Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tìm hiểu chất có hoạt tính sinh học trong củ gừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.16 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
Phần 1. MỞ ĐẦU 3
Phần 2. TỔNG QUAN 5
2.1 Tổng quan về họ gừng [1],[17] 5
2.1.1 Nguồn gốc và lịch sử phát triển 5
Gừng từ xuất phát từ tiếng Phạn cổ singabera, có nghĩa là “có hình dạng như
một cái sừng’’. Nó xuất hiện đầu tiên trong các tác phẩm của Khổng Tử trong
thế kỷ 5 trước Công nguyên, và nó đã được sử dụng trong y học ở phương Tây ít
nhất 2000 năm. Nó đã được giới thiệu bởi người Tây Ban Nha đến châu Mỹ và
hiện đang trồng rộng rãi ở Tây Ấn. Người Bồ Đào Nha giới thiệu nó đến Tây
Phi. Nó được sử dụng để làm ấm dạ dày và xua tan cái lạnh. Trong thế kỷ
18 gừng vẫn được sử dụng ở Trung Quốc để giảm độc tính của một số loại thảo
mộc và giảm tác động kích thích trên dạ dày của họ Tên chung của gừng có
nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp gừng, mà xuất phát từ tên tiếng Phạn của gia vị,
singabera. Sử dụng của nó ở Ấn Độ và Trung Quốc đã được biết đến từ thời cổ
đại, và những người buôn bán thế kỷ 1 đã lấy gừng vào khu vực Địa Trung
Hải. Vào thế kỷ 11 nó đã nổi tiếng ở Anh. Người Tây Ban Nha đã mang nó đến
Tây Ấn và Mexico ngay sau khi chinh phục, và 1547 gừng được xuất khẩu từ
Santiago đến Tây Ban Nha. [15] 5
2.1.2 Đặc điểm thực vật học [1],[18] 7
2.1.3 Thành phần hóa học [6],[10],[30] 7
2.1.4 Những công dụng của thực vật họ gừng 8
2.1.4.1 Gừng trong thực phẩm [3],[4] 8
2.1.4.2 Tác dụng dược lý trong y học 13
2.2 Tổng quan về chất có hoạt tính sinh học trong thực vật 15
2.2.1 Ankaloids [29],[31] 15
2.2.2 Flavonoid [29],[32] 15
2.2.3 Glycosid [29],[30] 16
2.2.4 Coumarin [29],[33] 16
2.2.5 Terpenoid [30],[34] 16
2.2.6 Steroid [29],[35] 17


2.2.7 Saponin [30],[36] 17
Phần 3 18
MỘT SỐ HOẠT TÍNH SINH HỌC TRONG THỰC VẬT HỌ GỪNG 18
3.1 Zerumbone 18
1
3.1.1 Tên, CTHH 18
3.1.2 Tác dụng của Zerumbone 19
3.1.3 Công trình nghiên cứu 19
3.2 Zingeron 20
3.2.1 Tên, CTHH 20
3.2.3 Đặc điểm và công dụng của Zingerone 20
3.3 Gingerol 21
3.3.1 Tên, CTHH 21
3.3.2 Đặc điểm của Gingerol 21
3.3.3 Tác dụng của Gingerol 22
3.3 Shogaol 23
3.3.1 Tên, CTHH 23
3.3.2. Các tác dụng chung của gingerol và shogaol 24
KẾT LUẬN 25
Tài liệu tham khảo 26
Trang web 27
2
Phần 1. MỞ ĐẦU
Từ lâu nhân dân ta đã kết hợp các loại nguyên liệu khác nhau đồng thời
bổ sung các loại gia vị có sẵn trong tự nhiên nhằm tăng hương vị của món ăn.
Các loại cây gia vị được sử dụng mà đến nay vẫn còn là: ớt, tỏi, hành, sả, quế,
gừng, rau răm, nghệ… trong đó những thực vật thuộc họ củ gừng, nghệ là những
cây gia vị đặc biệt.
Thực vật thuộc họ gừng gồm gừng, nghệ, riềng, đậu khấu, sa nhân…được
biết đến không chỉ làm gia vị góp phần tạo hương vị đặc trưng, kích thích sự

ngon miệng và tạo sự hấp dẫn mà còn là những loại dược liệu quý cho sức khỏe
con người.
Ngày nay, những hợp chất tự nhiên có hoạt tính sinh học được phân lập từ
gừng, nghệ đã được ứng dụng trong rất nhiều ngành công nghiệp, nông nghiệp
và chăm sức khỏe con người. Chúng được dùng để sản xuất thuốc chữa bệnh,
làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp thực phẩm v.v
Mặc dù công nghiệp tổng hợp hóa dược ngày nay đã phát triển mạnh mẽ,
tạo ra các dược liệu khác nhau sử dụng trong công tác phòng chống, chữa bệnh,
nhờ đó giảm tỷ trọng tử vong rất nhiều, song những đóng góp của các thảo dược
thuộc họ gừng cũng không vì thế mà mất đi chỗ đứng trong y học. Nó vẫn tiếp
tục được dùng như là nguồn nguyên liệu trực tiếp, gián tiếp hoặc cung cấp
những chất ban đầu cho công nghiệp bán tổng hợp nhằm tìm kiếm những dược
3
phẩm mới cho việc điều trị các chứng bệnh thông thường cũng như các bệnh nan
y. [25]
Để góp phần làm rõ thành phần, tính năng của các chất có hoạt tính sinh
học trong gừng, nghệ tôi chọn đề tài: “ Tìm hiểu chất có hoạt tính sinh học
trong củ gừng ”.
4
Phần 2. TỔNG QUAN
2.1 Tổng quan về họ gừng [2],[17]
Gừng thuộc họ Zingiberaceae, họ này có khoảng 47 chi và hơn 1.000 loài,
phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chủ yếu ở nam và đông nam châu Á.
Trong đó gừng thuộc chi Zingiber,
có tên khoa học là Zingiber
officinale-Rosc, gừng còn được gọi
là khương, sinh khương, can
khương; nghệ thuộc chi Curcuma,
tên khoa học là Curcuma domestica-
Val hay Curcuma longa- L, nghệ

còn được gọi với cái tên khác là uất
kim, khương hoàng, safran des
indes; gừng gió Zingiber zerumbet
với tên thường gọi như ngải xanh, ngải mặt trời, phong khương (Trung Quốc);
còn riềng Alpinia officinarum-Han thuộc chi Alpinia. Theo Những cây thuốc và
vị thuốc Việt Nam của GS - TS Đỗ Tất Lợi, NXB Y học, 2004) Gừng gió còn có
tên khác: riềng gió, ngải xanh, ngải mặt trời, riềng dại; khuhet phtu, brateal,
vong atic (Campuchia); ginembrefou (Pháp), phong khương, khinh keng (Tày),
gừng dại, gừng giềng. Ngoài ra còn có một số loài thuộc họ gừng như
ré (Alpinia speciosa- K. Chum), thảo quả (Amomum tsaoko-Roxb) và sa
nhân (Amomum villosum-Lour).
2.1.1 Nguồn gốc và lịch sử phát triển
Gừng gốc ở Ấn Độ và Malaixia, hiện có mọc ở tất cả ở các xứ nóng. Ấn
Độ, Nhật Bản, Úc là những nước trồng nhiều gừng để xuất khẩu. Ở nước ta,
gừng được trồng khắp mọi nơi, chủ yếu có nhiều ở Hải Phòng (Cát Bi), Cao
Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Sơn La, Lào Cai. [1]
Gừng từ xuất phát từ tiếng Phạn cổ singabera, có nghĩa là “có hình dạng như
một cái sừng’’. Nó xuất hiện đầu tiên trong các tác phẩm của Khổng Tử
5
trong thế kỷ 5 trước Công nguyên, và nó đã được sử dụng trong y học ở
phương Tây ít nhất 2000 năm. Nó đã được giới thiệu bởi người Tây Ban Nha
đến châu Mỹ và hiện đang trồng rộng rãi ở Tây Ấn. Người Bồ Đào Nha giới
thiệu nó đến Tây Phi. Nó được sử dụng để làm ấm dạ dày và xua tan cái
lạnh. Trong thế kỷ 18 gừng vẫn được sử dụng ở Trung Quốc để giảm độc
tính của một số loại thảo mộc và giảm tác động kích thích trên dạ dày của
họ Tên chung của gừng có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp gừng, mà xuất phát
từ tên tiếng Phạn của gia vị, singabera. Sử dụng của nó ở Ấn Độ và Trung
Quốc đã được biết đến từ thời cổ đại, và những người buôn bán thế kỷ 1 đã
lấy gừng vào khu vực Địa Trung Hải. Vào thế kỷ 11 nó đã nổi tiếng ở
Anh. Người Tây Ban Nha đã mang nó đến Tây Ấn và Mexico ngay sau khi

chinh phục, và 1547 gừng được xuất khẩu từ Santiago đến Tây Ban Nha.
[15]
Từ năm 1585, Jamaica là người đầu tiên phát hiện gừng có ở phương
Đông và sau đó được nhập khẩu sang châu Âu. Ấn Độ chiếm hơn 30% thị phần
toàn cầu và đang dẫn đầu trong sản xuất gừng, tiếp theo là Trung Quốc xếp vị trí
thứ hai (20,5%), tiếp theo là In-đô-nê-xi-a (~ 12,7%), Nepal (~ 11,5%) và Thái
Lan (~ 10%). [3]
Thảo mộc thơm này đi bằng nhiều cái tên mà trước hết, nó đi bằng tên
loài khoa học của nó Zingiber officinale . Carl Linnaeus, một nhà thực vật học
Thụy Điển, sản xuất tên Zingiber officinale . Tên khoa học này có thể được sử
dụng để xác định một loại cây nhiệt đới ở Châu Á và cây lâu năm Polynesian:
gừng. Nó cũng đi theo sau bí danh: “thức ăn gừng, gừng vườn, rễ gừng”.[5]
Cây gừng đã được rất phổ biến - để nấu ăn như gia vị và để điều trị một
loạt các bệnh - trên khắp châu Á, đặc biệt là ở Ấn Độ và Trung Quốc, trong hơn
5000 năm về trước. Từ thời đại các vua Hùng (2879 – 287 trước Công nguyên),
tổ tiên ta đã dùng gừng ăn với thịt chim, cá, ba ba cho đỡ lạnh, dễ tiêu. Từ đó đã
hình thành tục sử dụng gừng, hành, tỏi, ớt, tía tô… làm gia vị trong bữa ăn hằng
ngày để phòng bệnh. Ngày nay, hầu như gừng không vắng mặt trong bữa ăn
hàng ngày của nhân dân ta trong việc làm gia vị chế biến thực phẩm. [1]
6
2.1.2 Đặc điểm thực vật học [2],[18]
Đặc điểm chung của thực vật thuộc
họ gừng: Cây thảo đa niên, mọc thành bụi
cao 0,5 đến 1m. Thân rễ phát triển phình
to thành củ, phân nhánh xòe ra gần như
trên cùng một mặt phẳng, màu vàng nhạt,
mùi thơm, khi già có xơ, xung quanh củ có
các rễ tơ. Rễ và củ chỉ phát triển tập trung
ở lớp đất mặt sâu từ 0 – 15 cm. Lá mọc so
le, màu xanh đậm, dài 15 – 20 cm, rộng

khoảng 2cm, không cuống, có bẹ ôm lấy
thân, hình mác, mặt nhẵn bóng, gân giữa hơi trắng nhạt, có mùi thơm. Cây gừng
ít khi ra hoa, trục hoa xuất phát từ gốc dài cỡ 20 cm, cụm hoa thành bông mọc
sít mang nhau. Hoa màu vàng pha xám tím, dài 5cm, rộng 2 – 3 cm, lá bắc hình
trứng, dài 2,5 cm, mép lưng màu vàng, đài hoa dài chừng 1 cm, có 3 răng ngắn,
3 cánh hoa dài 2 cm, màu vàng xanh, mép cánh hoa màu tím, nhị cũng màu tím,
mùa hoa: tháng 5 – 8.
2.1.3 Thành phần hóa học [5],[12],[26]
Trong thực vật họ gừng thành phần chủ yếu là nước, protein, chất béo,
tinh dầu như d-camphor, β-phelandren, zingiberen, citral, borneol, geraniol; chất
cay: gingerol, shogaol; tinh bột; lipid; nhựa dầu.
Ngoài ra còn có một số các nguyên tố như: Ca, Fe, Mg, P, K, Na, Mn…,
một số loại vitamin như C, B3…
Tuy nhiên, mỗi loại cây khác nhau thì thành phần hóa học khác nhau.
7
Bảng 2.1 Thành phần hóa học trong gừng
Thành phần
Trong 100 g củ gừng
tươi
Trong 100 g củ gừng
khô
Năng lượng 333 kJ (80 kcal) 1.404 kJ (336 kcal)
Carbohydrates 17,77 g 71,62 g
Đường 1,70 g 3,39 g
Chất xơ thực phẩm 2,0 g 14,1 g
Fat 0,75 g 4,24 g
Protein 1,82 g 8,98 g
Vitamin A 0 IU 30 IU
Vitamin C 5,0 mg (6%) 0,7 mg (1%)
Photpho 34 mg (5%) 168 mg (24%)

Kali 415 mg (9%) 1320 mg (28%)
Nguồn: USDA Cơ sở dữ liệu dinh dưỡng.
Trong nghệ có chứa protein (6,3%), chất béo (5,1%), khoáng chất
(3,5%) carbohydrate (69,4%) và độ ẩm (13,1%). Tinh dầu (5,8%) thu được
bằng cách chưng cất hơi nước của thân rễ có một phellandrene (1%),
sabinene (0,6%), cineol (1%), borneol (0,5%), zingiberene (25%) và
sesquiterpines (53%).
Khi xét thành phần hóa học của cùng một loại thì nhận thấy rằng thành
phần hóa học cụ thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như điều kiện phát
triển, thời gian thu hoạch, thời gian và điều kiện bảo quản.
2.1.4 Những công dụng của gừng
2.1.4.1 Gừng trong thực phẩm [3],[6]
- Gừng được sử dụng từ củ giã nhuyễn hoặc cắt lát ướp vào làm gia vị khi
chế biến món ăn.
- Nhờ vào vị cay, mùi thơm đặc trưng dùng trong chế biến các món ăn như
cá, hải sản nấu với cải xanh, nấu chè khoai lang, tàu hủ…
- Ướp gừng trong 30 phút trước khi kho thịt, cá (nhất là cá biển như cá ngừ,
cá nục) không chỉ làm tăng mùi thơm mà còn giúp giải độc, thiệt tiêu tính gây dị
ứng của cá, thịt nữa. Đó là do trong gừng có một enzym phân giải protein.
- Làm bánh, mứt, kẹo, rượu bia (châu Âu, châu Mỹ).
8
- Có tác dụng chống oxy hóa. Khi nấu thức ăn có gừng tươi sẽ làm chậm sự
biến chất của thức ăn.
- Cất gừng tươi trong tủ lạnh, không gói. Dùng để cho vào nước xốt và
những món ăn tối để tạo mùi thơm trước. Bột gừng được cho khi thường thức.
Gừng giúp không bị đầy hơi, khó chịu sau khi ăn. một ít trong thành phần gia vị
để ướp cho món nướng, có bột gừng thì món nướng sẽ thơm hơn. Đặc biệt bột
gừng không thể thiếu trong món gà hấp muối: muối bột rang lên, khi nóng cho
một ít bột gừng vào trộn đều với muối, nhờ độ nóng của muối sẽ làm dậy mùi,
sau đó cho thêm mỡ hoặc dầu vào muối này và đem trộn với thịt gà sau khi hấp

chín được xé ra để chuẩn bị ra đĩa. Có thể cho muối, gừng trộn dầu này làm thứ
gia vị chấm thêm cho món ăn. Không nên cho nhiều bột gừng quá sẽ làm đắng
món ăn.
 Củ gừng làm rau gia vị
- Củ gừng già với hương vị đậm đà thường được sử dụng như là một gia
vị trong công thức nấu ăn của Ấn Độ, và là một thành phần tinh túy của Trung
Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và nhiều món ăn Nam Á cho hương vị món ăn như
hải sản hoặc thịt dê và ẩm thực ăn chay và ăn kiêng.
- Ở Việt Nam củ gừng là món rau gia vị được dùng vào nhiều mục đích
như nước chấm (nước mắm gừng), tương gừng, trong nhiều món xào, món nấu
(với thịt dê, bò)…
- Ở Ấn Độ và Pakistan, gừng tươi là một trong các loại gia vị chính được
sử dụng để nấu món cà ri đậu Pulse, đậu lăng và các thực vật khác. Củ gừng như
một chất bảo quản thực phẩm hữu ích.
Bột gừng cũng được sử dụng trong một số chế phẩm thực phẩm, đặc biệt là
đối với phụ nữ mang thai hoặc cho con bú, một trong những món ăn phổ biến nhất
là katlu, là một hỗn hợp sền sệt bao gồm bơ sữa trâu lỏng, các loại hạt, và đường.
9
- Ở Bangladesh, gừng băm nhỏ hoặc nghiền thành dạng bột nhão để sử
dụng như là một cơ sở cho các món ăn thịt gà và thịt cùng với hành tím và tỏi.
- Ở Châu Âu, trong các món
ăn Châu Âu, gừng được sử dụng
chủ yếu trong các loại thực phẩm
ngọt như bánh gừng, gừng
snaps, parkin, bánh quy
gừng và speculaas.
- Ở Mianma gừng được gọi
là gyin. Nó được sử dụng rộng rãi
trong nấu ăn, món phổ biến là xà lách gyin-Thốt Nốt, trong đó bao gồm gừng cắt
nhỏ bảo quản trong dầu, và một loạt các loại quả hạch và các loại hạt.

- Ở Trung Quốc, củ gừng cắt lát hoặc toàn bộ thường được kết hợp với
các món ăn ngon như cá, và củ gừng xắt nhỏ thường được kết hợp với thịt, khi
nó được nấu chín.
- Ở Nhật Bản, gừng ngâm để làm cho Beni Shoga và Gari hoặc xát nhỏ và
sử dụng nguyên liệu trên đậu phụ hoặc mì.
- Ở hàn Quốc, trong món kim chi truyền thống, gừng được thái nhỏ và
thêm vào các thành phần của hỗn hợp cay ngay trước khi quá trình lên men.
- Ở Indonesia cũng sử dụng củ gừng gọi là jahe, như là thành phần phổ
biến trong công thức nấu ăn địa phương.
- Ở malaysia, gừng được gọi là Halia và được sử dụng trong nhiều loại
món ăn, đặc biệt là một món súp.
- Ở Việt Nam, lá gừng tươi, xắt nhỏ, cũng có thể được thêm vào món tôm
xào và canh khoai lang như một kiểu trang trí bắt mắt và chất gia vị từ lá để
thêm một hương vị tinh tế hơn nhiều so với củ gừng xắt nhỏ.
 Củ gừng được dùng làm kẹo, mứt.
- Ở Việt Nam, gừng được chế thành kẹo gừng có tác dụng chống lạnh,
thông cổ. Trong dịp tết cổ truyền thường có món mức gừng để ấm bụng và kích
thích tiêu hóa.
10
- Ở Ấn Độ và Pakistan, Gừng cũng được sử dụng dưới dạng kẹo
ngậm. Kẹo gừng là củ gừng nấu đường cho đến khi mềm, và là một loại bánh
kẹo dùng phổ biến để uống trà.
- Ở Nhật bản gừng cũng được
làm thành kẹo gọi là Shoga không
zuke Sato .
Tuy nhiên, kẹo gừng đôi khi là
một thành phần của hộp kẹo Trung
Quốc, và trà thảo dược cũng có thể
được chế biến từ gừng.
 Gừng được dùng như nước trà

Trà gừng là một thức uống ở nhiều nước Châu Á, được làm từ củ gừng.
Trà ủ từ gừng là một phương thuốc dân gian phổ biến để chống cảm lạnh
ở nhiều nước.
- Ở Ấn Độ và Pakistan, gừng tươi hoặc sấy khô được sử dụng để trà và cà
phê vị gừng, đặc biệt là vào mùa đông.
- Ở Trung Quốc, trà gừng
được chế bằng cách bóc vỏ và thái
lát gừng đun trong nước cho đến
sôi, đường nâu (tốt nhất từ mía lau)
thường được thêm vào. Cắt lát
trái cam hoặc chanh thêm vào để
tạo thêm hương vị. Trà gừng có tác
dụng chống lạnh, giải cảm.Trà thảo
dược cũng có thể được chế biến từ
gừng.
- Ở Hàn Quốc, trà gừng được gọi là cha saenggang. Nó có thể được thực
hiện bằng cách đun sôi lát gừng hoặc bằng cách trộn nước nóng vào gừng ngọt
được bảo quản. Có nhiều nới gừng thát lát được tẩm với mật ong lưu trữ trong
một vài tuần như mứt, pha nưới sôi được món nước trà gừng.
11
- Ở Nhật Bản trà gừng được gọi là shogayu. Dùng uống chống lạnh và
giải nhiệt.Ở Philippines, trà gừng được gọi là salabat, phục vụ trong các tháng
tương đối lạnh vào mùa đông. Từ trà gừng với thành phần chính là gừng tươi,
có hương vị cay và kích thích.
- Ở Indonesia, một thức uống gọi là wedang jahe được làm từ gừng
và đường cọ.
- Ở Ả Rập và một số nước Trung Đông, gừng được gọi là zanjabil, và bột
gừng được sử dụng như là một gia vị cho cà phê và sữa.
- Ở Somaliland, gừng được gọi là sinjibil, được phục vụ trong các cửa
hàng cà phê tại Ai Cập.

- Ở Bờ Biển Ngà, gừng nghiền nát và trộn với cam, dứa và chanh để sản
xuất nước hoa quả được gọi là nyamanku .
- Ở Yêmen, bột gừng được sử dụng trong hawaij, một hỗn hợp gia
vị được sử dụng chủ yếu do người Do Thái Yemenite dùng cho súp và cà phê.
- Ở Anh, gừng cũng được sử dụng làm gia vị thêm vào cà phê nóng, trà nóng.
 Gừng dùng trong nước uống có gas
Loại nước uống Soda gừng Ginger ale và bia gừng cũng uống say như
như các loại bia khác nhưng có tác dụng tốt cho dạ dày được một số quốc gia
Châu Âu và Nam Mỹ nơi mà công nghệ đồ uống phát triển, nước uống có gas từ
gừng được khai thác.
- Ở Pháp, rượu gừng là một dạng rượu mùi với tên gọi là Canton được sản
xuất tại Jarnac.
- Ở Anh rượu gừng “Green” là một loại rượu có vị gừng được sản xuất
với chai thủy tinh màu xanh lá cây.
- Ở đảo Corfu, Hy Lạp, một thức uống truyền thống có gừng gọi
là tsitsibira , một loại bia gừng, được phổ biến. Thức uống này bắt nguồn từ
người Hoa kỳ gốc Anh khi Hoa Kỳ chiếm đóng hòn đảo Ionian.
- Ở Jamaica làm bia gừng như là một loại thức uống tươi và thức uống có
gas trong gia đình. Trà gừng thường được làm từ gừng tươi, cũng như đặc sản
bánh gừng Jamaica nổi tiếng khu vực.
12
2.1.4.2 Tác dụng dược lý trong y học
 Theo Đông y
Gừng có vị cay, tính ấm, vào 3 kinh phế, tỳ, vị, có tác dụng phát biểu, tán
hàn ôn trung, tiêu đàm, hành thủy, giải độc. Trong hầu hết các thang thuốc Đông
y, dù bệnh hàn hay nhiệt, hư hay thực, các thầy thuốc vẫn thường dùng từ 3 đến
5 lát gừng sống. Ngoài tác dụng hạn chế bớt tính lạnh của các vị thuốc hàn, cách
phối hợp này còn giúp cho tỳ vị dễ hấp thu thuốc và người bệnh khỏi nôn ra đối
với những thuốc khó uống. Ngoài ra tùy theo hình thức sử dụng, gừng có nhiều
công dụng khác nhau.

Gừng sống còn gọi
là sinh khương có tác dụng
phát tán phong hàn, chống nôn
ói. Gừng khô còn gọi là can
khương, có tính nóng hơn sinh
khương, có thể làm ấm tỳ vị.
Gừng đốt cháy tồn tính còn
gọi là hắc khương. Hắc
khương có vị đắng, thường
được tẩm đồng tiện, có thể làm ấm can thận, giáng hư hỏa. Vỏ gừng được gọi
là khương bì có tác dụng lợi tiểu. Trong kỹ thuật bào chế, gừng cũng có thể giúp
cho thầy thuốc đạt được một số mục đích quan trọng. Sinh địa nấu với gừng sẽ
hạn chế bớt tính mát. Bán hạ chế với gừng để giải độc. Một số loại thuốc khác
như sâm, đinh lăng cũng thường được tẩm gừng, sao qua để tăng tính ấm và
dẫn vào phế vị.[33]
- Ở Trung Quốc, gừng được bao gồm trong một số toa thuốc truyền
thống. Một thức uống gồm củ gừng thái lát nấu nước với đường nâu hoặc với
nước cola được sử dụng như một loại thuốc dân gian để trị bệnh cảm lạnh thông
thường. Người Trung Quốc cũng làm một loại kẹo gừng khô được lên men trong
nước ép mận có đường, thường được dùng để ngăn chặn bệnh ho. Trong lịch sử
Y học Trung Quốc cũng đã dùng gừng để điều trị viêm, nhưng một số nghiên
13
cứu khoa học hỗ trợ, cho thấy gừng trị bệnh viêm khớp không có tốt hơn so
với các loại tân dược hiện đại.
- Ở Mianma, gừng và chất tạo ngọt địa phương được làm từ nước cốt trái
cây cọ (htan nyat ) được đun sôi với nhau và được dùng để phòng ngừa cúm.
Gừng là vị thuốc chính trong các bài thuốc y học cổ truyền.
- Ở Congo, gừng nghiền nát và trộn với nhựa cây xoài để làm ra
thuốc tangawisi nước, được coi là một thuốc chữa bách bệnh.
- Ở Ấn Độ, gừng xắt lát được dán lên trán để làm giảm đau đầu, và được

sử dụng để ăn khi bị cảm lạnh thông thường. Gừng với chanh muối chanh cũng
được sử dụng chống buồn nôn.
- Ở Indinesia gừng được dùng để chống mệt mỏi, ngăn ngừa và chữa trị
bệnh thấp khớp và kiểm soát thói quen ăn uống nghèo dưỡng chất.
 Theo Tây y
Các nghiên cứu sơ bộ trong Tây y cho biết:
Nghiên cứu sơ bộ cho thấy 9 hợp chất tìm thấy trong gừng có thể liên kết
với các thụ thể serotonin của con người có thể ảnh hưởng đến chức năng đường
tiêu hóa .
Nghiên cứu thực hiện trong thử nghiệm in vitro cho thấy chiết xuất từ
gừng có thể kiểm soát số lượng các gốc tự do và peroxy lipid.
Nghiên cứu sơ bộ liên quan đến tác dụng của gừng trên buồn nôn xảy ra
khi mang thai cho thấy rằng uống gừng có thể gây ra ợ hơi sau khi ăn.
Trong một nghiên cứu năm 2010, tiêu thụ hàng ngày của gừng đã được
hiển thị để giúp giảm đau cơ bắp kết hợp với tập thể dục 25%.
Gừng đã được xác định trong một nghiên cứu để giúp làm giảm các dấu
hiệu viêm đại tràng do PGE2, do đó cho thấy một biện pháp ngăn ngừa ung thư
ruột kết.
Trong các nghiên cứu hạn chế, gừng đã được tìm thấy có hiệu quả hơn so
với thuốc chống buồn nôn do say sóng , ốm nghén và hóa trị liệu, mặc dù gừng
không được tìm thấy tác dụng cao hơn giả dược (Placebo) khi điều trị buồn
nôn sau phẫu thuật.
14
Các nghiên cứu ban đầu cho thấy rằng gừng có tác động đến bệnh viêm
khớp hoặc có máu loãng và giảm cholesterol, nhưng những hiệu ứng này vẫn
chưa được xác nhận.
Trong nghiên cứu sơ bộ gừng có tác dụng ngăn đục thủy tinh thể do bệnh
tiểu đường thông qua các cơ chế antiglycating.
Chất Zingerone trong gừng có hoạt động chống trực khuẩn Escherichia
coli gây ra bệnh tiêu chảy.

Ở Hoa Kỳ, gừng được sử dụng để ngăn chặn say sóng do tàu, xe và chống
buồn nôn khi phụ nữ ốm nghén. Nó được công nhận là an toàn bởi Cục Quản lý
thực phẩm và dược phẩm và được bán như là một chế độ ăn uống bổ
sung không được kiểm soát. Nước gừng cũng được sử dụng để tránh chuột
rút do nhiệt do vận động thể thao.
2.2 Tổng quan về chất có hoạt tính sinh học trong thực vật
2.2.1 Ankaloids [25],[27]
Ankaloids là một hợp chất hữu cơ có cấu tạo phức tạp mà mỗi phân tử của
nó đều chứa ít nhất một nguyên tử nitơ dưới dạng dị vòng. Do đó nó là nhóm
hợp chất không thuần khiết về mặt hóa học. Hiện nay người ta đã tìm được
khoảng gần 600 ankaloids và chủ yếu là các chất ít tan trong nước nhưng dễ tan
trong các dung mô hữu cơ.
2.2.2 Flavonoid [25],[28]
Flavonoid là dó xẫn xuất của phenol có hầu hết ở người, động vật, thực
vật và vi sinh vật do đưa trực tiếp vào thức ăn. Bản thân con người không tự
tổng hợp được phenol. Flavonoid tham gia vào hầu hết quá trình trao đổi chất,
sinh tổng hợp và quá trình enzym. Về mặt cấu tạo, flavonoid là phenol có tính
axit, đính nhóm hydroxy tự do ở các vòng.
Trong thực vật flavonoid tồn tại chủ yếu ở hai dạng: tự do (aglycol)
thường tan trong các dung môi hữu cơ như ete, aceton, cồn nhưng hầu hết không
tan trong nước và dạng liên kết với glucid (glycosid) tan trong nước nhưng tan
trong các dung môi không phân cực như aceton, benzen, cloroform.
15
Hoạt tính sinh học của flavonoid: có tác dụng với khối u và một số dạng
ung thư như enpatin (3,5,3’- trihydroxy-6,7,4’trimetoxyflavon), enopatoretin
(3,3’-dihydroxy-5,6,7,4’ tetrametoxyflavon); nâng cao tính bền của thành mạch
máu như rutin, có tác dụng estrgen như glycosid quecxetin và kaempferol-3-3-
ramnogalacto-7-ramnorid. Ngoài ra còn có tác dụng chống dị ứng, chống co
giật, giãn phế quản, giãn mạch, lợi mật, giảm đau và có tác dụng tiệt nấm, thông
tiểu, kháng khuẩn, làm bền mao mạch và giảm tính giòn của thành mạch.

2.2.3 Glycosid [25],[26]
Glycosid trợ tim là một nhóm glycosid có cấu trúc steroid, có tác dụng
đặc hiệu đối với bệnh tim nhưng với liều cao chúng là các chất gây độc. Trong
cây chúng tồn tại ở dạng glycosid hòa tan trong các dịch bào. Dưới tác dụng của
enzyme hay axit loãng các glycosid bị thủy phân tạo thành các genin và các gốc
đường. Chúng tan nhiều trong nước và cồn loãng, ít tan trong các dung môi
không phân cực như ete, dầu, benzen….
Glycosid làm tăng sức co bóp của tim, tăng trương lực cơ tim, làm ngắn
chiều dài các sợi cơ tim đã căng , giãn, giảm thể tích và khích thước tim, giảm
tính kích thích của cơ tâm nhĩ, tăng kích thích của cơ tâm thất, gây lơi tiểu nhẹ.
2.2.4 Coumarin [25],[29]
Coumarin là nhóm hợp chất tự nhiên được xem la dẫn xuất lacton của
acid octo-hydroxy xinamic. Đến nay xác định được khoảng 600 chất và
coumarin tồn tại trong cây ở dạng tự do.
Coumarin được ứng dụng làm thuốc chống đông máu, có tác dụng làm
giãn động mạch vành và mạch ngoại vi; chống co thắt, ức chế sinh trưởng thực
vật, kháng khuẩn, diệt nấm, chống viêm…
2.2.5 Terpenoid [26],[30]
Terpenoid là nhóm chất hữu cơ thiên nhiên không no có công thức chung
là (izo- C
5
H
8
)
n
(n 2). Ngoài ra các hydrocacbon không no, các dẫn xuất của
chúng như ancol, andehyt, ceton, cacboxylic acid cũng được gọi là tecpan. Tùy
theo số nguyên tử cacbon trong mạch người ta phân chúng thành các nhóm:
16
monoterpen, secpuiterpen, diterpen, triterpen, tetraterpen, polyterpen. Trong đó

monoterpen là quan trọng nhất. Nó có cấu trúc mạch hở, mạch vòng.
Terpenoid có tác dụng làm thông mạch và tăng độ đàn hồi của cơ tim và
thành mạch.
2.2.6 Steroid [25],[31]
Steroid là những hợp chất thiên nhiên có bộ khung cacbon stenan gồm
bốn vòng ngưng tụ với nhau chứa các mạch bên và các nhóm chức khác nhau
như: CO, -CHO, -COOH, -OH. Steroid tồn tại trong thực vật dưới dạng glycosid
hoặc liên kết với cacbon acid amin.
Steroid tham gia vào các quá trình sinh học trong cơ thể, có hàng trăm
chất steroid được sử dụng trong y học.
2.2.7 Saponin [26],[32]
Saponin được dùng để chỉ nhóm glycosid có đặc tính chung là khi hòa tan
vào nước có tác dụng làm giảm sức căng bề mặt của dung dịch và bọt. Dưới tác
dụng của enzyme thực vật, vi khuẩn hoặc acid loãng nó bị thủy phân thành
genin (gọi là sapogenin bao gồm hai nhóm lớn là saponin triterpen và saponin
steronid) và phần glucid (gồm các glucid phổ biến là D-glucose, D-galactose, L-
mantose và L-arabinose).
Cung cấp nhiều loại thuốc quan trọng với một số tác dụng chính như sau:
tác dụng bổ, tăng cường sinh lực (saponin có trong nhân sâm); long đờm, dịu ho
(có trong cam thảo); giảm đau, nhức khớp xương (có trong ngưu tất, cỏ xước);
hạ colesterol trong máu.
17
Phần 3
MỘT SỐ HOẠT TÍNH SINH HỌC TRONG THỰC VẬT HỌ GỪNG
3.1 Zerumbone
3.1.1 Tên, CTHH
Tên IUPAC: 2,6,9,9- tetramethyl- (E,E,E)- 2,6,10- cycloundecatrien-1- on
CTHH : C
15
H

22
O

Hình 3.1: Công thức cấu tạo của Zerumbone
Để có được Zerumbone thường phân lập từ thân và rễ tươi trong gừng
bằng cách chưng cất hơi đơn giản và tái kết tinh.
Zerumbone là một serquyterpen xeton vòng lớn, α, β không no, hợp chất
cacbonyl α, β không no trong tự nhiên là loại hợp chất có hoạt tính sinh học rất
lý thú và đã được các nhà khoa học trên thế giới đặc biệt quan tâm. Hoạt tính
sinh học nổi bật của zerumbone là ức chế mạnh sự phát triển của tế bào
ung thư theo cơ chế apoptosis, loại trừ NF- kB hoạt động. Nhóm chức
sinh học của zerumbone là nhóm cacbonyl α, β không no.[35]
Vào năm 2010 Uraiwan Songsiang và cộng sự đã chỉ ra rằng dẫn xuất 3-
amino, 3- amino thế có hoạt tính chống sự phát triển của 5 dòng ung thư túi mật
khác nhau ở nồng độ IC50 ≤75 µM trong khi đó ở nồng độ này zerumbone
không có tác dụng.[42]. Theo hướng này người ta tổng hợp rất nhiều dẫn xuất
của zerumbone nhằm nâng cao hiệu quả của zerumbone. Cấu tạo phân tử của
Zerumbone cho thấy có nhiều khả năng tổng hợp các dẫn xuất của Zerumbone
như: dẫn xuất của nhóm cacbonyl, dẫnxuất của liên kết đôi liên hợp với nhóm 〉
C=O, dẫn xuất của liên kết đôi độc lập (C6=C7) và các dẫn xuất 8 của oxy hoá
mở vòng.
18
3.1.2 Tác dụng của Zerumbone
Trước đây tác dụng dược lý của zerumbone là ức chế tụ cầu vàng và trực
khuẩn lao, hai mươi năm gần đây người ta mới phát hiện và nghiên cứu ngoài
tác dụng trên còn có khả năng chống nhiều loại ung thư, chống viêm, chống oxy
hóa, chống gốc tự do của zerumbone. Các kết quả nghiên cứu (của invivo và
invitro) của các nhà khoa học ở cả nhiều nước khác nhau điều khẳng định chất
zerumbone là chất chống ung thư mạnh. Tác dụng ức chế sự phát triển của 10
loại ung thư khác nhau trên người (ung thư cổ tử cung, ung thư buồng trứng, ung

thư vú, ung thư máu, ung thư xương, ung thư gan, ung thư phổi, ung thư đại
tràng, ung thư tũy, ung thư da) là do Trần Công Yên và cộng sự khi nghiên cứu
trên chuộc bạch đã phát hiện zerumbone. Không chỉ kéo dài cuộc sống của
chuộc bị gây ung thư mà còn phòng ngừa tái phát ung thư sau phẩu thuật.[14]
Cơ chế chống ung thư của zerumbone là kìm hãm hay loại trừ tác nhân
gây ung thư NF-kB hoạt động, thúc đẩy có chọn lọc sự tự chết (apoptosis) của tế
bào ung thư bằng nhiều cách khác nhau, hoặc rút ngắn cuộc sống của tế bào ung
thư làm cho ung thư không phát triển được.
Siddig Ibrahim AbdaJwahab và cộng sự khi so sánh hoạt tính chống ung
thư cổ tử cung (Hela) và ung thư buồng trứng (Cao-3) của zcrumbon với
cisplantin (thuốc chống ung thư) đã khẳng định: zerumbone không những thúc
đẩy sự tự chết của tế bào ung thư mạnh hơn cisplatin mà còn không gây độc hại
và các tác dụng phụ với tế bào thường (nhất là tế bào thận) như cisplatin.[34]
Các đặc tính chống ung thư của zerumbone được so sánh với chất
curcumin từ củ nghệ. Tổng số ACFS (chỉ số ung thư) được giảm đáng kể khi sử
dụng chiết xuất zerumbone.
3.1.3 Công trình nghiên cứu
Các thành phần chính trong thân rễ, zerumbone tiềm năng sẽ được sử
dụng trong điều trị bệnh Alzheimer (Bustaman et al., 2008). Z.zerumbet cũng
cho thấy tiềm năng để ngăn chặn hoạt động khối u (Murakami và cộng sự,
2002.), kháng viêm (Chien et al, 2008; Mukarami và cộng sự, 2004). Tiến bộ
gần đây trong hiểu biết về các đặc tính chống ung thư của zerumbone và công
19
chúng ngày càng tăng quan tâm đến sức khỏe sẽ dẫn đến nhu cầu về số lượng
lớn zerumbonein tương lai (Yu et al., 2008).
3.2 Zingeron
3.2.1 Tên, CTHH
Tên IUPAC: 4 - (4-hydroxy-3-metoxyphenyl)-2-butanone
Công thức phân tử: C
11

H
14
O
3
Hình 3.2 Công thức cấu tạo của Zingerone
3.2.3 Đặc điểm và công dụng của Zingerone
Zingerone còn được gọi là vanillylacetone, là một thành phần quan trọng
của hăng cay của gừng. Zingerone là một chất rắn kết tinh đó là ít tan trong
nước, nhưng hòa tan trong ete.
Zingerone tương tự như trong cấu trúc hóa học với hóa chất hương vị
khác như vanillin và eugenol. Nó được sử dụng như một chất phụ gia có trong
các loại dầu gia vị và nước hoa để giới thiệu hương liệu gia vị.[36]
Zingerone có thể dễ dàng chuyển đổi thành gingerol bởi các chuỗi phản
ứng sau đây:
ILD là lithium diisopropylamide, là hợp chất có tính axit yếu, hòa tan trong các
dung môi hữu cơ phân cực.[10]
20
Zingerone
(i) Me
3
SiCl / (Me
3
Si)
2
NH
( C
11
H
14
O

3
)
( C
17
H
26
O
4
)
D
(ii) LDA , - 78
o
C
( i ) hexanal
( ii ) H
2
O / H
+
Gingerol
D có công thức là:
Chất zingerone gừng có tác dụng như một kháng sinh. Zingerone hoạt
động tấn công các vi khuẩn E. coli gây tiêu chảy, đặc biệt là ở trẻ em.
Hoạt chất Gingeron trong gừng có tác dụng thông mật, bảo vệ gan, kích
thích nhu động ruột và khả năng tiêu hóa, đặc biệt là Protein.
Trong một nghiên cứu trong đó những con chuột tiếp xúc với bức xạ,
người ta thấy rằng zingerone giảm thiệt hại cho các tế bào.[37]
3.3 Gingerol
3.3.1 Tên, CTHH
Tên IUPAC :( S )-5-hydroxy-1-(4-hydroxy-3-metoxyphenyl)-3-decanon
Công thức phân tử : C

17
H
26
O
4
3.3.2 Đặc điểm của Gingerol
Gingerol, hoặc đôi khi [6]-gingerol, là thành phần hoạt động của gừng
tươi. Nó thường được tìm thấy như một loại dầu màu vàng hăng, nhưng cũng có
thể tạo thành một chất rắn kết tinh nóng chảy thấp.[11]
Gingerol (C
17
H
26
O
4
) khi đun nóng với một axit nhẹ tạo thành Shogaol
(C
17
H
24
O
3
).
Gingerols là thành phần hoạt động chính trong gừng và để tạo hương vị
riêng biệt của nó.
Thí nghiệm được trình bày tại Hội nghị thường niên thứ 97 của Hiệp hội
Ung thư Mỹ bởi Tiến sĩ Rebecca Lui và các đồng nghiệp từ Đại học Michigan,
cho thấy Gingerols, các hoạt động dinh dưỡng trong gừng, giết chết tác nhân gây
21
CH

2
CH
2
-C-CH
2
O
Li
+
H
3
C
O
SiO(H
3
C)
3
-
ung thư buồng trứng bằng cách gây ra cả hai quá trình apoptosisz (sự tự chết tế
bào), và autophagocytosis (tự tiêu hóa).[20]
[6]-gingerol, thành phần cay của gừng, có tác dụng chống vi khuẩn, chống
viêm, và các hoạt động chống khối u.
Trong một nghiên cứu của chuột lang hồi tràng, đã được tìm thấy rằng các
thành phần nhất định của gừng (6 -, 8 - và 10-Gingerols) ức chế sự chống
serotonin 3 chức năng thụ thể (Huang et al, 1991 và Yamahara và cộng sự,
1989.). . Ngoài ra, các thành phần hoạt tính đã được chứng minh là ảnh hưởng
đến nhu động dạ dày và có thể có tác dụng chống co thắt trên hệ tiêu hóa
(Hashimoto và cộng sự., 2002 và Suekawa et al., 1984).[7]
3.3.3 Tác dụng của Gingerol
Gingerol có thể làm giảm buồn nôn do say tàu xe hoặc mang thai và cũng
có thể làm giảm chứng đau nửa đầu

.
Chất gingerol có trong gừng giúp giảm buồn nôn bằng cách chặn các thụ t
hể serotonin trong dạ dày (các thụ thể gây buồn nôn). Trong đó nhiều tinh dầu
có tác dụng chống oxi hóa, làm chậm quá trình lão hóa, giảm cholesterol trong
máu. Những nghiên cứu gần đây còn đang chứng minh chất chiết xuất từ bột
gừng giúp ích tuyệt vời cho bệnh nhân ung thư đang hóa trị liệu. Cùng với đó,
gừng còn có khả năng sát trùng, chống viêm, giãn nở mạch máu, lưu thông và
giảm táo bón.[21]
Gingerol dường như có hiệu quả trong mô hình động vật của viêm khớp
dạng thấp.
Gingerol đã được nghiên cứu ảnh hưởng của khối u ung thư trong
ruột, mô vú, buồng trứng, tuyến tụy, trong các mô khác, với kết quả tích cực.
Gingerol trong gừng như một đặc tính chống hạ nhiệt hữu ích để chữa sốt.
Như một thuốc giải độc cho sốt, gừng đã được sử dụng từ đầu tiên, cả truyền
thống và hiện đại.
Gingerol đã biết đến tác dụng chống viêm rất tốt trong việc trị ho và đau
họng cứu trợ.[22]
22
Để loại bỏ mệt mỏi, uống gừng là giải pháp, vì gingerol trong gừng có các
tính chất làm dịu thần kinh, sẽ giúp khôi phục lại tình trạng của cơ thể cảm thấy
mệt mỏi.
Shogaol và gingerol trong gừng có khả năng để làm giảm chuyển động
đường tiêu hóa, có thể làm giảm buồn nôn, hàm lượng các chất gingerol trong
gừng là như một chất chống viêm. Gingerol có thể giúp giảm tình trạng viêm
khớp (viêm khớp).[19]
Gingerol có thể bảo vệ sức khỏe tim mạch, vì nó làm thư giãn mạch máu,
mỏng máu, và kích thích lưu thông máu. Gừng cũng được phát hiện trong một
nghiên cứu báo cáo trong Tạp chí Dinh dưỡng (2002) để giảm mức cholesterol
LDL và giúp ngăn ngừa sự phát triển của mảng bám xơ vữa động mạch. [26]
3.3 Shogaol

3.3.1 Tên, CTHH
Tên IUPAC: ( E ) -1 - (4-hydroxy-3-metoxyphenyl) dec-4-en-3-one
Công thức phân tử: C
17
H
24
O
3
Shogaol, còn được gọi là (6)-shogaol, là một thành phần hăng
của gừng tương tự như trong cấu trúc hóa học để gingerol. Như zingerone, nó
được sản xuất khi gừng được sấy khô hoặc nấu chín.[5]
Ổn định ở nhiệt độ phòng trong sự hiện diện của oxy và ánh sáng. Ổn
định trong thời gian dài ở nhiệt độ -20°C.
Shogaols là được hình thành trong quá trình lưu trữ hoặc thông qua nhiệt,
có thể được tạo ra bởi một phản ứng khử nước của Gingerols.
Panetal (2008) đã nghiên cứu tác dụng ức chế của 6 shogaol và một hợp
chất có liên quan, 6-gingerol, trên cảm ứng của enzym tổng hợp nitric oxide
(NOS) và cyclooxygenase-2 (COX-2) trong chuột RAW 264, 7 tế bào kích hoạt
với LPS. Kết quả cho thấy 6 shogaol giảm bài xuất INOS viêm và ức chế COX-
23
2 biểu hiện gen trong các đại thực bào bằng cách ức chế sự hoạt hóa NF-κB
bằng cách can thiệp với các hoạt PI3K/Akt/I κB kinase IKK và MAPK.[11].
3.3.2. Các tác dụng chung của gingerol và shogaol
Gingerol và shogaol có trong gừng có tác dụng kích ứng da mạnh, gây
ban đỏ, nhưng không gây phồng rộp da, nên gừng có thể dùng làm thuốc sung
huyết da.
Các chất hóa học gingerol và shogaol trong gừng có vị thơm, cay rất hiệu
quả để kích thích đường ruột co bóp, trung hòa các loại axit tiêu hóa và ngăn
chặn cảm giác buồn nôn. [24]
Với hai hợp chất gingerol và shogaol trong thành phần của mình, gừng có

khả năng sinh nhiệt. Gừng không chỉ được dùng để giảm đau đầu, khó tiêu mà rễ
gừng còn có tác dụng tuyệt vời trong việc giữ ấm.
Gừng chứa gingerol và shogaol, thúc đẩy phân hủy chất béo nhanh hơn và
hoạt động như một chất ức chế chất béo tự nhiên. Bên cạnh đó, nó còn làm giảm độ
nhạy cảm của cơ thể với insulin để giữ cho lượng đường trong máu ổn định.[23]
Gừng chứa gingerol và shogaol có tác dụng thông mũi, thông xoang vì thế
cũng rất tốt cho hệ hô hấp, trị các chứng cảm mạo, viêm họng và dị ứng mãn
tính. Nhờ hoạt tính kháng khuẩn, gừng giúp hạn chế sự lây lan của vi rút cúm và
vi rút cảm lạnh. [22]
Hai thành phần có vị cay của gừng là 6 – gingerol và 6 – shogaol, đều ức
chế co bóp dạ dày trong thí nghiệm dạ dày ở nguyên vị trí trong cơ thể. Sự ức
chế do 6 – shogaol mạnh hơn.
Zingiberen (chất terpenoid chính của cao aceton gừng) và hoạt chất cay 6
– gingerol có tác dụng ức chế những tổn thương dạ dày gây ở chuột cống trắng
bởi acid hydrocloric/ethenol. Những kết quả thí nghiệm này gợi ý rằng
zingiberen và 6 – gingerol là những thành phần quan trọng trong những thuốc
làm dễ tiêu có gừng.
Ức chế sự sinh tổng hợp prostaglandin PGF2 trong thí nghiệm invitro.
Khi thử nghiệm riêng rẽ, gừng cũng có tác dụng này, hoạt chất gingerol của
gừng có tác dụng ức chế men cyclooxygenase. [21]
24
KẾT LUẬN
Qua quá trình tìm hiểu các hợp chất sinh học có hoạt tính sinh học trong
gừng đã cho tôi thấy được giá trị đặc biệt của chúng. Mỗi hợp chất riêng trong
gừng đều có công dụng riêng, mỗi cơ chế tác dụng riêng nhưng chúng đều đưa
đến tác dụng phòng và chữa bệnh.
Thực vật Việt Nam khá phong phú và đa dạng, việc phát triển các cây này
cũng không khó khăn, hơn nữa nước ta cũng nằm trong khu vực thích hợp cho
sự phát triển của nhiều loại thực vật. Tuy nhiên, việc ứng dụng các hợp chất này
một cách thường xuyên và phổ biến vẫn cần sự lưu tâm của chúng ta. Một mặt

do mùi vị đặc trưng của các hợp chất có mặt trong bản thân chúng gây ra sự khó
chịu, mặt khác đời sống con người ngày càng phát triển kéo theo đó là sự bận
rộn trong công việc và tiện dụng của các loại thực phẩm được chuẩn bị sẵn nên
việc sử dụng các chất này trong bữa ăn hằng ngày ít được chú trọng. Do đó thiết
nghĩ rằng chúng ta cùng nghiên cứu để chiết xuất và đưa các hợp chất này thành
các sản phẩm có lợi cho người tiêu dùng.
25

×