và ống tủy hẹp, vơi hóa, gây tắc.
Hơn nữa, bệnh nhân đến khám thường là muộn khi đã có những biến chứng ở
cuống răng cộng với sức đề kháng, khả năng phục hồi vết thương thường kém
ở người cao tuổi.
Khớp thái răng hàm: Ở người cao tuổi cũng có những thay đổi đáng kể xuất
phát từ hiện tượng răng bị mất dần, các răng có hiện tượng sắp xếp lại, hệ
thống cơ nâng yếu làm cho tầng mặt dưới có xu hướng hạ thấp dần dẫn tới
những thay đổi ở khớp, sụn chêm thường gây đau, mỏi khi nhai, có tiếng kêu
ở khớp và rất dễ trật khớp.[9].
Bệnh lý quanh răng ở người cao tuổi

Bệnh quanh răng có 2 loại: viêm lợi và viêm quanh răng, cả 2 đều do vi khuẩn
gây nên, tương tác với quá trình đáp ứng miễn dịch của cơ thể. Một số yếu tố
tại chỗ hoặc tồn thân có tác động thúc đẩy và làm bệnh nặng thêm [27].
Viêm lợi
Viêm lợi có nguyên nhân tại chỗ là do vi khuẩn ở mảng bám, cao răng, bựa
răng và các yếu tố làm tăng tích lũy vi khuẩn, một số ngun nhân tồn thân
khác như các bệnh về máu, nội tiết…có biểu hiện ở lợi với các hình thài và
mức độ nặng nhẹ khác nhau. Viêm lợi có biểu hiện ban đầu chỉ là các tổn
thương tại chỗ khu trú có đau, chảy máu nhẹ đến các mức độ nặng như vết
loét, mảng hoại tử. Một số thể viêm lợi hay gặp ở người cao tuổi có ngun
nhân tồn thân là chính nhưng thường kèm theo sự tác động phối hợp của vi
khuẩn trong môi trường miệng như: viêm lợi người mãn kinh, viêm lợi do
dùng thuốc, viêm lợi trong các bệnh về máu.
Viêm quanh răng
Có đầy đủ các biểu hiện lâm sàng như viêm lợi, ngồi ra cịn có túi lợi bệnh
lý, có thể có răng lung lay, răng di lệch do xương ổ răng tiêu nhiều, cùng với
hiện tượng mất bám dính của lợi làm chân răng bị bộc lộ ít hay nhiều trong
môi trường miệng. Viêm quanh răng ở người cao tuổi thường diễn biến mãn
tính, hoặc bán cấp, các triệu chứng tại chỗ ít ồ ạt, tiến triển chậm, phá hủy từ
từ. Tiên lượng viêm quanh răng ở người cao tuổi thường xấu, dễ dẫn đến mất
răng. Ở những trường hợp bị bệnh tiểu đường, khả năng mắc viêm quanh răng
tăng lên, khả năng mất răng rất cao.
Viêm quanh cuống răng hay viêm dây chằng quanh cuống
Là bệnh lý rất thường gặp bởi tủy chết do không được điều trị kịp thời gây
nhiễm khuẩn mơ quanh chóp răng. Do sự xơ hóa của dây chằng nên thường
có biểu hiện của viêm mãn tính với lỗ rị ở ngách tiền đình, hoặc ở phía mặt
lưỡi, mặt hàm ếch….1.4. Bệnh quanh răng ở người cao tuổi.
1.4.1. Một số đặc điểm lâm sàng bệnh quanh răng ở người cao tuổi



18

Theo tổ chức Y tế thế giới, bệnh quanh răng gặp phổ biến ở mọi quốc gia và
hay gặp nhất là viêm lợi và viêm quanh răng. Biểu hiện chỉ viêm lợi ở ngồi
liên quan tới mảng bám cịn liên quan đến các yếu tố khác như virus, nấm,
bệnh niêm mạc, dị ứng, bệnh toàn thân…tiến triển của viêm lợi có thể tồn tại
một thời gian dài, nhiều trường hợp sẽ tiến tới viêm quanh răng.
Viêm quanh răng có thể mãn this, thể tiến triển và viêm quanh răng như là
một biểu hiện lâm sàng của bệnh toàn thân. Ở người cao tuổi, bệnh thường
mãn tính hoặc bán cấp, tiến triển từ chậm đến trung bình, từng đợt, có giai
đoạn tiến triển nhanh. Tiêu xương ổ răng làm cho tỉ lệ thân răng lâm sáng lớn
hơn phần chân răng trong xương, lực đòn bẩy gây sang chấn khi ăn nhai, phá
hủy dây chằng quanh chân răng, tiêu hủy xương ổ răng làm cho răng lung lay.
Tiên lượng bệnh quanh răng ở người cao tuổi thường nặng bởi túi lợi sâu và
điều trị kết quả chậm, phục hồi kém.
1.4.2. Một số hiểu biết về bệnh căn, bệnh sinh và yếu tố nguy cơ
Vi khuẩn: Mảng bám răng hay màng vi khuẩn là nguyên nhân gây bệnh chủ
yếu. Mảng bám tích tụ và dính vào răng. Ban đầu, vi khuẩn tập trung cư trú ở
mảng bám trên lợi, sau đó lấn sâu xuống dọc chân răng tạo mảng bám dưới
lợi. Mảng bám trên lợi đặc trưng bởi vi khuẩn Gr (+) khác với mảng bám dưới
lợi do vi khuẩn Gram (-), kỵ khí đặc hiệu trong dịch lợi mà kháng nguyên và
độc tố của chúng thâm nhập vào mô quanh răng, khởi đầu là phản ứng viêm,
tiếp đến là đáp ứng miễn dịch quá mẫn tại chỗ gây hủy hoại tổ chức leien kết
tạo ra túi lợi.
Cao răng: Là mảng bám bị khống hóa cứng lại. Độ dày sẽ tăng nhanh nếu
mảng bám khơng được kiểm sốt, cao răng khơng được lấy bỏ định kì. Q
trình hình thành có vai trị của vi khuẩn và các ion Ca++ và PO4- - trong nước
bọt. Cao răng với vai trị tích tụ các kháng nguyên xác vi khuẩn, độc tố nội và
ngoại sinh phối hợp làm cho viêm nhiễm tăng.
Đáp ứng miễn dịch của cơ thể: Nhiều nghiên cứu cho thấy số lượng vi

khuẩn sống của mảng bám răng ở người cao tuổi ít quan trọng và có sự liên
quan giữa mảng bám với viêm lợi nhưng khơng tahays có mỗi liên quan giữa
mảng bám và viêm quanh răng. Như vậy, hình như do q trình lão hóa với sự
suy giảm miễn dịch đặc biệt là miễn dịch tế bào có thể đã làm giảm hiện
tượng quá mẫn ở mô quanh răng và làm cho viêm quanh răng ở người cao
tuổi tiến triển chậm.
Các yếu tố nguy cơ khác: Thay đổi môi trường miệng là yếu tố quan trọng
nhất. 80-90% trong nhóm người viêm quanh răng thường mắc những bệnh
mãn tính phải dùng thuốc, trong số đó có những thuốc gây xáo trộn cân bằng
vi khuẩn miệng, tạo điều kiện cho sự phát triển của một số chủng gây bệnh
quanh răng. Ở những người có bệnh tiểu đường, khả năng mắc bệnh quanh
răng tăng và nặng với sự đáp ứng kém của tổ chức. Những người không chăm


19

sóc răng miệng thường xuyên bệnh quanh răng có nguy cơ xuất hiện cũng cao
hơn. Hút thuốc là là một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng của bệnh
quanh răng.
1.5. Vấn đề kiến thức, thái độ và thực hành sức khỏe răng miệng ở người cao
tuổi.
Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đã được đặc biệt quan tâm ở nước ta cũng
như nhiều quốc gia trên Thế giới, song với việc chăm sóc sức khỏe răng
miệng nói riêng ở người cao tuổi cịn ít được quan tâm và triển khai một cách
hệ thống. Những người cao tuổi thường thiếu những thơng tin cần thiết để tự
chăm sóc bảo vệ sức khỏe răng miệng, bản thân họ cũng khơng tích cực trong
việc thực hiện các biện pháp vệ sinh răng miệng như: ít chải răng, hay thực
hiện các thói quen không tốt cho răng miệng như xỉa tăm, đánh cau kho, ăn
trầu, hút thuốc…[19],[30].
Khi gặp các vấn đề về răng miệng họ cũng ít đi khám nha sĩ hơn những người

trẻ, họ mặc nhiên chấp nhận và chịu đựng đau, khó nhau hay khó chịu ở vùng
răng miệng…Cũng vì vậy, nguyện vọng của họ thường rất thấp so với nhu
cầu thực tế cần được chăm sóc, điều trị. Đồi với một bộ phận những người có
sức khỏe yếu hay khuyết tật khơng độc lập trong sinh hoạt cá nhân thì các vấn
đề trên càng trở nên nặng nề. [29],[31],[40]
1.5.1. Đặc điểm chung.
Sức khỏe là biểu hiện của nhiều yếu tố tác động, trong đó vấn đề kiến thức,
thái độ và thực hành sức khỏe đóng vai trị cực kì quan trọng, nó có thể thúc
đẩy tình trạng sức khỏe tốt lên hay xấu đi.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Kiến thức về chăm sóc sức khỏe răng miệng
ở người cao tuổi chủ yếu là kinh nghiệm tích lũy của bản thân hoặc do người
khác truyền lại, mà trên thực tế theo quan điểm y học hiện đại thì các kinh
nghiệm đó đoi khi đi ngược lại và cso thể làm cho tình trạng sức khỏe răng
miệng xấu đi. Hơn nữa, kiến thức chăm sóc răng miệng ở người cao tuổi cũng
phụ thuộc nhiều yếu tố như: Trình độ văn hóa, nghề nghiệp, mức sống, khu
vực sinh sống, sự tự tìm hiểu của từng cá nhân…Thơng thường ý niệm về
bệnh tật chỉ được quan tâm khi có cảm giác đau, thẩm mỹ bị ảnh hưởng, giao
tiếp xã hội bị hạn chế. Đây là những nhận biết có thể có ở hầu hết người cao
tuổi. Nhưng nếu để hiểu nguyên nhâ, hậu quả và các biện pháp phịng chống
bệnh thì đa số tỏ ra không biết hoặc hiểu sai các kiến thức cơ bản, thông
thường. Thực tiễn này đặt ra trách nhiệm cho vấn đề giáo dục nha khoa trong
chương trình nâng cao hiểu biết đối với sức khỏe răng miệng cho người cao
tuổi [39],[45].
Trên cơ sở nhận thức và thái độ có nhiều hạn chế nên thực hành chăm sóc sức
khỏe răng miệng của người cao tuổi đã thể hiện nhiều yếu tố tiêu cực: Cách
thức vệ sinh răng miệng khơng tốt, biểu hiện bằng việc ít chải răng và kỹ


20


thuật chải răng không tốt. Họ sử dụng nhiều biện pháp vệ sinh răng miệng
khơng cơ bản và có nhiều thói quen khơng tốt cho sức khỏe răng miệng. Rất ít
khơng cơ bản và có nhiều thói quen khơng tốt cho sức khỏe răng miệng. Rất ít
người có thói quen đi khám răng miệng định kì để phát hiện và điều trị sớm
[11],[19].
1.5.2. Các yếu tố tác động đến kiến thức, thái độ và thực hành sức khỏe răng
miệng ở người cao tuổi.
Sức khỏe răng miệng người cao tuổi chịu sự tác động của nhiều yếu tố. Sức
khỏe kém có thể bắt nguồn từ những nguy cơ nội tại do sự ngấm vôi kém ở
men răng, răng mọc lệch lạc, chen chúc…Nguy cơ cũng đến từ các thói quen
có hại: Hút thuốc, uống rượu, ăn trầu…Các yếu tố ảnh hưởng khác có thể do
trình độ học vấn, mức thu nhập khơng cao, sức khỏe chung yếu, tập qn văn
hóa và nhất là yếu tố khơng được chăm sóc bởi các dịch vụ nha khoa. Các yếu
tố này liên quan chặt chẽ với nhau và cần được tìm hiểu để đưa ra giải pháp
can thiệp hợp lý. Nhằm tăng cường nhận thức, thay đổi thái độ, hành vi sức
khỏe người cao tuổi, chúng ta cần giúp họ loại bỏ những thói quan có hại,
gáio dục các đối tượng tự chăm sóc sức khỏe răng miệng có khoa học và ó ý
thức thưm khám răng định kì tại các cơ sở nha khoa. Đây là một q trình cần
có sự tác động nhiều mặt, nhưng ý thức bản thân luôn luôn là một yếu tốt
quyết định quan trọng nhất [10].
1.6. Vấn đề chăm sóc sức khỏe răng miệng người cao tuổi [11],[9],[18],[19]
Tỷ lệ người cao tuổi mắc các bệnh về răng miệng rất cao, đặc biệt là sâu răng
và viêm quanh răng, dẫn tới tình trạng mất răng, từ đó kéo theo nhiều các vấn
đề sức khỏe liên quan khác.
Trên cơ sở hiểu biết về nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ, nhiều bệnh răng
miệng đã được phòng ngừa một cách hiệu quả. Theo từng lứa tuổi mà người
ta đưa ra các biện pháp phòng bệnh, khám chữa bệnh, theo dõi bệnh phù hợp.
Đối với trẻ em qua chương trình nha học đường đã đem lại hiệu quả rất lớn là
hạ thấp tỷ lệ bệnh răng miệng ở trẻ em trên phạm vi Thế Giới [9]. Đối với
người cao tuổi, chương trình CSSKRM cũng đã được quan tâm tập trung vào

3 biện pháp là giáo dục nha khoa, tổ chức các cơ sở dịch vụ khám chữa định
kì và kiểm tra theo dõi. Kết quả thu được, trước hết phụ thuộc vào chính các
đối tượng nhận sự chăm sóc, tiếp đó là khả năng chuyên ngành đồng thời có
sự quan tâm về chính sách của xã hội thơng qua vai trị trợ giúp của phúc lợi
xã hội, bảo hiểm y tế như: Fluor hóa nước uống, vấn đề giáo dục cộng đồng,
khám chữa bệnh răng miệng
1.6.1. Vấn đề giáo dục nha khoa.
Vấn đề giáo dục cộng đồng cần được thực hiện ở các cộng đồng dân cư thơng
qua các hình thức truyền tải nội dung giáo dục như truyền thanh, truyền hình,
báo, tờ rơi….với các nội dung như giáo dục kĩ năng chải răng, sử dụng chỉ tơ



×