Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

PHÂN TÍCH TẠI SAO CHỦ NGHĨA MAC LENIN LẠI CÓ QUAN ĐIỂM ĐÚNG VỀ NHẬN THỨC. TỪ ĐÓ RÚT RA Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN, VẬN DỤNG Ý NGHĨA ĐÓ VÀO QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH NỀN GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.66 KB, 19 trang )

lOMoARcPSD|15547689

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA QUY HOẠCH


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
PHÂN TÍCH TẠI SAO CHỦ NGHĨA MAC LENIN LẠI CÓ QUAN ĐIỂM
ĐÚNG VỀ NHẬN THỨC.
TỪ ĐÓ RÚT RA Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN, VẬN DỤNG Ý NGHĨA
ĐĨ VÀO Q TRÌNH CẢI CÁCH NỀN GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Ngọc Bảo Châu
MSSV : 21510201556
Lớp học phần: 11014 - Triết học Mac Lenin
Giáo viên hướng dẫn:Cô Nguyễn Thị Thu Hà

Bến Tre, 12/2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


lOMoARcPSD|15547689

Trường Đại học Kiến Trúc TP.HCM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÀI TIỂU LUẬN MÔN: TRIẾT HỌC MAC- LENIN
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Ngọc Bảo Châu


Mã số sinh viên: 21510201556
Mã lớp học phần: 11014
ĐIỂM CỦA BÀI TIỂU LUẬN
Ghi bằng số
Ghi bằng chữ

Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm thi thứ 1

Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm thi thứ 2

Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 21 tháng 12 năm 2021
Sinh viên nộp bài
Ký tên

Nguyễn Ngọc Bảo Châu

MỤC LỤC


lOMoARcPSD|15547689

Lời mở đầu ……………………………………………………………....tr
1.

Chương 1 : Phần lí luận chung: Quan điểm chung về nhận thức ……..tr
1.1. Một số quan điểm trước Marx về nhận thức
1.1.1. Quan niệm về nhận thức của chủ nghĩa duy tâm
1.1.2 Quan điểm của chủ nghĩa hồi nghi
1.1.3. Quan điểm của thuyết khơng thể biết
1.1.4 Quan điểm của các nhà duy vật trước Mac

1.2. Lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Marx về nhận thức
1.3.1. Nguồn gốc và bản chất của ý thức
1.3.2. Thực tiễn và vai trò thực tiễn đối với nhận thức
1.3.3. Các giai đoạn của quá trình nhận thức.
1.3.4. Vấn đề chân lí
1.4. Ý nghĩa của phương pháp lý luận và rút ra kết luận

2.

Chương 2 : Phần thực tiễn : Vận dụng ý nghĩa vào quá trình cải cách nền
giáo dục ở Việt Nam …………………………………………........................tr
2.1. Bối cảnh nền giáo dục hiện nay
2.1.1. Ở các nước phường Tây
2.1.2. Ở các nước phương Đông
2.1.3. Bối cảnh nền giáo dục Việt Nam
2.1.4. Đánh giá chung
2.2. Tính tất yếu khách quan của việc cải cách giáo dục và vai trò của nhận thức
2.3. Việt Nam cần học hỏi gì và giải pháp cho việc cải cách giáo dục
2.3.1. Những điểm chính cần điều chỉnh
2.3.2. Tiến hành cải cách

3. Liên hệ bản thân............................................................................................tr
4. Tài liệu tham khảo .........................................................................................tr

Lời kết ............................................................................................................tr


lOMoARcPSD|15547689


LỜI MỞ ĐẦU
Nhận thức luôn là một trong những vấn đề trung tâm của triết học, là đối tượng nghiên
thực tiễn của vấn đề này ở tất cả thời đại. Mỗi nhà triết học, mỗi trường phái triết học
khác nhau đều có những quan điểm, nội dung và sắc thái riêng biệt về nhận thức, thể hiện
lập trường và bối cảnh lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội khác nhau. Quan điểm của Hegel
phát triển theo hướng chủ nghĩa duy tâm, mang tính siêu tự nhiên, phi thể xác. Quan điểm
của Feuerbach tiến bộ hơn khi cho rằng con người là sản phẩm của tự nhiên. Tuy nhiên,
chỉ đến sự ra đời của triết học Marx - Lenin thì quan điểm về nhận thức mới biểu hiện
một cách toàn diện, đầy đủ và hoàn toàn phát triển theo chủ nghĩa duy vật.
Khi nhìn nhận một cách khách quan vào những thành tựu to lớn mà Đảng và Nhà nước ta
đã, đang và sẽ đạt được, chủ nghĩa Marx - Lenin đã chứng minh được sự nổi trội và tiềm
năng của nó. Đối với một quốc gia chủ động phát triển và kiên trì con đường đi theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế - giáo dục. Xuất phát từ thực tiễn đó, phát triển
nhận thức tồn diện là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc cải cách nền
giáo dục.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, vấn đề cải cách giáo dục ở nước ta cịn gặp
nhiều khó khăn và rào cản cần lưu tâm, xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và
chủ quan khác nhau, khiến cho chất lượng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và
vai trò vốn có. Vì vậy, việc xác định rõ những vấn đề, quan điểm lý luận và thực tiễn về
nhận là một vấn đề có ý nghĩa cấp thiết, từ đó đề xuất một số giải pháp thích hợp để phát
huy có hiệu quả vai trị tích cực của nhận thức.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người cùng với phương hướng cải cách
giáo dục Việt Nam trong thời đại mới, em lựa chọn đề tài “Nhận thức đúng đắn của triết
học Marx-Lenin về và vận dụng vào việc cải cách nền giáo dục ở nước ta hiện nay.”
Do kiến thức và hiểu biết còn hạn chế, em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của cơ
trong q trình làm bài.
Em xin chân thành cảm ơn!


lOMoARcPSD|15547689


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG
Quan niệm chung về nhận thức
Lý luận nhận thức là một bộ phận của triết học, nghiên cứu bản chất của nhận
thức, giải quyết mối quan hệ của nhận thức, của tư duy con người đối với hiện thực xung
quanh.
1.1.Quan điểm của các nhà triết học trước Marx về nhận thức
1.1.1. Quan niệm về nhận thức của chủ nghĩa duy tâm
Trong quá trình tồn tại và phát triển, chủ nghĩa duy tâm đã thừa nhận khả năng
nhận thức của mình, tuy nhiên chủ nghĩa duy tâm lại có hai hình thức: chủ nghĩa duy tâm
khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan thì khơng phủ nhận khả năng nhận thức của con
người nhưng lại thích một cách duy tâm thần bí về vấn đề nhận thức cảu con người. Tiêu
biểu cho quan niệm của chủ nghĩa duy tâm khách quan là Platon thời cổ đại và Hegel thời
kỳ triết học cổ điển Đức. ( Hình)
H1.1 Platon

H1.2 Friedrich Hegel

Chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con người
mà là sự phản ánh trạng thái chủ quan của con người
Tóm lại, chủ nghĩa duy tâm xuất phát từ việc thừa nhận ý thức, tinh thần là cái có
trước, cái quyết định - vật chất là cái có sau, cái phụ thuộc, nên họ cho rằng nhận thức
của con người không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan... mà là sự tự nhận thức
về bản thân. Nhưng ngay cả sự tự nhận thức về bản thân cũng là cái đã có sẵn ở trong óc
con người hoặc do sự quyết định của lực lượng siêu nhiên. Về thực chất chủ nghĩa duy
tâm đã phủ nhận nguồn gốc vật chất của nhận thức, khả năng nhận thức của con người
1.1.2 Quan điểm của chủ nghĩa hoài nghi
Quan điểm của chủ nghĩa hoài nghi nghi ngờ khả năng nhận thức của con người,
tuy còn hạn chế nhưng có yếu tố tích cực đối với nhận thức khoa học. Tiêu biểu là triết

gia người Hi Lạp dổ đại Sokrates đã cho rằng nếu ta tiếp tục đặt câu hỏi thì có thể cuối
cùng ta cũng tới được chỗ có tri thức; nhưng ta chưa có nó ( Hình)
H1.3 Sokrates
1.1.3. Quan điểm của thuyết khơng thể biết


lOMoARcPSD|15547689

Theo quan điểm của các nhà triết học không thể biết, họ cho rằng con người
không thể nhận thức được bản chất của thế giới. Quan điểm của TKTB còn khá phổ biến
trong triết học tư sản hiện đại (chủ nghĩa Kantơ mới), Kantơ khẳng định rằng ý thức lí
luận chỉ biết được các hiện tượng, không thể nhận thức được bản chất của sự vật như nó
tự tồn tại( Hình )
H1.4 Immanuel Kant
1.1.4 Quan điểm của các nhà duy vật trước Mac
Quan điểm của các nhà duy vật trước Mac cho rằng nhận thức là phản ánh trức
quan, đơn giản là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất động của sự vật. Tuy xuất phát từ
việc thừa nhận vật chất có trước quyết định ý thức, ý thức là cái có sau cái phụ thuộc.
Nhưng do tính chất máy móc và siêu hình, nên đã hiểu nhận thức chỉ là sự phản ánh đơn
giản về hiện thực. Cho nên họ khơng thấy được vai trị của thực tiễn đối với nhận thức.
1.2. Lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài con người, độc lập
đối với cảm giác, tư duy và ý thức của con người – Hiện thực khách quan là đối tượng
của nhận thức.
Hai là, thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của con người. Về ngun tắc khơng
có cái gì là khơng thể biết. Dứt khốt là khơng có và khơng thể có đối tượng nào mà con
người khơng thể biết được, chỉ có những cái hiện nay con người chưa biết, nhưng trong
tương lai với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, con người sẽ biết được. Với khẳng
định trên đây, lý luận nhận thức macxít khẳng định sức mạnh của con người trong việc
nhận thức và cải tạo thế giới.

Ba là, là một q trình biện chứng, tích cực, sáng tạo. Quá trình nhận thức diễn ra
theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém
sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Bốn là, cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn còn
là mục đích của nhân thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức. Nhận thức là
quá trình con người phản ánh một cách biện chứng, năng động sáng tạo thế giới khách
quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử – xã hội.
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lenin về nhận thức
Theo Mac, nhận thức là q trình phản ánh biện chứng tích cực, tự giác và sang
tạo thế giới khách quan vào đầu óc của con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn nhằm
sang tạo ra những tri thức về thế giới khách quan. Như Kopenich đã phát hiện ra thiên


lOMoARcPSD|15547689

văn, Asimedes đã phát hiện ra lực đẩy của nước trong khi tắm, vợ chồng nhà bác học
Curie đã tìm ra nguyên tố Radium,..( Hình)
H1.5 Nicolas Copernic -Nhà lý thuyết thiên tài

H1.6 Archimedes ( 287 - 212 TCN )

1.3.1. Nguồn gốc và bản chất của ý thức
Triết học Mác - Lênin đã phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy
tâm, khắc phục những thiếu sót hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đây và đã giải quyết
một cách khoa học về bản chất của nhận thức. Nhận thức là một quá trình phản ánh hiện
thực khách quan vào trong bộ óc con người, nhưng khơng phải là sự phản ánh giản đơn,
thụ động mà là một q trình phản ánh mang tính tích cực năng động và sáng tạo.
Bản chất của nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ não con
người, mang tính tích cực, năng động và sáng tạo của chủ thể về khách thể, là quá trình

nắm bắt các qui luật và vận dụng các qui luật khách quan trong hoạt động thực tiễn xã
hội.
Ví dụ: Pháp luật là công cụ để nhà nước quản lý xã hội, mọi người dân nhận thức
được tầm quan trọng của Pháp luật, nếu vi phạm sẽ bị Nhà nước trừng phạt. Do đó, người
dân sẽ ln sống và làm việc tn theo pháp luật của nhà nước.
H1.7 Các khẩu hiệu cổ động Ngày Pháp luật năm 2016
1.3.2. Thực tiễn và vai trò thực tiễn đối với nhận thức
Theo quan niệm của Mac, Thực tiễn là tồn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch
sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo thế giới khách quan. Hoạt động thực tiễn có ba
hình thức cơ bản: Hoạt động sản xuất vật chất là q trình con người sử dụng cơng cụ lao
động tác động vào hiện thực khách quan, cải biến các dạng vật chất cần thiết đáp ứng
những nhu cầu của đời sống xã hội. Hoạt động biến đổi xã hội là hoạt động đấu tranh xã
hội được coi là hình thức cao nhất của thực tiễn được thể hiện chủ yếu trong quan hệ giai
cấp, dân tộc quá trình đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc v.v... Hoạt động thực
nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn, bao gồm thực nghiệm
khoa học và thực nghiệm xã hội.
Tính chất lịch sử của hoạt động thực tiễn gắn liền với quá trình hình thành, tồn tại,
vận động và phát triển của con người và xã hội. Hoạt động thực tiễn được thể hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau và giữa các hình thức đó đều có sự liên hệ tác động qua lại lẫn
nhau, nhưng luôn được xác định bởi những điều kiện lịch sử cụ thể.
Thực tiễn là những vòng khâu của q trình nhận thức, trong đó thực tiễn vừa là
cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của nhận thức, sự tiếp nối của nó trong các
vịng khâu lớn hơn, cao hơn làm cho nhận thức càng đi sâu hơn nắm bắt được các bản


lOMoARcPSD|15547689

chất và các qui luật của hiện thực khách quan, phục vụ cho hoạt động thực tiễn cho quá
trình cải tạo hiện thực khách quan của con người.
1.3.3. Các giai đoạn của quá trình nhận thức.

Lênin cho rằng con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý là: “ Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
Nhận thức cảm tính là sự phản ánh trực tiếp khách thể thơng qua các giác quan
bằng ba hình thức phảnánh như: Cảm giác, tri giác, biểu tượng nhưng nó chỉ phản ánh
được cái bề ngồi, có cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, có cả cái bản chất và khơng bản
chất. Cảm giác nảy sinh do sự tác động trực tiếp của khách thể lên các giác quan hình
thành tri thức riêng lẻ nhất về thuộc tính của sự vật. Từ đó, tri giác tổng hợp nhiều cảm
giác. Và biểu tượng là hình ảnh của sự tái hiện trong óc nhờ trí nhớ là khâu trung gian
chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính ,… Ví dụ: quả cam tác động vào thị
giác ( màu sắc) – màu cam, xuc giác – nhẵn, bóng,… hay khi nhắc đến Việt Nam là ta sẽ
nhớ đến biểu tường cờ đỏ sao vàng ,…
Nhận thức lí tính thơng qua tư duy trừu tượng con người phản ánh sự vật một cách
gián tiếp, khái quát và đầy đủ hơn. Phản ánh được mối liên hệ tất nhiên bên trong của sự
vật nên sâu sắc hơn nhận thức cảm tính. Song, nhận thực lí tính gắn liền với thực tiễn và
phải được kiểm tra bởi thực tiễn. Ví dụ : trong khái niệm “ cái cây” đã khái quát những
thuộc tính của cây như rễ, thân, cành,…
H1.8. Khái quát hình ảnh cây xanh
Mỗi giai đoạn nhận thức đều có nét đặc trưng riêng, tuy nhiên chúng có sự thống
nhất với nhau, liên hệ, bổ sung cho nhau trong quá trình nhận thức của con người. Nhận
thức cảm tính cung cấp những hình ảnh chân thật, bề ngoài của sự vật hiện tượng là cơ sở
của nhận thức lí tính. Cịn nhận thức lí tính cung cấp cơ sở lí luận và các phương pháp
nhận thức cho nhận thức cảm tính nhanh và đầy đủ hơn.
1.3.4. Vấn đề chân lí
Chân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh và được thực tiễn kiểm
nghiệm. Như Lênin đã nhận xét: Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình.
Tư tưởng (= con người) khơng nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im chết
cứng, một bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ), khơng khuynh hướng, khơng
vận động.
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính cụ thể, tính tuyệt đối và tính tương đối.
Điều này thể hiện như sau:



lOMoARcPSD|15547689

Tính khách quan của chân lý là nhận thức của con người nhưng nội dung của nó
khơng phụ thuộc vào con người. Ví dụ: Trái đất xoay quanh mặt trời: Đây là chân lý
khách quan dù con người đã nhận thức được hay chưa.
Tính cụ thể của chân lý (hay: chân lý là cụ thể) nghĩa là khơng có chân lý trừu
tượng, mơ hồ. Quan điểm này đòi hỏi chúng ta phải chú ý đến điều kiện lịch sử – cụ thể
của từng quốc gia, dân tộc, từng địa phương khi vận dụng lý luận chung, sơ đồ chung,
phải biết cụ thể hóa, cá biệt hóa vào cho cái riêng. Phải hết sức tránh giáo điều, rập
khn, máy móc.
Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý .Như đã phân tích, con người đạt tới
chân lý trong q trình vận động vô tận của nhận thức thế giới khách quan với cả một
chuỗi những sự trừu tượng, những sự hình thành các khái niệm, quy luật.
1.4. Ý nghĩa của phương pháp lý luận và rút ra kết luận
Mac đã phê phán những quan điểm duy tâm, siêu hình về nhận thức. Khơng nên
tuyệt đối hóa một giai đoạn nào của quá trình nhận thức, mà phải thấy được sự thống nhất
biện chứng giữa các giai đoạn của nhận thức. Khẳng định vai trò quyết định của thực tiễn
đối với nhận thức.
Thực tế cho thấy chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể vạch rõ được hướng đi
đúng cho con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh,
chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi cách mạng giải phòng dân tộc
(1945), thống nhất đất nước (1975) thực hiện ý chí độc lập tự do con người việt Nam điều
mà bao nhiêu học thuyết trước Mác khơng thể áp dụng được, và chính chủ nghĩa Mác Lênin đã làm thay đổi, trở thành hệ tư tưởng chính thống của tồn xã hội, thay đổi nhanh
chóng đời sống tinh thần đại đa số nhân dân Việt Nam.
H 1.9 Khơng thể tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin
Song nhìn lại một cách khách quan và khoa học thì sự tồn tại của chủ nghĩa Mác Lênin trong xã hội Việt Nam có lẽ khơng ai có thể phủ nhận được vai trị ưu trội và triển
vọng của nó trong sự nghiệp phát triển nhận thức con người, tạo đà cho bước phát triển
tiếp theo của sự nghiệp cải cách giáo dục,thì một nước đang cịn ở tình trạng phát triển

chậm như nước ta khơng thể khơng xây dựng một chính sách phát triển lâu dài, có tầm
nhìn xa trơng rộng phát triển nhận thức của con người nâng cao chất lượng học tập . Hơn
bất cứ một lĩnh vực nghiên cứu nào khác, giáo dục là mục tiêu cao cả nhất của toàn dân,
đưa loài người tới một kỷ nguyên mới, mở ra nhiều khả năng để tìm ra những con đường
tối ưu đi tới tương lai để phát triển đất nước.
H 1.10 Vấn đề cải cách giáo dục được đặt ra


lOMoARcPSD|15547689

CHƯƠNG 2: PHẦN THỰC TIỄN
Vận dụng ý nghĩa vào quá trình cải cách nền giáo dục ở Việt Nam
2.1. Bối cảnh nền giáo dục hiện nay
2.1.1. Ở các nước Phương Tây
Tiêu biểu là nền giáo dục của Mỹ: Có thể nói triết lý giáo dục của Mỹ gắn liến
với hai chữ “tự chủ” và “tự do”. Tổng thống John Adam đã từng nói “Trẻ em nên được
giáo dục dựa theo nguyên tắc tự do” và đúng như vậy trong suốt hơn 200 năm qua nền
giáo dục của nước Mỹ luôn gắn liền với triết lý đó.
H2.1 Hệ thống giáo dục Mỹ
Trẻ em ngay từ bé đã được tự do phát triển theo hướng của riêng mình tạo nên
những cái tơi cá nhân có thể dễ dàng thích nghi với cuộc sống đang biên đổi từng ngày
chứ khơng bị bó buộc trong những quyển sách giáo khoa. Chính vì điều đó mà nền giáo
dục của nước Mỹ ln đề cao tình trải nghiệm để trẻ em có thể tiếp xúc sớm và tìm ra con
đường của riêng mình. Tuy nhiên trẻ em của Mỹ cũng được dậy cách tôn trọng ý kiến của
những người khác và chịu trách nhiệm với những quyết định của mình. Điều này làm cân
bằng giữa cái tôi cá nhân và nghĩa vụ chung với cộng đồng. Trẻ nhỏ ln được khuyến
khích nói ra những suy nghĩ, lập luận của mình và học cách có trách nhiệm với những lựa
chọn đó.
Tính “tự chủ ” được đề cao trong các trường ở Mỹ điều này thể hiện bằng việc Mỹ
khơng hề có các trường quốc gia mà chuyển giao trách nhiệm này cho chính quyền từng

bang và từng địa phương để người dân có thể chủ động trong việc tạo các tiền đề cho việc
học tập của con em mình.
Nền giáo dục ưu việt ở Cuba: Giáo dục là một trong những ưu tiên hàng đầu của
Chính phủ Cuba kể từ khi cách mạng thành công vào năm 1959.
Ngày nay, Cuba là nước có tỷ lệ biết chữ cao nhất thế giới. Thành công về giáo
dục ở Cuba có sự đóng góp khơng nhỏ của chế độ giáo dục miễn phí của chính quyền
cách mạng. Mỗi trẻ em sinh ra trên hòn đảo này, khi lên năm tuổi, đều có quyền bắt đầu
những năm tháng đi học hồn tồn miễn phí. Học xong mẫu giáo, các em sẽ được chuyển
sang học tại một trường tiểu học. Phổ cập giáo dục áp dụng với mọi trẻ em từ sáu tuổi tới
hết cấp hai căn bản (thường là 15 tuổi). Giáo dục, gồm cả giáo dục đại học đều miễn phí
với mọi cơng dân Cuba, khơng phân biệt giàu nghèo hay thành phần xã hội. Ngày nay,
chế độ giáo dục bắt buộc ở Cuba là từ mẫu giáo đến lớp 9. Sau đó, học sinh có thể chọn
trường để học tiếp hoặc đi làm. Học sinh Cuba rất ham học. Những học sinh tốt nghiệp
các trường dự bị đại học sẽ được theo học đại học miễn phí. Ở nhiều vùng nông thôn, học
sinh được học các trường nội trú.


lOMoARcPSD|15547689

H2.2 Cuba chính là quốc gia có hệ thống giáo dục tốt nhất Mỹ Latinh. Đây là báo
cáo mới công bố của Ngân hàng Thế giới.
Tiêu biểu là nước Phần Lan. Giáo dục ở Phần Lan cũng khơng có các cuộc thi
sát hạch nhằm phân loại học sinh, giáo dục hướng đến các học sinh yếu kém, giúp nhà
trường trở thành môi trường thân thiện. Một GS công tác tại bộ giáo dục và văn hóa Phần
Lan phát biểu: “Chúng tơi dạy trẻ học cách HỌC, chứ KHƠNG dạy trẻ học cách để thi”.
Bên cạnh đó, Phần Lan xem cơng bằng là một trong những điều quan trọng nhất.
Chủ tịch hội đồng giáo viên Phần Lan chia sẻ “Tất cả trẻ em ở Phần Lan dù thành thị hay
nông thôn đều được hưởng một nền giáo dục như nhau.”Giáo dục Phần Lan không phân
biệt giàu hay nghèo, thành thị hay nông thôn, tất cả đều được hưởng một nền giáo dục
như nhau.


H2.3. Lớp học ở Phần Lan
2.1.2. Ở các nước phương Đông
Nhật Bản được biết đến như là một đất nước có nền giáo dục đứng vào hàng đầu
Thế giới. Đối với Nhật Bản, một đất nước nghèo tài nguyên thiên nhiên thì yếu tố “con
người” đã từ lâu được chú trọng và giáo dục con người được xem như một địn bẩy thúc
đẩy cơng cuộc hiện đại hóa, phát triển kinh tế đất nước.

H2.4. Lễ tốt nghiệp ở Nhật Bản
Mục tiêu gd của Nhật “Không để một trẻ em nào trong một gia đình và khơng một
gia đình nào trong cộng đồng không được giáo dục”, nền giáo dục Nhật Bản hướng đến
thúc đẩy sự phát triển hài hòa của trẻ em về mọi mặt từ trí tuệ, thể chất đến nhân cách,
thái độ…giáo dục sẽ cung cấp nhân lực, nhân tài cho các lĩnh vực kinh tế - xã hội nhằm
phát triển đất nước. Đây là quốc gia ln tạo ra sức hút khó cưỡng đối với du học sinh
quốc tế.
Việt Nam và Trung Quốc là hai đất nước tiếp giáp với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau
trong suốt chiều dài lịch sử. Tuy nhiên giáo dục Trung Quốc lại có sự khác biệt rõ ràng.

H 2.5. Rèn luyện trẻ em ở Trung Quốc
Trrung Quốc đưa ra mục tiêu giáo dục phải kế thừa và phát huy truyền thống lịch
sử, văn hoá ưu tú của dân tộc Trung Hoa, tiếp thu mọi thành quả ưu tú, văn minh, phát


lOMoARcPSD|15547689

triển của nhân loại; "đặtgiáo dục vào vị trí chiến lược ưu tiên phát triển” với sứ mệnh cơ
bản là “phục vụ xâydựng hiện đại hoá, phục vụ nhân dân, kết hợp với lao động sản xuất
và thực tiễn xãhội, bồi dưỡng thế hệ những người…phát triển toàn diện...
Trung Quốc cịn được biết đến với nền giáo dục vơ cùng nghiêm ngặt, ép buộc.
Trẻ em Trung Quốc học hơn 10 giờ mỗi ngày. Nhiều trường học của Trung Quốc áp dụng

hình phạt thể chất với học sinh. Giờ nghỉ trưa của học sinh Trung Quốc thường kéo dài 1
tiếng đồng hồ. Trẻ em có gia cảnh nghèo khó thường khơng muốn học hoặc quá nghịch
ngợm nên bị đuổi ra khỏi trường
2.1.3. Bối cảnh nền giáo dục ở Việt Nam
Hệ thống giáo dục Việt Nam cũng có điểm mạnh và điểm yếu riêng:
Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục là quốc sách và ưu tiên đầu tư cho giáo
dục. Bên cạnh đầu tư ngân sách nhà nước (NSNN) cho giáo dục luôn ở mức xấp xỉ
20%/tổng chi NSNN, tương đương 5% của GDP, Nhà nước cịn có nhiều chính sách hỗ
trợ khác cho giáo dục, đào tạo. Vì vậy, trong hơn 70 năm qua, đặc biệt là sau hơn 30 năm
đổi mới, giáo dục Việt Nam đã có nhiều thay đổi, đạt được nhiều thành tựu lớn. Mục tiêu
giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức
khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức cơng dân; có lịng u
nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc và hội nhập quốc tế.

H 2.6. Lễ trao giải cho học sinh có thành tích vượt bậc ở Việt Nam
Năm 2012, Việt Nam lần đầu tiên tham gia cuộc thi PISA và xếp thứ 17 về Toán,
thứ 8 về Khoa học, thứ 19 về Đọc. Trong khi đó, Mỹ chỉ xếp 36 về Toán, 28 về Khoa học
và 23 về Đọc. Trong bảng xếp hạng dựa trên Toán và Khoa học do OECD công bố hồi
tháng 5/2015, Việt Nam giành vị trí thứ 12, cao hơn nhiều so với vị trí 28 của Mỹ.
Tuy nhiên, nhà trường Việt Nam vẫn còn là môi trường cạnh tranh và nhồi nhét
kiến thức, từ cấp 1 lên cấp 2, từ cấp 2 lên cấp 3 đều có các kì thi tuyển chọn trường học
hoặc ở mỗi năm học đều có các kì thi, kiểm tra như 15 phút, một tiết, giữa kì, cuối kì,….
Có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn, các trẻ em ở vùng cao vẫn chưa có
nhiếu điều kiện học tập tốt như trẻ em ở thành thị. Trong các trường học vẫn còn những
sự phân biệt giữa trường chuyên và lớp chọn.
2.1.4. Đánh giá chung nền giáo dục của các nước Phương Tây và Phương Đông



lOMoARcPSD|15547689

Hệ thống giáo dục phương Tây phát triển trên cơ sở gọi là "Đối thoại So-crat" bắt
nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại, cách đây hơn 2000 năm, bởi nhà triết học So-crat. Nhưng
những gì So-crat đạt được là khởi đầu phương pháp dạy học mà tất cả các trường đại học
tốt nhất trên thế giới đều áp dụng từ đó đến nay. Đó là dạy học sinh, sinh viên cách suy
nghĩ độc lập, lập luận logic, trao đổi cởi mở, và tự tin với những nhận định của cá nhân
trong quá trình suy nghĩ, lập luận để bảo vệ ý kiến cá nhân của mình. Các phương pháp
luận khoa học phát triển ở thế kỷ 16, 17 cũng bắt nguồn từ truyền thống giàu tính lịch sử
này, tập trung vào quá trình lập luận, trao đổi cởi mở để tìm ra câu trả lời.
Khác với hệ thống giáo dục phương Tây, ở phương Đông, nuôi dạy một đứa trẻ tài
năng và thành công, một đứa trẻ biết tôn trọng người lớn tuổi, tơn trọng nền văn hóa của
mình và biết sống tử tế là mục tiêu chính ở các quốc gia phương Đơng.
Song, nhìn lại khơng một quốc gia nào sở hữu một nền giáo dục hoàn hảo cả,
chúng ta luôn phải vận động và phát triển nhận thức của con người theo thời gian, học tập
và trao đổi kinh nghiệm giữa các nước để có thể cải cách nền giáo dục nước nhà.
2.2. Tính tất yếu khách quan của việc cải cách giáo dục và vai trò của nhận
thức trong q trình đó
Ngày nay, cải cách giáo dục là vấn đề mang tính tồn cầu, các nước đang phát
triển và các nước phát triển đều xem cải cách giáo dục như một động lực mạnh mẽ để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển dân chủ và các mặt khác của đời sống xã hội. Ở
Việt Nam, cuộc cải cách giáo dục được thực hiện từng bước thận trọng và đã thể hiện rõ
vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước. Có thể khẳng
định rằng cải cách giáo dục là một đòi hỏi tất yếu.
Những yếu tố thúc đẩy việc cải cách giáo dục trở thành nhu cầu cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay.
Thứ nhất, yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội được đặt ra. Giáo dục đóng
vai trò quan trọng trong sự phat triển đất nước, đào tạo ra thế hệ tương lai làm chủ đất
nước. Như Bác Hồ nói: “Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt

Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
khơng, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”
Thứ hai, yêu cầu hội nhập quốc tế: Nhiều nội dung hoạt động gắn với các giáo dục
có yếu tố nước ngồi như: khoa học, đào tạo ... địi hỏi phải hiện đại hóa giáo dục. Muốn
cạnh tranh uy tín trên thị trường quốc tế, Việt Nam cần phải nâng cao, cải cách nền giáo
dục.
Thứ ba, nhận thức của con người là không giới hạn, trí tuệ là nguồn lực vơ hạn
Con người khơng chỉ có khả năng sinh sản sinh học mà cịn không ngừng phát triển về


lOMoARcPSD|15547689

mặt trí tuệ và thể chất nhờ học tập. Từ đó, nhận thức có thể góp phần cải tạo, nâng cấp
những nguồn lực khác, hay sáng tạo ra những yếu tố chưa có trong giới tự nhiên.
Thứ tư, theo quan điểm của Marx thì con người có sức mạnh to lớn khi trí tuệ của
lồi người có thể vật thể hóa và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong thời đại
công nghệ khoa học phát triển như vũ bão, các nước phát triển vận động theo hướng tri
thức. Nguồn lợi thu được từ tri thức có thể chiếm một nửa tổng giá trị tài sản quốc gia.
Nói tóm lại, yếu tố nhận thức là yếu tố tiên quyết quyết định sự thành bại của quá
trình cải cách giáo dục, đồng thời cũng là mục tiêu hướng tới của quá trình này. Từ bài
học, kinh nghiệm lịch sử của nhiều quốc gia và thực tiễn đã khẳng định quá trình cải cách
giáo dục cịn phụ thuộc vào chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, phụ
thuộc rất nhiều vào ý thức và năng lực nhận thức của mỗi cá nhân.
2.3. Việt Nam cần học hỏi gì ? và giải pháp cho việc cải cách giáo dục
2.3.1. Những điểm chính cần điều chỉnh
Thứ nhất, Giáo dục của phương Tây lấy học sinh làm trọng tâm. Giáo dục của Việt
Nam lấy giáo viên làm trọng tâm. Điểm này, Việt Nam cần thay đổi và không nên đi
ngược lại với xu thế của thế giới. Khi học ở Úc hay ở Mỹ, thời gian học trên lớp giữa
thầy và trò chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với thời gian học tổng thể của học sinh. VD: một mơn
học có ba tiếng/một tuần học trên lớp với thầy thì sinh viên phải đọc khoảng 200 trang tài

liệu ở thư viện hoặc ở nhà để chuẩn bị cho ba tiếng đó trên lớp với thầy, và tham gia tranh
luận với các bạn cùng lớp. Khi lấy học sinh, sinh viên làm trọng tâm trong giảng dạy thì
điểm của sinh viên được đánh giá theo khả năng lập luận và giải quyết vấn đề, chứ không
theo khả năng nhắc lại câu trả lời đúng mà giáo viên đã dạy. ( Hình )

H 2.7 Đầu tư cho giáo dục đại học ở Việt Nam rất thấp
Thứ hai ,khuyến khích sự độc lập và chịu trách nhiệm của trẻ. Nền giáo dục của
VN chịu ảnh hưởng nhiều của Đạo Khổng, đem lại cho các thế hệ trẻ của chúng ta nhiều
giá trị văn hóa tốt đẹp, như: kính trên nhường dưới, tơn trọng thầy cô giáo, tinh thần ham
học cao ngay cả khi điều kiện trường lớp còn rất hạn chế như ở các tỉnh miền núi Hà
Giang, và vùng Tây Nguyên. Các bạn trẻ được bố mẹ dành cho những điều kiện học hành
tốt nhất có thể, ngay cả khi gia đình cịn nhiều ưu tiên khác.. Ví dụ: trung bình một gia
đinh ở Việt Nam phải bỏ ½ thu nhập hàng tháng của mình chỉ để lo các chi phí về học
hành cho hai con.( Hình )

H2.8. Học phí trường chất lượng cao ở Hà Nội cao gấp 30 lần trường đại trà


lOMoARcPSD|15547689

Thứ ba, tơn trọng tính chất cá nhân của học sinh. Cho dù có những phẩm chất như
nói trên, nhưng một số quy tắc, thói quen bắt nguồn từ Đạo Khổng lại là cản trở lớn cho
nền giáo dục hiện đại của Việt Nam. Học sinh, sinh viên không được dạy và khuyến
khích tranh luận với thầy cơ giáo, khơng được dạy cách suy nghĩ lập luận độc lập, ít tính
đến các khả năng khác, ít đưa ra cách giải quyết vấn đề khác. Nói một cách hình ảnh là
học sinh được dạy rằng: chỉ có một con đường để đi từ A đến B và đó chính là đường
thẳng. Học sinh ít được khuyến khích tìm hiểu liệu cịn có cách nào khác để đi từ A đến
B.
Chúng ta không nên nghĩ rằng: hệ thống giáo dục của phương Tây là hoàn hảo, và
hệ thống giáo dục của Việt Nam cần phải áp dụng hệ thống giáo dục của phương Tây thì

mới có thể giảm thiểu nạn 'tị nạn giáo dục' và đóng góp cho q trình phát triển của đất
nước, cho theo kịp các nước phương Tây. Cả hai hệ thống đều có những điểm mạnh và
điểm yếu. VD: hệ thống giáo dục ở những trường hàng đầu của Mỹ càng làm cho tình
trạng phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Chỉ có 15% sinh viên của những trường
hàng đầu của Mỹ là xuất thân từ các gia đình thuộc nửa thu nhập thấp... Cịn ở Việt Nam,
tính độc lập nghiên cứu khoa học của sinh viên vô cùng yếu. Nếu học hỏi nhau thì cả hai
hệ thống giáo dục đều trở nên tốt hơn hiện tại.
2.3.2. Giai pháp cho việc cải cách
Một là, Đảng và Nhà nước cần nâng cao chất lượng quản lý một cách có hiệu quả
đối với nguồn nhân lực trước những yêu cầu mới của phát triển nền kinh tế thị trường,
hội nhập và cạnh tranh. Nước ta cần phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối
hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong công tác chỉ đạo, quản lý và tổ chức thực hiện các
chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển nhận thức.
Hai là, cải cách giáo dục đại học và đào tạo nghề nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo; kết hợp chặt chẽ với khoa học - kỹ thuật - cơng nghệ mới. Nhận thức có tầm ảnh
hưởng quan trọng đến chất lượng giáo dục đào tạo. Trong đó, hai yêu cầu cấp thiết hiện
nay là phải gắn đào tạo của nhà trường với yêu cầu của thị trường lao động và gắn đào
tạo giáo dục với ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm khắc phục sự bất hợp lý về cơ cấu đội
ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn kỹ thuật, sự mất cân đối nghiêm trọng trong phân bố
cán bộ giữa khu vực sản xuất vật chất và phi vật chất, giữa thành thị và nông thôn, giữa
khu vực quốc doanh và khu vực tư nhân.
Ba là, Việt Nam cần tập trung đào tạo, thu hút, sử dụng nguồn lực con người vừa
mang tính tổng thể, vừa đảm bảo có trọng tâm, trọng điểm; đưa ra nhiều chính sách,
chương trình, đề án để phát triển, khai thác nguồn nhân lực ở nhiều lĩnh vực
Về cải cách giáo dục ở Việt Nam "Giáo dục là một hệ thống phức tạp, theo nghĩa
khoa học của từ này, cần phải được tiếp cận và vận hành như một hệ thống phức tạp mới
có hy vọng tránh khỏi sai lầm, thất bại. Lãnh đạo, quản lý giáo dục mà thiếu tư duy hệ


lOMoARcPSD|15547689


thống, thiếu một tầm nhìn chiến lược bao quát thì chỉ có sa vào sự vụ, nay thế này mai thế
khác, "đổi mới" liên miên nhưng vụn vặt, chắp vá, không nhất quán, rốt cục tiêu tốn
nhiều công sức tiền của mà kết quả chỉ làm rối thêm một hệ thống vốn đã què quặt, thiếu
sinh khí, thường xuyên trục trặc. Trong một thế giới biến chuyển cực kỳ mau lẹ, chỉ chậm
một vài năm đã có thể gây thiệt hại đáng kể, huống chi mấy thập kỷ liền hầu như giẫm
chân tại chỗ và loay hoay với những vấn nạn nhức nhối kéo dài hết năm nầy qua năm
khác. Khơng đâu cần bốn chữ cần kiệm liêm chính hơn lĩnh vực giáo dục. Cũng không
đâu cần tư duy phê phán, cần tự do, sáng tạo hơn ở đây. Một nền học thuật đã thiếu vắng
các đạo đức và đức tính cơ bản ấy tất nhiên sớm muộn cũng biến chất và lâm vào bế tắc.
Khi ấy những điều chỉnh cục bộ theo kiểu đổi mới từng việc vụn vặt như vừa qua khơng
những khơng có tác dụng mà cịn làm kéo dài thêm tình trạng trì trệ. Lúc này lối ra duy
nhất cho giáo dục là cải tạo cấu trúc, xây dựng lại từ gốc, thay đổi cả thiết kế hệ thống.
Chỉ có như thế mới mong cứu giáo dục thoát ra khỏi khủng hoảng triền miên.


lOMoARcPSD|15547689

LIÊN HỆ BẢN THÂN
C.Mác từng nói: “Triết học khơng treo lơ lửng bên ngồi thế giới, cũng như bộ óc
khơng tồn tại bên ngoài con người”. Triết học Mác- Lê-nin với phép duy vật biện chứng
cũng khơng nằm ngồi quy luật trên, thậm chí cịn là “xương sống’” cho rất nhiều hoạt
động nhận thức của con người. Nội dung của quan niệm về nhận thức dù chỉ được khái
quát nhất nhưng cũng đã phần nào giúp cho mỗi chúng ta rút ra cho mình được một vài
bài học cho riêng bản thân từ đó vận dụng vào và phát triển con người chính mình.
Nếu chỉ có những lí thuyết đơn thuần và những ví dụ khá chung chung về nội
dung của phép duy vật biện chứng thì cịn khá xa rời thực tế. Nhưng để dễ hiểu và gần
gũi hơn, bản thân em sẽ đưa ra chính những trải nghiệm của bản thân, sau khi đã tìm hiểu
về các nội dung và ý nghĩa của quan diem ve nhận thức.
Trước kia bản thân em là một người khá ngại giao tiếp với những người mới, hay

không cởi mở với môi trường mới, cũng khơng q chú ý vấn đề ngồi hình, quần áo. Có
thể nói, việc lên học đại học đã giúp cho em nhận ra bản thân mình cịn rất nhiều thiếu
sót, và có những khả năng em cịn chưa khám phá hết về bản thân. Và để tự tin hơn khi
đứng trước đám đơng thuyết trình, em đang từng ngày rèn luyện, cởi mở hơn trong việc
giao tiếp với mọi người xung quynh, bớt ngại ngùng và đang cố gắng để bản thân tham
gia nhiều hơn vào các hoạt động của lớp cũng như của trường.
Bản thân em sau khi tìm hiểu về quan nhiệm chung của sự nhận thức, có tự nhận
thức và rút ra cho mình một bài học, đó là muốn phát triển bản thân thì cần dựa vào chính
bản than của mình bởi vì nguồn gốc của sự phát triển là nằm bên trong sự vật, hiện tượng.
Mặc dù trước kia, khi chưa biết đến quan niệm của sự nhận thức , bản thân em cũng đã tự
có ý thức học tập để có thể đạt được những mục tiêu mà mình đã đặt ra. Bên cạnh sự giúp
đỡ của giáo viên, sự đốc thúc của gia đình thì chính bản thân mỗi con người chúng ta
phải có ý thức phát triển bản thân. Từ việc học tập, rèn luyện sức khỏe, hay việc thay đổi
để thích ứng với mơi trường xung quanh. Chỉ khi trong chính con người ta muốn thì tìm
tịi và học hỏi mới được hình thành được sự nhận thức.
Quan điểm này nói lên mọi vấn đề trong cuộc sống, trong học tập rèn luyện của
sinh viên, giúp ta có những đánh giá đúng về bản chất của mọi sự vật xung quanh và có
cái nhìn tốt đẹp hơn đối với mỗi người.


lOMoARcPSD|15547689

LỜI KẾT
Việt Nam đang xây dựng một chế độ chủ nghĩa xã hội - một chế độ của dân, do dân và vì
dân. Bởi vậy, hình thành những quan điểm đúng đắn về đường lối và vai trò của nhận
thức trong sự phát triển kinh tế - xã hội là một vấn đề trọng tâm, không thể thiếu được
trong lý luận của chủ nghĩa Marx - Lenin.
Đối với một quốc gia đi lên từ chế độ xã hội chủ nghĩa thì giáo dục là quá trình tất yếu
khách quan để đáp ứng tiến trình hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng.
Thực tiễn đã chứng minh rằng một quốc gia có thể khơng thuận lợi về tài nguyên, thiên

nhiên nhưng nền giáo dục vẫn có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu quốc
gia đó vận dụng và theo đuổi một đường lối đúng đắn, biết tổ chức thực hiện; với đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý, đội ngũ trí thức chất lượng cao; lực lượng tri thức có chất lượng
và nền tảng tốt . Nhờ vậy, Việt Nam đã đạt được những bước phát triển đáng kể về giáo
dục . Tuy nhiên, việc cải cách và phát triển còn gặp nhiều rào cản và thách thức, xuất
phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau.
Từ những phân tích trên, tiểu luận đưa ra kết luận rằng lý luận chủ nghĩa Marx – Lenin
nói chung và quan điểm của chủ nghĩa Marx - Lenin về nhận thức nói riêng là kim chỉ
nam, đóng vai trị định hướng cho Việt Nam thực hiện thành cơng q trìnhcải cách giáo
dục; trở thành một quốc gia văn minh, dân giàu, nước mạnh; thoát khỏi cái ngưỡng gị bó,
ép buộc. Đồng thời, tiểu luận cịn đề xuất một số nhóm hạn chế và ngun nhân nhằm cải
thiện và nâng cao nguồn lực giáo dục để công cuộc cải cách tại Việt Nam gặt hái những
thành công sau này.
Một lần nữa, em chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Thu Hà đã tạo điều kiện để em thực
hiện bài tiểu luận “Quan điểm của triết học Marx-Lenin về nhận thức và vận dụng chúng
vào quá trình cải cách giáo dục ở nước ta ”. Do kiến thức cịn hạn chế và nhiều sai sót,
em mong nhận được góp ý và phản hồi của cơ để bài làm hoàn thiện hơn.


lOMoARcPSD|15547689

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Triết học Marx - Lenin, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Đặng Văn Thanh: Đổi mới và nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục, đào tạo, Tạp chí Kế
tốn và Kiểm tốn, số tháng 1+2/2018.
Phùng Xuân Nhạ: Giáo dục Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng cơng nghiệp lần
thứ tư, Tạp chí Cộng sản, tháng 8, 2018.
Đinh Thị Nga: Đầu tư của nhà nước cho giáo dục, đào tạo: Thực trạng và một số đề xuất,
Tạp chí Tài chính, tháng 10, 2017.
Wikipedia

Cơng cụ tìm kiếm: Google



×