Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.51 KB, 81 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh đặc biệt. Do tính
chất và đặc trưng của ngành, hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh
tế thị trường luôn tiềm ẩn rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh
khoản, rủi ro hối đoái... Điều này luôn là mối đe dọa thường xuyên tới kết quả
hoạt động kinh doanh của NHTM, buộc các NHTM phải đối mặt với nguy cơ
giảm mức thu nhập dự kiến hoặc giảm vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Vì vậy,
để hoạt động ngân hàng được tiến hành một cách an toàn và hiệu quả thì các
NHTM phải làm tốt công tác quản trị rủi ro, kiểm soát và hạn chế được rủi ro
nhằm giảm thiểu tổn thất đến mức thấp nhất.
Một trong những rủi ro đặc thù của NHTM là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín
dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của NHTM.
Nhiều quan điểm cho rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường kinh doanh, có thể
phòng ngừa, hạn chế chứ không thể loại trừ. Rủi ro xảy ra không những làm
thiệt hại cho ngân hàng mà còn cho cả khách hàng và toàn bộ nền kinh tế. Vì
vậy, việc nghiên cứu giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trở thành một
yêu cầu bức thiết đối với hệ thống ngân hàng.
Sau một thời gian tìm hiểu tình hình hoạt động kinh doanh tại NHNo &
PTNT Thanh Trì - Hà Nội, em nhận thấy tầm quan trọng của công tác giám
sát và phòng ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Vì vậy, em đã chọn đề tài “Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo &
PTNT Thanh Trì - Hà Nội” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là hệ thống lại các kiến thức về rủi ro
tín dụng và các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng. Trên cơ sở đó tiến hành
xem xét thực trạng rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Thanh Trì, từ đó đề
xuất những giải pháp và kiến nghị giúp ngân hàng có thể hạn chế rủi ro tín
1
dụng một cách tốt nhất trong khả năng của mình. Ngoài phần mở đầu, phần
kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận cơ bản về RRTD trong kinh doanh ngân hàng.
- Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo & PTNT


Thanh Trì.
- Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại
NHNo & PTNT Thanh Trì.
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo NHNo & PTNT Thanh Trì và
cô giáo hướng dẫn Thạc sĩ Nguyễn Thị Toàn đã giúp đỡ, phòng Tín dụng của
ngân hàng đã cung cấp số liệu để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG
KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1. Tín dụng ngân hàng, rủi ro và sự cần thiết của quản trị rủi ro tín dụng.
1.1.1. Tín dụng ngân hàng.
Trước hết, tín dụng là một phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ vay
mượn giữa các chủ thể trong nền kinh tế theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc
và lãi đúng thời hạn, có mục đích và bảo đảm tiền vay. Theo nghĩa nguyên
thủy, tín dụng (credit) là sự tin tưởng, tín nhiệm mà cho vay mượn các loại
vật tư, hàng hóa, tiền tệ. Hiểu theo nghĩa rộng, tín dụng là một loại quan hệ xã
hội biểu hiện mối liên hệ kinh tế, trước hết là dựa trên cơ sở niềm tin. Đặc
điểm cơ bản của hoạt động tín dụng thể hiện ở sự vận động mang tính hoàn
trả của lượng vốn tín dụng, có nghĩa là sau một thời gian cho vay nhất định
người đi vay phải hoàn trả cả gốc và lãi cho người cho vay. Nói cách khác,
hoạt động tín dụng chỉ thay đổi quyền sử dụng vốn mà không làm thay đổi
quyền sở hữu vốn của người cho vay. Ngày nay, hoạt động tín dụng không
chỉ dựa vào cơ sở niềm tin mà còn được pháp luật bảo vệ nhằm đảm bảo cho
sự tồn tại và phát triển ổn định của các quan hệ tín dụng.
Trải qua quá trình phát triển lâu dài, các hình thức tín dụng ngày càng
đa dạng và phong phú. Trong đó, tín dụng ngân hàng (TDNH) được xem là
hình thức tín dụng cao nhất của nền kinh tế hàng hóa và giữ vị trí chủ đạo
trong hệ thống tín dụng. TDNH biểu hiện mối quan hệ bằng tiền và được thực
hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi giữa một bên là ngân

hàng với một bên là phần còn lại của nền kinh tế. Khái niệm về TDNH ngày
càng được mở rộng dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng có thể định nghĩa
một cách tổng quát như sau: “Tín dụng ngân hàng là việc tổ chức tín dụng
3
(ngân hàng) sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín
dụng. Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử
dụng một khoản tiền với nguyên tắc hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho
vay, chiết kháu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ
khác.” (Theo Luật số 20/2004/QH11 về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật các tổ chức tín dụng).
Xét về bản chất, TDNH chính là các quan hệ tín dụng được thực hiện
bởi chủ thể là hệ thống các ngân hàng do vậy TDNH mang đầy đủ đặc trưng
cơ bản của hoạt động tín dụng. Các quan hệ TDNH được biểu hiện trên bề
mặt là sự chuyển nhượng lượng vốn tín dụng qua các giai đoạn như: phân
phối, sử dụng và hoàn trả vốn tín dụng. Sự vận động của lượng giá trị vốn tín
dụng khi quay về điểm xuất phát luôn phải đảm bảo giá trị và giá trị tăng
thêm, dưới hình thức lợi tức, thông qua cơ chế điều tiết lãi suất.
Xét về hoạt động, TDNH là một hoạt động kinh doanh tiền tệ. Trong
đó, đối tượng của TDNH là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Ngân
hàng thực hiện nhiệm vụ đi vay vốn của những người có vốn để cho vay
những người cần vốn, được hưởng lợi nhuận, theo sự điều tiết của cơ chế thị
trường và được pháp luật bảo vệ. Với các chức năng và vị trí quan trọng của
công cụ tiền tệ, TDNH đã trở thành hình thức tín dụng phổ biến nhất trong
nền kinh tế.
Trong thực tế, hoạt động tín dụng rất phong phú và đa dạng nhưng bất
kỳ hình thức tín dụng nào cũng có hai giai đoạn: người cho vay chuyển vốn
cho người đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định, và sau khi đến thời
hạn do hai bên thỏa thuận người đi vay sẽ trả lại cho người cho vay một
khoản giá trị lớn hơn, phần tăng thêm gọi là tiền lãi.
Hoạt động tín dụng ngân hàng có những đặc điểm cần lưu ý như sau:

4
Thứ nhất, giao dịch tín dụng được thực hiện trên cơ sở tin tưởng giữa
hai bên khách hàng và ngân hàng. Trong đó, khách hàng tin tưởng ngân hàng
về khả năng cung cấp dịch vụ và thực hiện những cam kết đối với khách hàng
còn ngân hàng tin tưởng ở khả năng hoàn trả cũng như tính sẵn lòng hoàn trả
của khách hàng. Nghiên cứu lý luận quản trị rủi ro tức là đứng trên góc độ
ngân hàng thì đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng vì rủi ro ở đây nằm ở chỗ
khách hàng có hoàn trả khoản vay cho ngân hàng hay không, trong đó tính “
sẵn lòng hoàn trả” của khách hàng giữ vai trò quyết định.
Thứ hai, giao dịch được thực hiện trên cơ sở chuyển giao tài sản từ
phía ngân hàng cho khách hàng. Ngân hàng cấp tín dụng thực chất là tài trợ
vốn cho khách hàng mà vốn là khái niệm mang tính vô hình, do đó nó phải
được biểu hiện dưới một hình thái hữu hình nào đó mà ta gọi là tài sản. Tài
sản này có thể là tiền, máy móc, thiết bị, hàng hóa,…nhưng chủ yếu là dưới
hình thái tiền. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đặc điểm này trong quản trị rủi ro
tín dụng nằm ở chỗ rủi ro ở đây nằm trong quá trình lưu chuyển vốn. Cụ thể
là vốn được chuyển từ ngân hàng tới tay khách hàng dưới hình thái tiền tệ (là
chủ yếu), sau đó tùy theo mục đích sử dụng của mình mà khách hàng tiếp tục
chuyển hóa hình thái tiền tệ đó sang các hình thái khác…cuối cùng nó lại
quay về hình thái tiền tệ để hoàn trả ngân hàng. Trong dòng lưu chuyển vốn
đó, rủi ro có thể xảy ra ở bất kỳ khâu nào và điều cần lưu ý ở đây là rủi ro đó
sẽ xảy ra đối với khách hàng trước rồi mới đến ngân hàng. Bởi vậy, để quản
trị được rủi ro thì ngân hàng phải kiểm soát khách hàng từ việc khách hàng đã
chuyển hóa đồng vốn vay như thế nào.
Thứ ba, giá trị hoàn trả của khách hàng phải lớn hơn giá trị ban đầu.
Đến kỳ đáo hạn, khách hàng phải hoàn trả khoản vay cho ngân hàng bao gồm
khoản vay gốc và một khoản lãi vay. Khoản lãi vay này dùng để trang trải các
chi phí mà ngân hàng bỏ ra (như chi phí huy động vốn, chi phí các hoạt
5
động…) và để ngân hàng có lợi nhuận. Việc tính toán lãi của khoản vay liên

quan đến vấn đề lãi suất và rủi ro lãi suất cũng nằm trong hệ thống rủi ro kinh
doanh mà ngân hàng phải đối mặt, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của đề
tài này thì rủi ro lãi suất sẽ không được đề cập đến.
Thứ tư, khách hàng cam kết sẽ hoàn trả khoản vay cho ngân hàng đúng
hạn. Đặc điểm này hết sức quan trọng trong quá trình nghiên cứu quản trị rủi
ro tín dụng vì những lý do sau: Trước hết, khoản tiền mà ngân hàng cho vay
không thuộc sở hữu của ngân hàng vì ngân hàng là một đơn vị trung gian tài
chính thực hiện kinh doanh tiền tệ trong đó chủ yếu là nhận tiền gửi. Hoạt
động kinh doanh tiền gửi này có một quy tắc là khi khách hàng gửi tiền vào
ngân hàng với bất kỳ thời hạn nào thì ngân hàng không có quyền từ chối nếu
khách hàng đó muồn rút tiền trước thời hạn, ngược lại khi ngân hàng cho vay
một khách hàng nào đó thì dù có bất kỳ lý do gì cũng không được phép đòi
khách hàng đó thanh toán nếu chưa đến hạn. Bởi vậy, việc các khoản vay
được thanh toán đúng hạn có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo khả nảng
thanh khoản của ngân hàng.
1.1.2. Rủi ro tín dụng và sự cần thiết phải quản trị rủi ro tín dụng trong kinh
doanh ngân hàng.
1.1.2.1. Khái niệm, các hình thức và phân loại rủi ro tín dụng:
Trước hết, ta tìm hiểu khái niệm thế nào là rủi ro. Nhiều nhà kinh tế
học đã định nghĩa “rủi ro” theo các cách khác nhau. Frank Knight, một học
giả người Mỹ đầu thế kỷ 20 định nghĩa “rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường
được”. Alain Willet cho rằng “rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến biến
cố không mong đợi”. Còn Irving Perfer lại nói “rủi ro là tổng hợp của những
sự ngẫu nhiên có thể đo lường bằng xác suất”. Như vậy, các định nghĩa tuy có
khác nhau nhưng đều thống nhất ở một điểm coi rủi ro là sự bất trắc không
mong đợi, gây ra thiệt hại và có thể đo lường được.
6
Có thể nói trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ hoạt động kinh doanh
nào cũng tiềm ẩn những rủi ro. Kinh doanh ngân hàng cũng không phải là
ngoại lệ. Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, có liên quan đến

nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, chịu sự tác động của nhiều nhân tố
khách quan và chủ quan như kinh tế, chính trị, xã hội,…Từ đó cũng gây ra
những thiệt hại không nhỏ cho ngân hàng. Hơn nữa, ngân hàng kinh doanh
không những chỉ huy động vốn và cho vay mà còn nhiều lĩnh vực khác như
thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn liên doanh,
dịch vụ thẻ… Vì vậy mà rủi ro ngân hàng rất đa dạng, bao gồm:
- Rủi ro tín dụng
- Rủi ro lãi suất
- Rủi ro thanh khoản
- Rủi ro hối đoái
- Rủi ro thiếu vốn khả dụng
- Rủi ro trong tín dụng quốc tế
- Các rủi ro khác.
Trong số các loại rủi ro kể trên thì rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất
và phức tạp nhất do tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu và đồng thời là
nghiệp vụ tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao nhất của ngân hàng. Thông thường, đối
với các ngân hàng trên thế giới, hoạt động tín dụng đầu tư mang lại 2/3 thu
nhập của ngân hàng, còn ở Việt Nam là 90% thu nhập của ngân hàng. Tín
dụng ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa,
ngay cả những hoạt động phi sản xuất cũng không thể thiếu sự hỗ trợ của tín
dụng ngân hàng. Chính vì tín dụng ngân hàng tham gia vào mọi doanh
nghiệp, mọi ngành, mọi lĩnh vực của nền kinh tế, mà mỗi ngành mỗi lĩnh vực
kinh doanh lại có tính đặc thù, có sự phức tạp riêng, có những rủi ro riêng nên
7
RRTD của ngân hàng mang tính tổng hợp và khả năng xuất hiện là lớn hơn
các ngành khác.
Rủi ro tín dụng có nhiều cách định nghĩa, trong đó theo Điều 2 của Quy
định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của TCTD ban hành theo Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước

thì rủi ro tín dụng “là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng
của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Như vậy rủi ro tín dụng (RRTD) phát sinh khi một hoặc các bên trong
hợp đồng tín dụng không có khả năng thanh toán cho các bên còn lại. Ngân
hàng thương mại là trung gian tài chính thực hiện nghiệp vụ vay tiền của
người này để cho người khác vay. Như vậy rủi ro tín dụng đối với ngân hàng
xuất phát từ cả hai phía là người cho vay (chủ nợ của ngân hàng) và người đi
vay (con nợ của ngân hàng). Trường hợp thứ nhất là người gửi tiền (người
cho ngân hàng vay) muốn rút tiền mà ngân hàng lại không thanh toán được,
thực ra bản chất đấy là rủi ro thanh khoản nhưng nó lại liên quan mật thiết
đến trường hợp thứ hai là ngân hàng không thu được đầy đủ các khoản cho
vay bao gồm cả khoản gốc và lãi, hoặc việc thanh toán các khoản nợ (gồm
gốc và lãi vay) không đúng hạn. Điều này xảy ra khi khách hàng vay tiền của
ngân hàng không có khả năng trả nợ hoặc cố ý không trả nợ. Như vậy có thể
nói, khi các NHTM thực hiện kinh doanh nghiệp vụ tín dụng, các ngân hàng
không chỉ chịu rủi ro trong việc lựa chọn khách hàng mà còn chịu rủi ro của
khách hàng.
RRTD xuất hiện dưới nhiều hình thức, thể hiện qua biểu sau:
8
Từ biểu trên ta có thể thấy, tùy từng trường hợp mà ngân hàng hạch
toán vào các khoản mục theo dõi khác nhau như lãi treo hay nợ quá hạn. Khi
không thu được lãi đúng hạn, nguy cơ rủi ro đang ở mức thấp và chỉ đưa vào
mục lãi treo phát sinh. Nếu ngân hàng không thể thu đủ lãi thì sẽ có khoản
mục lãi treo đóng băng, trừ những trường hợp ngân hàng miễn giảm lãi đó
cho doanh nghiệp. Còn khi không thu được vốn đúng hạn, ngân hàng sẽ có
khoản nợ quá hạn phát sinh. Tuy nhiên, khoản này vẫn chưa thể coi là khoản
mất mát hoàn toàn của ngân hàng vì có thể vì lý do nào đó doanh nghiệp
chậm trả nợ gốc và sẽ trả sau hạn cam kết trong hợp đồng. Nếu như khoản
này ngân hàng không thể thu hồi được (chẳng hạn do doanh nghiệp phá sản)

thì lúc này ngân hàng coi như gặp RRTD ở mức độ cao vì đã phát sinh khoản
nợ không có khả năng thu hồi, trừ những trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp
vay vốn hội tụ đủ các điều kiện theo quy định về xóa nợ thì ngân hàng có thể
xem xét để xóa nợ cho doanh nghiệp.
RRTD tồn tại dưới nhiều hình thức, các hình thức đó luôn chuyển biến
cho nhau, mà mức độ cuối cùng là nợ không có khả năng thu hồi. Khi nghiên
Rủi ro tín dụng
Không thu
được lãi đúng
hạn
Không thu
được vốn đúng
hạn
Không thu đủ
lãi
Không thu đủ
vốn (mất vốn)
- Nợ không có
khả năng thu hồi
- Xóa nợ
- Lãi treo đóng
băng
- Miễn giảm lãi
Nợ quá hạn phát
sinh
Lãi treo phát sinh
9
cứu về RRTD, người ta thường chú trọng vào các nguy cơ xảy ra rủi ro như
lãi treo và đặc biệt là nợ phát sinh, còn lãi treo đóng băng và nợ quá hạn
không có khả năng thu hồi được coi là các tình huống rủi ro thực sự nên

thường được xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra bài học.
Có nhiều cách phân loại RRTD:
* Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, RRTD được chia thành:
- Rủi ro giao dịch: là hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh
là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay đánh giá
khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo
đảm và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và
phân tích tín dụng khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu
quả để ra quyết định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều
khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo,
hình thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản
vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro
và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên
nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân
hàng, được chia thành hai loại là rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
+ Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có mang
tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế,
từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay
quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt
10
động trong cùng một ngành, một lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một vùng
địa lý nhất định, hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
* Căn cứ vào tính chất:
- Rủi ro mất vốn: Ngân hàng không thu được các khoản nợ gốc và lãi
của khoản vay do người đi vay cố ý không trả nợ hoặc mất khả năng trả nợ.

- Rủi ro đọng vốn: do khách hàng sử dụng vốn không hiệu quả hoặc
gặp phải rủi ro nên không thể thanh toán khoản nợ đúng hạn.
1.1.2.2. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng:
* Nguyên nhân khách quan:
- Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt
gây tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh.
- Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới.
Bởi lẽ nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất
nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp cho nên nguồn vốn rất
nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, dễ bị tổn thương khi thị trường
thế giới biến động xấu.
- Sự tấn công của hàng nhập lậu: Với hàng trăm kilomet biên giới trên
bộ và trên biển cùng địa hình địa lý phức tạp cùng với tình hình nghèo khó
của dân cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu với hàng nhập lậu đã kéo dài dai
dẳng từ rất nhiều năm qua mà kết quả là hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành
phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư
vốn cho các doanh nghiệp này.
- Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của
cơ quan pháp luật cấp địa phương trong triển khai.
- Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà
nước. Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân
hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng,
11
năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, nội dung và
phương pháp thanh tra, giám sát còn lạc hậu,…
- Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng,
nguyên liệu đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách
hàng, khó khăn tài chính dẫn đến không có khả năng trả nợ.
* Nguyên nhân từ phía Ngân hàng:
Những TCTD được quản lý tốt thường thực hiện phân tích các khoản

cho vay đã gây tổn thất cho ngân hàng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm. Đề
phân tích chính xác nguyên nhân gây ra tổn thất, TCTD phải thu thập đầy đủ
thông tin về chính sách cho vay, chứng từ cho vay, cán bộ tín dụng giải quyết
hồ sơ, tình hình biến động của khách hàng, quá trình kiểm tra giám sát vốn
vay,… Sau đây là những trường hợp sai sót trong quy trình cấp tín dụng có
thể gây ra rủi ro:
- Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để
phân tích và đánh giá khách hàng,.. dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của
phương án xin vay, hoặc xác định thời hạn cho vay và trả nợ không phù hợp
với phương án kinh doanh của khách hàng.
- Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay nên
không phát hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích.
- Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, coi đó là vật
đảm bảo chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
- Rủi ro do sự cạnh tranh giữa các TCTD chưa thực sự lành mạnh, việc
chạy theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan
tâm đến chất lượng khoản vay.
- Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng ngân hàng
chưa đủ tầm và vấn đề quản lý, sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa đáng.
12
- Về cơ chế, chính sách và bản thân ngân hàng: thiếu chính sách cho
vay, thiếu các tiêu chuẩn rõ ràng, việc cấp tín dụng quá tập trung, thiếu sự
kiểm soát chặt chẽ, khoa học.
* Nguyên nhân từ phía khách hàng:
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay.
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi. Số lượng doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý
lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiểu. Tuy nhiên, những vụ
việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm
ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.

- Năng lực quản lý kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực vượt quá khả
năng quản lý.
- Khách hàng vay vốn tại nhiều TCTD dưới một danh nghĩa hay nhiều
thực thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thế, khó theo dõi được
dòng tiền dẫn đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh
toán dây chuyền.
- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô
tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của
hầu hết doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, sổ sách kế toán mà các doanh
nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là
thực chất. Do đó khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của
doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp thường thiếu tính
thực tế và xác thực.
- Chưa thực sự thay đổi quan điểm, còn xem vốn ngân hàng là vốn nhà
nước, nếu doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả thì ngân hàng chịu, ngân hàng
thua lỗ thì nhà nước chịu.
- Doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng.
13
* Nguyên nhân từ tài sản bảo đảm:
- Do giá cả biến động.
- Do khó định giá.
- Tính khả mại thấp.
- Có tranh chấp về pháp lý...
Các yếu tố trên vừa có tính độc lập tương đối, vừa quan hệ chặt chẽ và
chi phối lẫn nhau, có thể gây ra những tổn thất, thậm chí rất lớn, dẫn tới phá
sản của một hoặc một số NHTM, làm ảnh hưởng tới cả hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, trong rủi ro tiềm ẩn cơ hội, nếu có thể quản lý, kiểm soát tốt rủi ro
thì có thể biến rủi ro thành cơ hội phát triển, hoàn thiện và nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.1.2.3. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng:

* Ảnh hưởng của RRTD đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng:
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã
cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy
động khi đến hạn, điều này sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu
chi, vòng quay vốn tín dụng giảm làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu
quả, chi phí của ngân hàng tăng lên so với dự kiến.
Nếu một khoản vay nào đó bị mất khả năng thu hồi thì ngân hàng phải
sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một chừng
mực nào đó, ngân hàng không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì
ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy
cơ gặp rủi ro thanh khoản. Kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng
lực tài chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh giảm không những trong thị
trường nội địa mà còn lan rộng ra các nước, kết quả kinh doanh của ngân
hàng ngày càng xấu có thể dẫn ngân hàng đến thua lỗ, hoặc đưa đến bờ vực
phá sản nếu không có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời.
14
* Ảnh hưởng của RRTD đến nền kinh tế xã hội:
Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung
gian tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ
chức, các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền
sở hữu những khoản cho vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào ngân
hàng. Bởi vậy, khi RRTD xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt hại mà
quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng.
Khi một ngân hàng gặp phải RRTD hay bị phá sản thì người gửi tiền ở
các ngân hàng khác hoang mang, lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các
ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp phải khó khăn.
Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó
khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn
bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua

giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định.
Ngoài ra, RRTD cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay,
nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên
RRTD tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan.
Tóm lại, RRTD của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ
nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng
nhất là khi ngân hàng không thu được vốn, lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn
đến ngân hàng bị lỗ hoặc mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc
phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh
tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà
quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp
nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
15
1.1.2.4. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng:
* Nợ quá hạn: là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng không thể thu
hồi đúng hạn do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau.
Nợ quá hạn có nhiều loại, tuy nhiên, nếu dựa vào khả năng thu hồi thì
ta có thể chia nợ quá hạn thành 2 loại như sau:
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là những khoản nợ đến hạn thanh
toán, vì nhiều lý do khác nhau khách hàng chưa có khả năng thanh toán,
nhưng các phân tích chủ quan của ngân hàng cho thấy có thể thu hồi được nợ.
- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: là nợ quá hạn không thể thu
hồi sau khi phân tích các khả năng thu hồi. Trong trường hợp này các ngân
hàng được phép trích lập quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp.
* Lãi treo: là số tiền mà khách hàng không trả được khi đến hạn thanh
toán lãi. Lãi treo cũng là một dấu hiệu quan trọng để nhận biết RRTD, bởi vì
việc thanh toán lãi không gắn với việc trả lại gốc và có giá trị nhỏ hơn gốc rất
nhiều, được trả vào cuối tháng, khi doanh nghiệp không thanh toán được phần
lãi của món vay cho thấy dấu hiệu doanh nghiệp gặp khó khăn đặc biệt về tài

chính. Do vậy, khi xuất hiện lãi treo, ngân hàng phải tiến hành điều tra, phân
tích kỹ tình hình tài chính doanh nghiệp, tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp để tìm ra nguyên nhân tại sao doanh nghiệp không có khả năng
thanh toán lãi theo đúng hạn. Dựa vào kết quả phân tích, ngân hàng sẽ đưa ra
các biện pháp phù hợp nhất để hạn chế những tổn thất cho cả ngân hàng và
doanh nghiệp.
* Một số dấu hiệu khác:
Rủi ro tín dụng ẩn chứa trong các khoản cho vay có vấn đề, được biểu
hiện bằng nhiều dấu hiệu. Tuy nhiên qua thực tiễn hoạt động tín dụng người
ta cũng rút ra một số dấu hiện cơ bản chỉ khó khăn tài chính của người đi vay
và chính đó là những cảnh báo đối với cán bộ tín dụng, với ngân hàng. Ví dụ như:
16
- Việc trì hoãn nộp báo cáo tài chính:
Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng giúp ngân hàng hiểu được tình
hình sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính của người đi vay, báo hiệu khả
năng hoàn trả các khoản nợ. Việc trì hoãn nộp báo cáo tài chính có thể do
nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng có thể thấy được tình hình hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp có những dấu hiệu không bình thường. Vì vậy,
doanh nghiệp không muốn ngân hàng biết sớm về sự giảm sút năng lực tài
chính của mình.
- Gia tăng bất thường HTK, các khoản bán chịu và các khoản nợ:
Định mức tồn kế hoạch nguyên liệu, hàng hóa hợp lý là điều kiện cần
thiết để các doanh nghiệp đảm bảo ổn định sản xuất kinh doanh, song nếu
mức tồn kho vượt quá mức giới hạn cho phép chứng tỏ khả năng tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp là không bỉnh thường. Sự gia tăng hàng tồn kho có
thể là do giá cả, chất lượng, chủng loại hàng hóa,...dẫn đến doanh thu, thu
nhập kém. Đồng thời với sự gia tăng hàng tồn kho, giảm sút doanh thu thì các
khoản vay cũng gia tăng chứng tỏ khả năng thanh toán của doanh nghiệp
giảm sút, dẫn đến khả năng trả nợ ngân hàng là khó khăn.
- Giảm bất thường giá bán:

Điều này nếu không nằm trong chiến lược marketing của doanh nghiệp
thì tức là doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính.
- Hoàn trả nợ vay và lãi không đúng hạn:
Khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thì
luân chuyển vốn cũng mất ổn định dẫn đến khả năng thanh toán gặp nhiều
khó khăn, không thể hoàn trả nợ vay và lãi chi cho ngân hàng đúng kỳ hạn.
Nếu tình trạng này diễn ra thường xuyên và mức độ ngày càng lớn thì đây
chính là dấu hiệu rõ ràng nhất của rủi ro tín dụng.
17
Ngoài các dấu hiệu trên thì còn rất nhiều yếu tố khác như doanh nghiệp
thay đổi tổ chức, công nhân không có việc làm hay quan hệ giữa ngân hàng
và người vay trở nên kém thân thiện, hay các thảm họa về thiên nhiên như
bão lụt, hỏa hoạn, cháy rừng,... cũng là những dầu hiệu của rủi ro tín dụng.
1.2. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại:
Tín dụng là hoạt động chính yếu của ngân hàng. Nếu quản lý tốt, tín
dụng sẽ góp phần đáng kể trong việc tạo ra lợi nhuận và làm tăng giá trị ngân
hàng. Ngược lại, nếu quản lý kém, tín dụng có thể gây ra tổn thất lớn và làm
giảm giá trị ngân hàng. Một trong những mục tiêu quan trọng của quản lý tín
dụng là làm giảm tối đa RRTD. Muốn vậy, ngân hàng cần phải xác định
được các RRTD mà ngân hàng có thể gặp phải, lượng hóa và đánh giá được
RRTD để từ đó có các biện pháp quản lý hiệu quả. Công việc này bao gồm:
1.2.1. Nghiên cứu xác định các loại rủi ro:
1.2.1.1. Nhận dạng rủi ro:
Ngân hàng trước hết phân tích cơ cấu cho vay theo các tiêu thức như
thời hạn, khách hàng, phương thức cấp vốn, hình thức tài trợ,...và xác định
các loại rủi ro có thể có đối với mỗi loại hình và khả năng rủi ro xảy ra của
từng loại. Đối với mỗi loại rủi ro thì việc nhận dạng bao gồm theo dõi rủi ro,
xem xét rủi ro, nghiên cứu môi trường hoạt động cụ thể nhằm thống kê những
rủi ro đã và đang xảy ra đồng thời cố gắng dự báo những rủi ro có thể xảy ra
trong tương lai để đề ra những biện pháp kiểm soát và tài trợ phù hợp. Các

phương pháp thường được sử dụng là phân tích các báo cáo, phân tích các
hợp đồng vay vốn cụ thể và làm việc trực tiếp với các bộ phận có liên quan
khi rủi ro xảy ra.
18
1.2.1.2. Phân tích định tính rủi ro tín dụng:
Đây là một phương pháp truyền thống và đơn giản nhất để phân tích
RRTD. Việc phân tích RRTD sử dụng công cụ chính là hệ thống chỉ tiêu tài
chính đánh giá khách hàng:
* Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán (Liquidity ratios):
- Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tổng TS / Tổng nợ phải trả
- Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn = TSLĐ và đầu tư ngắn hạn /
Tổng nợ ngắn hạn
- Hệ số khả năng thanh toán nhanh = (TSLĐ và đầu tư ngắn hạn –
HTK) / Tổng nợ ngắn hạn
- Hệ số khả năng thanh toán lãi vay = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay /
Lãi vay phải trả
* Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời (Profitability ratios):
- Doanh lợi doanh thu (ROS) = Lợi nhuận ròng / DTT
- Doanh thu tổng tài sản (ROA) = Lợi nhuận ròng / Tổng tài sản BQ
- Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) = Lợi nhuận ròng / Vốn chủ sở hữu BQ
* Nhóm chỉ tiêu cơ cấu tài chính (Leverage ratios):
- Hệ số nợ = Nợ phải trả / Tổng TS
- Tỷ suất tự tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu / Tổng TS
- Tỷ suất tự tài trợ TSCĐ = Vốn chủ sở hữu / Giá trị TSCĐ
* Nhóm chỉ tiêu hoạt động (Activity ratios):
- Số vòng quay HTK = Giá vốn hàng bán / Hàng tồn kho BQ
- Số ngày một vòng quay HTK = 360 ngày / Số vòng quay HTK
- Vòng quay các khoản phải thu = DTT / Các khoản phải thu BQ
- Kỳ thu tiền trung bình = 360 ngày / Vòng quay các khoản phải thu
- Vòng quay VLĐ = DTT / TDLĐ bình quân

- Vòng quay tổng TS = DTT/ Tổng TS bình quân
19
*Nhóm chỉ tiêu tăng trưởng (Growth ratios):
- Tỷ lệ lợi nhuận tích lũy = Lợi nhuận tích lũy / LNST
- Tỷ lệ tăng trưởng bền vững = Lợi nhuận tích lũy / Vốn chủ sở hữu
= Tỷ lệ lợi nhuận tích lũy x ROE
Việc phân tích này nhằm mục đích trả lời câu hỏi “Liệu khách hàng vay
vốn này có thể tin tưởng được không?”. Trong kinh doanh ngân hàng thì “chữ
Tín quý hơn vàng”. Niềm tin là một trong những cơ sở quan trọng để tiến
hành một nghiệp vụ tín dụng. Ngân hàng chấp nhận cho vay dựa trên niềm tin
rằng khách hàng sẽ trả nợ cho mình đúng hạn. Mà sự tin tưởng là một khái
niệm trừu tượng, vì vậy ngân hàng cố gắng thẩm định khách hàng thông qua
những tiêu chí có thể đo lường được để khẳng định được thiện chí trả nợ của
người vay. Như đã nói ở trên, việc khách hàng có trả nợ hay không phụ thuộc
vào việc người đó có “khả năng trả nợ” và “tính sẵn lòng trả nợ” trong đó tính
sẵn lòng trả nợ là quyết định vì nếu người vay sẵn sàng trả nợ thì dù tài chính
có khó khăn anh ta cũng sẽ cố gắng xoay sở để tìm cách trả ngân hàng nhưng
nếu anh ta không muốn trả (đúng hạn) thì dù có khả năng trả nợ đi nữa thì
ngân hàng cũng không thể đòi được nợ (đúng hạn).
1.2.1.3. Đo lường rủi ro tín dụng:
Đây là điều mà các nhà quản lý ngân hàng rất quan tâm, vì rủi ro nếu
đo lường được thì việc phòng ngừa sẽ dễ dàng hơn.
Đo lường RRTD là việc sử dụng mô hình thích hợp để lượng hóa mức
độ rủi ro của khách hàng, từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng
an toàn tối đa đối với một khách hàng cũng như để trích lập dự phòng rủi ro.
Sau đây là các mô hình được áp dụng tương đối phổ biến:
20
* Mô hình định tính:
Mô hình định tính, hay còn gọi là mô hình chất lượng 5C là một trong
những mô hình được nhiều ngân hàng sử dụng để đánh giá, thẩm định một

đơn xin vay vốn của khách hàng. Mô hình này bao gồm các chỉ tiêu sau:
(1) Tư cách (Character)
Cán bộ tín dụng cần phải làm rõ mục đích xin vay của khách hàng, mục
đích xin vay của khách hàng có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành
của ngân hàng và phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của khách hàng
hay không, đồng thời xem xét lịch sử đi vay và trả nợ đối với khách hàng cũ;
còn nếu là khách hàng mới thì cần thu thập thông tìn từ nhiều nguồn khác như
từ: trung tâm phòng ngừa rủi ro, từ ngân hàng bạn, từ các cơ quan thông tin
đại chúng,...
(2) Năng lực của người vay (Capacity)
Tùy thuộc vào quy định pháp luật của quốc gia, đòi hỏi người đi vay
phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
(3) Thu nhập của người đi vay (Capital)
Tiếp theo, phải xác định được nguồn trả nợ của người vay như luồng
tiền từ doanh thu bán hàng hay thu nhập, tiền từ bán thanh lý tài sản, hoặc tiền
từ phát hành chứng khoán,…
(4) Tài sản bảo đảm (Collateral)
Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng và là nguồn tài sản thứ hai
có thể dùng để trả nợ vay cho ngân hàng.
(5) Các điều kiện (Conditions)
Ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng từng
thời kỳ như cho vay hàng xuất khẩu với điều kiện thu ngân phải qua ngân
hàng, nhằm thực thi chính sách tiền tệ của NHTW theo từng thời kỳ.
21
Sau khi xác định rõ các chỉ tiêu trên, nếu đơn xin vay vốn được chấp
thuận, cán bộ tín dụng tiến hành bước tiếp theo là kiểm tra tín dụng, có thể coi
là chữ C thứ 6 (Control – kiểm soát):
- Tiến hành kiểm tra tất cả các loại tín dụng theo định kỳ nhất định
(30,60,90 ngày).
- Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung quá trình kiểm tra thận

trọng và chi tiết, bảo đảm những khía cạnh quan trọng nhất được
kiểm tra.
- Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng lớn.
- Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng có vấn đề.
- Kiểm tra những ngành nghề có dấu hiệu suy thoái.
* Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & Poor:
Rủi ro tín dụng trong cho vay và đầu tư thường được thể hiện bằng việc
xếp hạng trái phiếu và khoản cho vay. Việc xếp hạng này được thực hiện bởi
một số dịch vụ xếp hạng tư nhân trong đó có Moody và Standard & Poor là
những dịch vụ tốt nhất. Đối với Moody, xếp hạng cao nhất là Aaa nhưng với
Standard & Poor thì cao nhất là AAA. Việc xếp hạng giảm dần từ Aaa
(Moody) và AAA (Standard & Poor) để phản ánh rủi ro không được hoàn vốn
cao. Trong đó, chứng khoán (khoản cho vay) trong 4 loại đầu được xem như
loại chứng khoán (khoản cho vay) mà ngân hàng nên đầu tư, còn các loại
chứng khoán (khoản cho vay) bên dưới được xếp hạng thấp hơn thì ngân hàng
không nên đầu tư hay cho vay. Nhưng thực tế vì phải xem xét mối quan hệ tỷ
lệ thuận giữa rủi ro và lợi nhuận nên những chứng khoán (khoản cho vay) tuy
được xếp hạng thấp (rủi ro không hoàn vốn cao) nhưng lại cho lợi nhuận cao
nên đôi lúc ngân hàng vẫn chấp nhận đầu tư hoặc cho vay.
22
Mô hình xếp hạng của công ty Moody và Standard & Poor:
Moody Standard & Poor Tình trạng
Aaa AAA Chất lượng cao nhất, rủi ro thấp nhất.
Aa AA Chất lượng cao.
A A Chất lượng trên trung bình.
Baa BBB Chất lượng trung bình.
Ba BB Chất lượng trung bình mang yếu
tố đầu cơ.
B B Chất lượng dưới trung bình.
Caa CCC Chất lượng kém

Ca CC Mang tính đầu cơ, có thể vỡ nợ.
C C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu.
* Mô hình điểm số Z (Z - Credit scoring model):
Đây là mô hình do E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các
doanh nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng để làm thước đo tổng hợp để phân
loại rủi ro tín dụng đối với người đi vay và phụ thuộc vào:
- Trị số của các chỉ số tài chính của người vay.
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ
của người vay trong quá khứ.
Từ đó, Altman xây dựng mô hình điểm như sau:
Z = 1,2 X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5
Trong đó:
X1: Hệ số vốn lưu động / Tổng tài sản
X2: Hệ số lãi chưa phân phối / Tổng tài sản
X3: Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi vay / Tổng tài sản
X4: Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu / Giá trị hạch toán của
nợ
X5: Hệ số doanh thu / Tổng tài sản
23
Trị số Z càng cao thì xác suất vỡ nợ của người đi vay càng thấp. Ngược
lại, khi trị số Z càng thấp hoặc là một số âm thì đó là căn cứ xếp khách hàng
vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao. Theo mô hình này, khách hàng có trị số Z <
1,81 bị coi là có độ rủi ro cao nên ngân hàng sẽ không cho vay ít nhất khi
khách hàng chưa cải thiện được điểm số lớn hơn 1,81.
1.2.2. Đánh giá rủi ro tín dụng:
Các chỉ số thường được sử dụng để đánh giá RRTD là:
* Tỷ lệ nợ quá hạn:
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng
của NHTM. Bởi vì chỉ tiêu này thể hiện chất lượng của những khoản vay. Khi
tỷ lệ này vượt mức giới hạn cho phép nó thể hiện sự yếu kém của hoạt động

tín dụng. Chính vì vậy, tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng hoạt động tín dụng
của ngân hàng càng cao. Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam cho phép dư nợ quá hạn của các NHTM không được vượt quá 5%, nghĩa
là trong 100 đồng vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được
phép là 5 đồng.
Nợ quá hạn (NPL – non performing loan) là khoản nợ mà một phần
hoặc toàn bộ nợ gốc và / hoặc lãi đã quá hạn.
Một cách tiếp cận khác, các ngân hàng sử dụng hệ thống phân loại nợ
quá hạn để quản lý rủi ro. NHNN Việt Nam đã ban hành quyết định 18/2007/
QĐ – NHNN về việc sửa đổi quyết định 493/2005/QĐ – NHNN trong đó quy
định lại việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD.
Theo quyết định này thì các khoản nợ quá hạn được phân loại theo thời gian
và được phân chia theo thời hạn thành các nhóm sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
x 100%
24
* Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày.
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2.
* Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.
- Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản
nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2.
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả
năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3.
* Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4.
* Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở
lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa
bị quá hạn hoặc đã quá hạn.
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
25

×