Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp ở Việt Nam .doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.17 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay nước ta đang đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới. Hội nhập tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta phát triển, thu hút được nhiều
nguồn đầu tư từ bên ngoài , mở rộng được thị trường, được đối xử bình đẳng trên
trường quốc tế. Để quá trình hội nhập được nhanh chóng Đảng và Nhà nước ta đang
tiến hành sửa đổi, hoàn thiện và xây dựng thêm nhiều hệ thống luật mới , cải cách
nền hành chính nhà nước… Cải cách hành chính thuế là một nội dung quan trọng
của cải cách hành chính nhà nước hiện nay. Trong những năm gần đây, đặc biệt
trong năm 2004 và những tháng đầu năm 2005 vừa qua ngành thuế đã có những
bước đi đột phá trong cải cách hành chính thuế với việc được tổ chức lại bộ máy cơ
quan thuế các cấp, triển khai áp dụng thí điểm cơ chế cơ sở kinh doanh tự kê khai,
tự nộp thuế theo QĐ 197/2003/QĐ - TTg và triển khai sâu rộng chương trình cải
cách và hiện đại hóa ngành thuế.
Với mục đích muốn tìm hiểu sâu hơn về ngành thuế, những cái cách của ngành
thuế trong việc quản lý thu thuế , một nghĩa vụ mà mọi công dân đều phải thực
hiện. Nên em đã chọn đề tài: “Quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp ở Việt Nam"
làm đề án môn học cho mình. Do trình độ còn hạn chế và thời gian có hạn chắc rằng
đề án của em chưa thể đầy đủ và còn nhiều sai sót. Em mong nhận được nhiều sự
giúp đỡ , góp ý của thầy cô giáo và bạn đọc để đề án của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà nội ngày 24 tháng 11 năm 2007

Trang 1
PHẦN I
THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ THEO CƠ CHẾ TỰ KHAI, TỰ NỘP.
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THUẾ.
1. Khái niệm về thuế.
Cho đến nay trong các sách báo kinh tế trên thế giới vẫn chưa có thông nhất
tuyệt đối về khái niệm thuế. Đứng trên các góc độ khác nhau theo các quan điểm
của các nhà kinh tế khác nhau thì có định nghĩa về thuế khác nhau.
Theo nhà kinh tế học Gaston Jeze trong cuốn “Tài chính công” đưa ra một định


nghĩa tương đối cổ điển về thuế: “ Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính
chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho nhà nước
thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà Nước.”.
Trên góc độ phân phối thu nhập: “ Thuế là hình thức phân phối và phân phối lại
tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành các quý tiền tệ tập
trung của nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước.”
Trên góc độ người nộp thuế: “ Thuế là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ
chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo luật định để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng , nhiệm vụ của nhà nước.”
Trên góc độ kinh tế học :” Thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, nhà nước
sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu
vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của nhà nước.”
Theo từ điển tiếng việt :” Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân hoặc
các tổ chức kinh doanh, tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp… buộc phải nộp
cho nhà nước theo mức quy định.”
Từ các định nghĩa trên ta có thể rút ra được một số đặc trưng chung của thuế là:
Thứ nhất, nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các mỗi quan hệ tiền tệ
phát sinh dưới nhà nước và các pháp nhân, các thể nhân trong xã hội.
Thứ hai, những mỗi quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách
quan và có ỹ nghĩa xã hội đặc biệt- việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc
theo mệnh lệnh của nhà nước.
Trang 2
Thứ ba, xét theo khía cạnh pháp luật, thuế là một khoản nộp cho nhà nước được
pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Từ các đặc trưng trên của thuế , ta có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế là: “
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho nhà nước
theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích công
cộng.”
2. Phân loại thuế.

Phân loại thuế là việc sắp xếp các sắc thuế trong hệ thống thuế thành những nhóm
khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Có nhiều tiêu thức phân loại khác nhau,
mỗi tiêu thức phân loại có nhiều loại thuế khác nhau:
2.1 Phân loại theo đối tượng chịu thuế.
Căn cứ vào đối tượng chịu thuế có thể chia hệ thống thuế thành ba loại sau:
2.1.1 Thuế thu nhập
Thuế thu nhập bao gồm các sắc thuế có đối tượng chịu thuế là thu nhập nhận
được, thu nhập này được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: thu nhập từ lao động
dưới dạng tiền lương, tiền công, thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh dưới
dạng lợi nhuận, lợi tức cổ phần…
Do vậy thuế thu nhập cũng có nhiều hình thức khác nhau : Thuế thu nhập cá nhân,
thuế thu nhập doạnh nghiệp.
2.1.2 Thuế tiêu dùng.
Thuế tiêu dùng là các loại thuế có đối tượng chịu thuế là phần thu nhập được
mang tiêu dùng trong hiện tại. Bao gồm: Thuế doanh thu , thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế giá trị gia tăng…
2.1.3 Thuế tài sản.
Thuế tài sản là các loại thuế có đối tuợng chịu thuế là giá trị tài sản.Bao gồm
,thuế bất động sảnlà thuế tài sản đánh trên giá trị của tài sản cố định,thuế động sản
là thuế đánh trên tài sản chính .
2.2 Phân loại theo phương thức đánh thuế.
Theo phương thức đánh thuế thì hệ thống thuế gồm 2 loại sau:
2.2.1 Thuế trực thu.
Trang 3
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người
nộp thuế . ở thuế trực thu bao gồm: Thuế thu nhập đối với người có thu nhập
cao,thuế thu nhập doanh nghiệp ,thuế nhà đất….
2.2.2 Thuế gián thu.
Thuế gián thu là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản của
người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa và dịch vụ

.Bao gồm: Thuế giá trị gia tăng ,thuế tiêu thụ đặc biệt,thuế xuất khẩu và nhập khẩu.
2.3 Phân loại theo mối quan hệ đối với khả năng nộp thuế.
Căn cứ vào khả năng nộp thuế có thể chia hệ thống thuế thành 2 loại:
2.3.1 Thuế thực.
Thuế thực là loại thuế không dựa vào khả năng của người nộp thuế .Thuế thực
bao gồm : Thuế điền thổ,thuế nhà cửa,thuế tài sản.
2.3.2 Thuế cá nhân.
Thuế cá nhân là loại thuế dựa trên khả năng của người nộp thuế, là thuế đánh
vào thu nhập của người nộp thuế và được thu ngay từ khâu phát sinh thu nhập hoặc
do khai báo. Các loại thuế cá nhân bao gồm: Thuế thu nhập cá nhân, thuế lợi tức,
thuế thu nhập công ty, thuế doanh nghiệp, thuế lợi nhuận siêu ngạch…
2.4 Phân loại theo phạm vi thẩm quyền về thuế
Theo tiêu thức phân loại nay thì hệ thống thuế có thể được chia thành hai loại:
2.4.1 Thuế trung ương.
Là các hình thức thuế do các cơ quan đại diện chính quyền nhà nước ở trung
ương ban hành.
2.4.2 Thuế địa phương.
Là các hình thức thuế do chính quyền địa phương ban hành.
3. Đặc điểm của thuế.
Thuế có những thuộc tính tương đối ổn định qua từng giai đoạn phát triển và
biểu hiện thành những đặc trưng riêng có của nó, qua đó giúp ta phân biệt thuế với
các công cụ khác. Những đặc trưng đó là:
3.1 Tính bắt buộc.
Tính bắt buộc là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa thuế với
các hình thức động viên tài chính khác của ngân sách nhà nước.
Trang 4
Đặc điểm này cho ta thấy rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hê tiền tệ được
hình thành một cách khách quan và có một ý nghĩa xã hội đặc biệt- việc động viên
mang tính chất bắt buộc của nhà nước.Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới hình
thức thuế là một phương thức phân phối của nhà nước, theo đó một bộ phân thu

nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho nhà nước mà không kèm theo một
sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế, mà hành động đóng
thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân.
3.2 Tính không hòan trả trực tiếp.
Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế được thể hiện ở chỗ: thuế được
hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế thông qua việc cung cấp các dịch vụ công
cộng của nhà nước. Sự không hoàn hảo trả trực tiếp được thể hiện kể cả trước và
sau thu thuế. Trước khi thu thuế, nhà nước không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ
công cộng nào cho người nộp thuế. Sau khi nộp thuế, nhà nước cũng không có sự
bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế.
3.3 Tính pháp lý cao.
Thuế là một công cụ tài chính có tính pháp lý cao, được quyết định bởi quyền
lực chính trị của nhà nước và quyền lực ấy được thể hiện bằng pháp luật.
4. Chức năng của thuế.
Chức năng của thuế là sự thể hiện công dụng vốn có của thuế, và nó có tính ổn
định tương đối. Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển thuế luôn luôn thực hiện
hai chức năng cơ bản sau.
4.1 Chức năng huy động nguồn lực tài chính cho nhà nước.
Ngay từ lúc phát sinh, thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện đông viên
nguồn tài chính cho nhà nước, là chức năng cơ bản của thuế. Nhờ chức năng huy
động nguồn lực tài chính mà quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước được hình thành,
qua đó đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của nhà nước. Chức năng
này đã tạo ra những tiền đề để nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại tổng
sản phẩm của xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội. Thuế là một nguồn chiếm tỷ
trọng lớn nhất cho ngân sách nhà nước.
4.2 Chức năng điều tiết kinh tế.
Trang 5
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc quy định
các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối
tượng nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng

của người nộp thuế, sử dụng linh họat các ưu đãi và miễn giảm thuế.
Trên cơ sở đó, nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung,
phù hợp lợi ích của xã hội. Như vậy, bằng cách điều tiết và kích thích, chức năng
điều tiết kinh tế của thuế đã được thực hiện.
Giữa chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh tế có
mỗi quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng huy động nguồn lực tài chính
quy định sự tác động và sự phát triển của chức năng điều tiết. Ngược lại, nhờ sự vận
dụng đúng đắn chức năng điều tiết kinh tế đã làm cho chức năng huy động nguồn
lực tài chính của thuế có điều kiện phát triển. Chức năng huy động nguồn lực tài
chính càng tăng lên nhằm đảm bảo nguồn thu nhập cho nhà nước đã tạo ra những
điều kiện để nhà nước tác động một cách sâu rộng đến các quá trình kinh tế và xã
hội. Điều này tạo ra tiền đề tăng thêm thu nhập cho các doanh nghiệp và các tầng
lớp dân cư, do đó mở rộng cơ sở thực hiện chức năng huy động nguồn lực tài chính.
Cùng với sự thống nhất đó, thì giữa hai chức năng này của thuế cũng không loại
trừ những mặt mâu thuẫn. Sự tăng cường chức năng huy động tập trung tài chính
làm cho mức thu nhập của nhà nước tăng lên. Điều đó đồng nghĩa với việc mở rộng
khả năng của nhà nước trong việc thực hiện các chương trình kinh tế- xã hội. Mặt
khác, việc tăng cường chức năng huy động một cách quá mức sẽ làm tăng gánh
nặng thuế và hậu quả của nó là giảm động lực phát triển kinh tế và làm xói mòn vai
trò điều tiết kinh tế.
Do vậy, trong quá trình quản lý thuế, hoạch định các chính sách thuế ở mỗi giai
đoạn phát triển kinh tế khác nhau cần phải chú ý đến mỗi quan hệ giữa chức năng
điều tiết kinh tế và chức năng huy động nguồn tài chính của thuế.
5. Hệ thống thuế ở Việt Nam.
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng có mỗi
quan hệ mật thiết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ nhất định của nhà nước trong
từng thời kỳ.
Trang 6
II. GIỚI THIỆU VỀ QUẢN LÝ THUẾ THEO CƠ CHẾ TỰ KHAI TỰ NỘP
1. Khái niệm về cơ chế tự khai tự nộp và dặc điểm

1.1 Khái niệm
Cơ chế tự khai tư nộp thuế là cơ chế quản lý thuế trong đó các đối tượng nộp
thuế tự giác căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh trong kì kê khai của mình và
căn cứ vào những quy định của pháp luật tự xác định nghĩa vụ thuế của mình, kê
khai, nộp thuế vào ngân sách Nhà nước, và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính
trung thực, chính xác của việc kê khai.
1.2 Đặc điểm.
Cơ chế tự khai, tự nộp thuế là một phương thức quản lý thuế được xây dựng
dựa trên nền tảng là sự tuân thủ tự nguyện của đối tượng nộp thuế, quản lý thuế dựa
trên kĩ thuật quản lý rủi ro.
Cơ chế tự khai tự nộp thuế đòi hỏi các tổ chức, cá nhân nộp thuế phải nâng cao
trách nhiệm vì tờ khai là do tổ chức, cá nhân nộp thuế tự lập trên cơ sở sản xuất kinh
doanh của mình và chính sách chế độ về thuế mà không cần có sự xác nhận của cơ
Trang 7
Hệ thống thuế
Thuế trực thu Thuế gián thu
Thuế
thu
nhập
DN
Thuế
thu
nhập

nhân
Thuế
sự
dụng
đất
nông

nghiệp
Thuế
Giá
trị
gia
tăng
Thuế
Xuất
khẩu,
Nhập
khẩu
Thuế
nhà
đất
Thuế
Tiêu
thụ
đặc
biệt
Thuế
tài
nguyên
Thuế
môn
bài
quan thuế. Tổ chức, cá nhân nộp thuế phải chịu trách nhiệm về kết quả của việc tính
thuế, kê khai thuế của mình trước pháp luật.
Theo cơ chế này cơ quan thuế không can thiệp vào quá trình kê khai , nộp thuế
của tổ chức, cá nhân kinh doanh nhưng cơ quan thuế sẽ tiến hành thanh tra, kiểm tra
và áp dụng các biện pháp xử phạt, cưỡng chế theo luật định đối với những trường

hợp có hành vi vi phạm pháp luật về thế như không nộp thuế, trốn thuế, gian lận về
thuế …
Áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp, cơ quan Thuế phải tăng cưòng công tác tuyên
truyền, phổ biến và giải đáp các vướng mắc về chính sách, chế độ thủ tục về thuế
mà các tổ chức, cá nhân thường gặp trong quá trình kê khai nộp thuế để đối tượng
nộp thuế thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình đối với Nhà nước.
Cơ chế tự khai, tự nộp là cơ chế quản lý thuế hiện đại, hiệu quả, được hầu hết
các nước trên thế giới áp dụng, nó cho phép các cơ quan thuế phân bổ nguồn lực
theo hướng chuyên môn hóa, chuyên sâu trong quản lý cải tiến các quy trình quản lý
rõ ràng làm tăng sự minh bạch trong quản lý thuế, đồng thời giảm bớt chi phí quản
lý, thúc đẩy cải cách hành chính thuế.
2. Điều kiện để thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế.
Việc thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế đòi hỏi các điều kiện sau:
2.1 Hệ thống luật thuế phải thực sự minh bạch, người dân có thể dễ
dàngtiếp cận và tìm hiểu chính sách thuế.
Để áp dụng cơ chế quản ký thuế tiên tiến đòi hỏi đối tượng nộp thuế phải nắm
chắc các quy định của luật thuế để tự mình kê khai, tính toán đúng số thuế phải nộp
cho Nhà nước. Muốn vậy, các luật thuế phải đơn giản , dễ hiểu, minh bạch, từng
quy định trong các luật thuế phải được rõ ràng, không mơ hồ, không làm cho người
dân muốn hiểu thế nào cũng được.
2.2 Trình độ dân trí cao, sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật của người dân
tốt, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đạt hiệu quả thiết thực.
Vì đối tượng nộp thuế là người trực tiếp tính toán số thuế mà mình phải nộp cho
ngân sách nhà nước, do đó đòi hỏi họ phải có một kiến thức cơ bản để hiểu được
các quy định của luật thuế. Mặt khác , cơ chế tự khai, tự nôp đòi hỏi sự tự giác cao
của đối tượng nộp thuế do vậy mà người dân cần phải có ý thức tuân thủ pháp luật
Trang 8
tốt. để đạt được điều kiện này thì cơ quan quản lý thuế phải đổi mới và nâng cao
hiệu quả của công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến các chính sách thuế.
2.3 Các cơ quan hành pháp phải có năng lực cao và phối hợp tốt với cơ

quan thuế trong công tác quản lý hành chính
Trong khi cơ chế tự khai, tư nộp thuế đòi hỏi đối tượng nộp thuế phải có sự
tực giác tuân thủ cao thì có một bộ phận không nhỏ dân chúng có ý thức chấp hành
pháp luật chưa tốt. Vì vậy, đòi hỏi các cơ quan hành pháp nói chung và cơ quan thuế
nói riêng phải có trình độ quản lý cao để đảm bảo thực hiện đúng những quy định
của pháp luật.
2.4 Các thủ tục như đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, hoàn thuế…, phải
đơn giản. Các chương trình thanh tra thuế và cưỡng chế thuế phải có
hiệu quả và hiệu lực.
Các thủ tục về thuế phải đơn giản để giúp các tổ chức, cá nhân dễ dàng hoàn
thành nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Đồng thời cơ quan thuế phải luôn luôn
thanh tra, kiểm tra viẹc thực hiện nghĩa vụ thuế của các đối tượng nộp thuế vì gian
lận, trốn lậu thuế là một căn bênh kinh niên tồn tại song song cùng với việc thu thuế
của Nhà nước.
2.5 Cần có chế tài pháp luật đủ nghiêm để răn đe các hành vi
vi phạm.
Khi áp dụng mô hình quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thì các chế tài
pháp luật nghiêm minh là rất cần thiết, rất quan trọng trong bối cánh khả năng lợi
dụng sự cho phép tự giác của Nhà nước để trốn lậu thuế là khá cao, nhất là đối với
nước ta- một nước có trình độ phát triển chưa cao về mọi mặt.
3 Ưu điểm của cơ chế tự khai, tự nộp.
Cơ chế tự khai, tự nộp thuế đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, đây
là cơ chế hành thu tiên tiến đem lại nhiều lợi ích cho cả cơ quan thu thuế và tổ
chức , cá nhân nộp thuế. Cơ chế này có những ưu điểm sau:
3.1Tiết kiệm thời gian,công sức.
Khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì hàng tháng cán bộ quản lý thu thuế
sẽ không phải mất thời gian để tính toán lại số thuế phải nộp của đối tượng nộp
Trang 9
thuế, không phải mất thời gian đi gửi thông báo thuế cho đối tượng nộp thuế. Hơn
nữa, trong cơ chế ‘’ Thông báo thuế” trường hợp đối tượng nộp thuế đã thực hiện

nghiêm túc luật thuế, kê khai và tính toán chính xác số thuế phải nộp thì rõ ràng việc
phải tính toán lại của cơ quan thuế là thừa và lãng phí thời gian, công sức. Với số
lượng các đối tượng nộp thuế hiên lên đến gần 100 ngàn doanh nghiệp và các tổ
chức kinh tế hơn 1,4 triệu tổ chức hộ kinh doanh cá thể thì việc không phải tính toán
lại số thuế phải nộp sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức cho cán bộ
quản lý thu thuế.
Còn đối với các đối tượng nộp thuế thì với việc cơ chế tự khai, tự nộp sẽ làm
giảm được các thủ tục hành chính trong việc thực hiện nghĩa vụ kê khai và nộp thuế
của mình, do đó cũng sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian và công sức.
3.2Tiết kiệm chi phí quản lý hành chính về thuế.
Khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì hàng tháng cơ quan Thuế không phải
gửi hàng triệu thông báo thuế nên ngành thuế tiết kiệm được chi phí giấy mực, in ấn,
cước phí bưu điện… đem lại một hiệu quả kinh tế không nhỏ, bởi chi phí hành thu
càng thấp thì hiệu quả công tác quản lý thuế càng được nâng cao.Ngoài ra, khi thực
hiện cơ chế tự khai, tự nộp cơ cấu tổ chức của cơ quan Thuế được tổ chức theo chức
năng nên bộ máy quản lý sẽ gọn nhẹ hơn bớt cồng kềnh ,do đó giảm được một phần
lớn chi phí quản lý mà hiệu quả quản lý vẫn cao.
3.3 Nâng cao trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế.
Với cơ chế ‘’ Thông báo thuế “ trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thúe
đối với tính chính xác của việc tính toán số thuế phải nộp không cao bởi vì số thuế
họ phải nộp được xác định theo thông báo của cơ quan Thuế. Vì vậy, có thể có tình
trạng các cơ sở kinh doanh tính toán số liệu một cách qua loa, đại khái và nếu cán
bộ thuế kiểm tra không kỹ thì có thể dẫn đến sai số thuế phải nộp mà các cơ sở kinh
doanh đó không hề có lỗi. Nhưng khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì đối tượng
nộp thuế phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực của số liệu kê khai và
cả tính chính xác của viẹc tính toán số thuế phải nộp. Tức là, đối tượng nộp thuế
được nâng cao trách nhiệm pháp lý trong việc kê khai thuế với Nhà nước, tăng sự tự
giác ,được chủ động trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình.Hơn nữa,còn thiết lập
được niềm tin giữa cơ quan Thuế và người nộp thuế.
Trang 10

×