Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.87 KB, 35 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói, Cuộc khủng hoảng kinh tế tồn cầu 2008 xảy ra vừa qua có mức độ ảnh hưởng nghiêm
trọng đối với hệ thống tài chính và kinh tế toàn cầu. Đâu là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh
tế? Hậu quả của cuộc khủng hoảng? Bài học nào rút ra sau cuộc khủng? Đây là những câu hỏi
được quan tâm hàng đầu hiện nay bởi tất cả các giới ở Việt Nam, từ những nhà nghiên cứu kinh tế,
những nguời làm chính sách, cho tới hầu hết các cá nhân tham gia vào nền kinh tế.
Với đề tài Khủng hoảng của các nước và bài học rút ra cho Việt Nam nhóm 3 đi vào tìm hiểu
Các cuộc khủng hoảng kinh tế (tài chính) của các quốc gia trên thế giới đặc biệt là cuộc Khủng
hoảng kinh tế tồn cầu năm 2008 nhằm tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng. Từ
đó, cho phép chúng ta rút ra những bài học quý báu nhằm tận dụng được các cơ hội phát triển, hội
nhập kinh tế quốc tế. Vì tính phức tạp của đề tài, bài viết chỉ mong đóng góp thêm phần nào vào
nhận thức chung về các vấn đề liên quan

Bài tập nhóm

1

Nhóm 3 – CH K18D


Phần I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1.1 Tổng quát:
- Khủng hoảng (Crises, depression, crash): Sự sụp đổ nặng nề của nền kinh tế. Người ta dùng từ
Đại khủng hoảng (Great Crash) để chỉ sự sụp đổ nền kinh tế toàn cầu năm 1929. Hiện nay, một số
người lại dùng từ Great Crash để chỉ cuộc khủng hoảng hiện nay. Nhiều người cho rằng cuộc suy
thoái hiện nay bắt đầu từ khu vực tài chính (ngân hàng, bảo hiểm) cho nên gọi là cuộc khủng hoảng
tài chính tồn cầu. Nhưng nếu tình trạng suy thối xảy ra trong các lĩnh vực sản xuất khác, làm cho
thất nghiệp tăng cao, sản lượng công nghiệp, nông nghiệp giảm sút thì cuộc khủng hoảng sẽ được
gọi là khủng hoảng kinh tế.
- Về khái niệm khủng hoảng tài chính: có thể hiểu theo các cách khác nhau như sau:
+ Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong việc đáp


ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình.
+ Là cuộc khủng hoảng ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả
của những tài sản khác
+ Hay- khủng hoảng tài chính, nói một cách đơn giản, là sự mất khả năng thanh khoản của các tập
đồn tài chính, dẫn tới sự sụp đổ và phá sản dây chuyền trong hệ thống tài chính.
Một số dấu hiệu của khủng hoảng tài chính là:
Các NHTM khơng hồn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng khơng thể hồn trả đầy
đủ các khoản vay cho ngân hàng.
Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đối cố định.
1.2 Các hình thức của khủng hoảng tài chính
* Khủng hoảng ngân hàng
Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt có thể dẫn tới sự phá sản của
ngân hàng, khiến nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ phi họ được bồi thường
nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ gây ra khủng hoảng ngân hàng mang tính
hệ thống. Cũng có thể hiện tượng trên khơng lan rộng, nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên do lo
ngại về sự thiếu hụt trong ngân sách. Lúc này, chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố gây ra
khủng hoảng tài chính.
* Khủng hoảng trên thị trường tài chính
Khủng hoảng trên thị trường tài chính thường xảy ra do hai nguyên nhân chính: do các chính sách
của Nhà nước và do sự tồn tại của các “bong bóng” đầu cơ.
Yếu tố đầu tiên phải nói đến, đó chính là các chính sách của Nhà nước. Khi nhà nước phát hành
tiền nhằm trang trải cho các khoản thâm hụt ngân sách, điều này sẽ gây ảnh hưởng tới tỷ giá cố
định. Người dân sẽ mất lòng tin vào bản tệ, và chuyển sang tích trữ bằng các loại ngoại tệ. Khi đó
dự trữ ngoại tệ của Nhà nước sẽ cạn dần, Nhà nước buộc phải từ bỏ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng.
Thêm vào đó, trên thị trường lại ln tồn tại những “bong bóng” đầu cơ, ẩn chứa nguy cơ đổ vỡ.
Khi hầu hết những người tham gia thị trường đều đổ xô đi mua một loại hàng hóa nào đó trên thị
Bài tập nhóm

2


Nhóm 3 – CH K18D


trường tài chính (chẳng hạn như cổ phiếu), nhưng khơng nhằm mục đích đầu tư lâu dài, mà chỉ
mua với hi vọng sẽ bán ra với giá cao hơn và thu lợi nhuận, điều này đẩy giá trị của các hàng hóa
này lên cao, vượt quá giá trị thực của nó. Tình trạng này xảy ra sẽ kéo theo những nguy cơ đổ vỡ
trên thị trường tài chính, do các nhà đầu tư ngắn hạn kiểu trên luôn mua và bán theo xu hướng
chung trên thị trường: họ mua vào khi thấy nhiều người cùng mua, tạo những cơn sốt ảo trên thị
trường và bán ra khi có nhiều người cùng bán, gây tình trạng rớt giá.
* Khủng hoảng tiền tệ
Khi một quốc gia có đồng tiền mạnh đột ngột phá giá đồng tiền của mình, gây khủng hoảng tiền
tệ.
* Khủng hoảng tài chính trong các tập đồn Kinh tế
Các tập đồn thường vướng vào khủng hoảng tài chính do 2 lý do chủ yếu: do các kế hoạch đầu tư
không đúng đắn, không thu hồi được vốn đầu tư, dẫn tới việc khơng thanh tốn được các khoản
vay đầu tư và phá sản; và do bị hiệu ứng dây chuyền từ khủng hoảng chung, các doanh nghiệp
không thể vay vốn đầu tư, hoặc các dự án đầu tư không thu hồi được vốn do tình trạng khủng
hoảng.
* Mối liên hệ giữa khủng hoảng ngân hàng, tiền tệ và hậu quả của các cuộc khủng hoảng.
Vào những năm 90, các cuộc khủng hoảng tài chính ở những nước đang phát triển được mô tả với
nét tiêu biểu là sự sụp đổ của các cơ chế tỷ giá hối đoái cố định và các trung gian tài chính như các
ngân hàng. Có lập luận cho rằng các cuộc khủng hoảng này thực chất là khủng hoảng tiền tệ. Lập
luận khác lại cho rằng đây là khủng hoảng ngân hàng vì cơ chế tỷ giá cố định khơng có vai trị
ngun nhân chính. Nhưng suy cho cùng thì khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tẹ có mối
quan hệ rất chặt chẽ vì cả 2 liên quan đến việc giữ ổn định giá tài sản và cùng xuất hiện khi cam
kết hỗ trợ ổn định giá trị đồng tiền, lạm phát trong nước khơng cịn đáng tin cậy. Một khi sự hỗ trợ
của chính phủ mất đi hoặc tạm ngừng thì kế hoạch ổn định tỷ giá sụp đổ, các ngân hàng sẽ mất khả
năng
thanh

tốn.
Tìm hiểu ngun nhân của khủng hoảng tiền tệ thì những nghiên cứu đầu tiên chỉ ra rằng chính sự
mâu thuẫn trong chính sách của Chính phủ đã từng bước tấn công vào tỷ giá cố định bởi Chính phủ
phát hành tiền để trang trải cho thâm hụt ngân sách. Người dân không tin vào bản tệ nên đã chuyển
sang tích trữ tài sản ngoại tệ. Dự trữ ngoại hối của Chính phủ cạn dần. Chính phủ buộc phải từ bỏ
chế độ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng. Các nhà đầu cơ sẽ tranh nhau mua lượng dự trữ cuối cùng
của Chính phủ. Cuộc chuyển giao khổng lồ này được xem là hình phạt cho những chính sách mâu
thuẫn,
trái
ngược
của
Chính
phủ.
Mặc dù nguyên nhân trên đúng với nhiều cuộc khủng hoảng trong quá khứ nhưng không đúng với
cuộc khủng hoảng gần đây ở Châu Á. Chính phủ các nước này đã giữ được cân bằng chi tiêu ngân
sách và không theo đuổi quá mức tăng trưởng tín dụng. Thực ra, một vài mơ hình khủng hoảng ở
thế hệ thứ ba tập trung vào vai trò đảm bảo của Chính phủ trong việc tăng cường đầu tư chỉ đơn
thuần đưa thơng điệp của mơ hình ở thế hệ thứ nhất vào một bộ những mâu thuẫn chính sách thơi.
Thế hệ thứ hai của mơ hình khủng hoảng tiền tệ đã nhận được sự quan tâm đáng kể sau cuộc tấn
công vào đồng tiền chung châu Âu và đồng Pêso của Mêhicô ở đầu thập kỷ 1990. Mô hình này
Bài tập nhóm

3

Nhóm 3 – CH K18D


xuất phát từ cơ sở khơng có sự mâu thuẫn cơ bản nào về chính sách trước các cuộc khủng hoảng.
Cơ sở của mơ hình là sự tương tác giữa hành vi của Chính phủ và hành vi của khu vực tư nhân dẫn
đến một vài kết quả có thể xảy ra. Về nguyên tắc, nền kinh tế có thể chuyển từ trạng thái cân bằng

khơng chịu sự cơng kích sang trạng thái chịu sự cơng kích khi có sự chuyển dịch bất ngờ về kỳ
vọng
của
thị
trường.
Thường thì nguồn gốc vấn đề là mâu thuẫn cơ bản giữa nhiều mục tiêu của Chính phủ. Ví dụ,
Chính phủ muốn giữ ổn định giá cả hoặc ra hiệu cho thị trường về dự định theo đuổi chính sách
tiền tệ thắt chặt trong tương lai. Chính phủ có thể đạt các mục tiêu này với mức giá cố định. Mặt
khác, nó cũng có thể hạn chế các nghĩa vụ trả nợ, giảm tỷ lệ thất nghiệm hay bơm vốn cho hệ
thống ngân hàng nếu nó từ bỏ tỷ giá cố định để theo đuổi chính sách tiền tệ mở rộng.
Nguyên nhân của khủng hoảng ngân hàng là gì? Gần 20 năm trước, Flơd và Garber đã điều chỉnh
mơ hình dự báo trước được cuộc tấn cơng vào tỷ giá hối đối với trường hợp phá sản ngân hàng ở
các nước có nền kinh tế đóng. Hai nhà khoa học đã mơ tả tình trạng các ngân hàng chuyển đổi các
tài sản nợ danh nghĩa cố định. Các ngân hàng nhất trí trả lãi khơng kỳ hạn đối với một đơn vị tiền
dự trữ tương ứng với một đơn vị đồng bản tệ gửi tại NHTW. Khi khơng có bảo hiểm tiền gửi, các
ngân hàng có thể duy trì kế hoạch ổn định lãi suất chừng nào tài sản của họ đủ trang trải các khoản
tiền gửi. Flood và Garber cũng chỉ ra rằng phá sản ngân hàng cũng có thể là kết quả nhìn thấy
trước của các chính sách khơng nhất qn. Chính sách theo đuổi giảm phát của NHTW sẽ phá huỷ
các cam kết hoàn trả các khoản tiền gửi của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại
phải mua tài sản mới để bù đắp cho những tổn thất gây ra chi phí nắm giữ các tài sản hiện tại vượt
quá thu nhập mà nó đem lại. Như vậy, giảm phát làm giảm thu nhập và cuối cùng các NHTM
không thể có lãi từ việc duy trì tài sản đảm bảo đầy đủ khả năng thanh khoản thì khủng hoảng ngân
hàng xảy ra. Khi khủng hoảng ngân hàng xảy ra ở những nước có nền kinh tế đóng mà khơng có sự
hỗ trợ của NHTW thì khủng hoảng sẽ khơng làm giảm tài sản quốc tế và trong nước của NHTW
mà chỉ tạo ra sự chuyển đổi nguồn lực từ các ngân hàng sang các thành phần tư nhân.
Như vậy, khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tệ giống nhau ở khía cạnh sau cùng cả hai
đều làm giảm giá trị đồng tiền và xuất phát từ những chính sách không nhất quán. Tuy nhiên,
khủng hoảng ngân hàng xuất phát từ chính sách của NHTW cịn khủng hoảng tiền tệ bắt nguồn từ
yếu tố chi tiêu Chính phủ.
1.3 Một số trường phái kinh tế về khủng hoảng tài chính

Khủng hoảng tài chính được hiểu là sự sụp đổ của thị trường tài chính, khiến cho nó khơng thể
thực hiện được hai chức năng cơ bản nhất: (1) Ổn định giá trị đồng tiền hoặc các tài sản tài chính
như một phương tiện giao dịch , cất trữ tài sản, và (2) là trung gian chuyển vốn tiết kiệm vào những
dự án đầu tư có hiệu quả nhất. Hệ quả là nền kinh tế bị đẩy ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng tiềm năng,
gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lượng, việc làm, đi kèm với giảm phát, hoặc gây nguy cơ bùng nổ
lạm phát.
Có thể sơ bộ chia ra ba quan điểm chính về khủng hoảng tài chính: Nhóm thứ nhất là những người
theo chủ thuyết tiền tệ (Monetarists View), dẫn đầu là Friedman và Schwartz (1963). Họ cho rằng,
khủng hoảng tài chính là do sự hoảng loạn của hệ thống ngân hàng (banking panics), gây nên sự co
Bài tập nhóm

4

Nhóm 3 – CH K18D


hẹp cung tiền tệ, dẫn đến sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầu tư. Họ bỏ qua những nguyên
nhân thực, như sự sụt giảm hiệu quả của nền kinh tế, sự suy sụp của nhiều doanh nghiệp. Vì vậy,
theo họ, sự can thiệp của chính phủ là khơng cần thết, và thậm chí có hại, vì những doanh nghiệp
đáng ra phải để cho bị phá sản, lại có thể được cứu vớt, gây nên sự gia tăng quá mức về cung tiền
tệ và gây nên lạm phát.
Đối lập với nhóm theo chủ thuyết tiền tệ là Keynesian View, dẫn đầu là Kindleberger (1978) và
Misky (1972). Họ có quan niệm rộng hơn về khủng hoảng tài chính và tiền tệ, mà nó bao gồm sự
sụt giảm của hầu hết giá trị cổ phiếu, sự vỡ nợ của nhiều cơng ty tài chính và phi tài chính, nạn
giảm phát, đi kèm với sự rối loạn của thị trường ngoại hối. Những yếu tố này gây sự sụt giảm
mạnh về tổng cầu đầu tư và tiêu dùng, nên cần phải có sự can thiệp của nhà nước.
Điều đáng nói là họ không đưa ra một đặc trưng rõ ràng về nguồn gốc của khủng hoảng, để làm
tiền đề cho một chính sách kích thích có hiệu quả. Vì vậy, sự can thiệp của chính phủ rất dễ dẫn
đến lạm phát và trì trệ, như những người theo chủ thuyết tiền tệ đã lưu ý.
Nhóm thứ ba nhấn mạnh tới bản chất rủi ro của hoạt động tài chính, dẫn đầu là Stiglitz và Weiss

(1981). Theo họ, hoạt động của hệ thống tài chính, đặc biệt là ngân hàng, chịu rủi ro cao, do ngân
hàng đầu tư hay tổ chức cho vay thường không nắm rõ thông tin về khả năng sinh lợi và mức độ
rủi ro của dự án đầu tư bằng cá nhân hay tổ chức đi vay;
tức là những người chủ dự án. Sự khác biệt này về thông tin (asymmetry of information), hay sự
thiếu minh bạch về thông tin các dự án, khiến cho hệ thống tài chính có thể có vấn đề, bởi vì rằng:
Ngân hàng có thể muốn ép lãi suất thực, cộng các phí dịch vụ cho vay tăng lên để bù cho rủi ro
mất vốn có thể xẩy ra. Nhưng điều này lại khiến cho chỉ có những dự án có độ rủi ro cao nhất mới
hy vọng có đủ khả năng sinh lãi đủ cao để trả nợ, nếu may mắn thành cơng. Ngược lại, nếu đó là
dự án của những doanh nghiệp vừa và nhỏ, với độ rủi ro ít (nhưng cũng chính vì vậy mà mức sinh
lãi thấp hơn), thì sẽ khó có thể đi vay được vốn. Vì vậy, khi lãi suất cho vay tăng lên thì:
- Sẽ có một tỷ lệ lớn hơn những chủ của các dự án với độ rủi ro cao hơn (như đầu cơ
vào bất động sản, chứng khốn thời bong bóng) đi săn lùng vốn vay. Trong khi đó,
những doanh nhiệp vừa và nhỏ, với những nhà đầu tư cẩn trọng, sẽ bị loại ra khỏi
danh sách các ứng viên. Người ta gọi đây là sự chọn lầm phải điều nguy hại (adverse selection),
theo Akerlof (1974).
- Với những chủ dự án lớn đã vay được vốn, thì họ có xu hướng làm thay đổi bản chất
dự án hay mục đích sử dụng vốn vay, khiến cho dự án mang tính đầu cơ cao hơn
(hoặc có vẻ “quan trọng” hơn, để nhà nước khơng thể để cho bị thất bại). Do vậy, họ
có thể giầu lên nhanh chóng, nếu việc đầu cơ thành cơng; và để mặc cho ngân hàng chịu tích tụ
những khoản nợ xấu; hay xã hội phải gánh vác tổn thất qua gánh nặng cứu trợ ngân sách; nếu dự
án bị thất bại. Người ta gọi đây là hiểm họa do sự vơ trách nhiệm (moral hazard).
Chính vì những lý do trên đây, những người theo trường phái kinh tế học thể chế (institutional
economics) cho rằng, hoạt động của ngân hàng nói riêng, và hệ thống tài chính nói chung, phải
được giám sát hết sức cẩn trọng, nhằm hướng các giao dịch tới sự an toàn (Aoki, 1991; Mc
Kinnon, 1991).
Bài tập nhóm

5

Nhóm 3 – CH K18D



Ví dụ, với những dự án có độ rủi ro rất cao (nhưng cũng có thể là những cơ hội đầu tư có tiềm
năng nhất về hiệu quả, chứ khơng phải đầu cơ), thì cần phải có những quỹ đầu tư đặc biệt nhằm
thẩm định, giám sát, rót vốn ban đầu, và lập cơ chế chia sẻ rủi ro. Chẳng hạn như các quỹ đầu tư
mạo hiểm (vetunture capital funds). Theo Stiglitz-Weiss, do rủi ro chọn lầm và hiểm họa của sự vô
trách nhiệm (adverse selection and moral hazard), hệ thống các ngân hàng kinh doanh bằng cho
vay lấy lãi, phải bị hạn chế, không được phép tham gia vào các lĩnh vực đầu tư có độ rủi ro quá cao
này.
Ngoài sự phân loại chức năng các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, và các quỹ đầu tư theo
mức độ rủi ro của từng lĩnh vực đầu tư, thì cịn cần phải có nhiều tổ chức trung gian khác, làm
chức năng giám sát và cảnh báo rủi ro
1.4. Sơ lược một số cuộc khủng hoảng tài chính tiêu biểu trong quá khứ:
1.4.1 Đại khủng hoảng năm 1929-1933
Sau chiến tranh thế giới lần 1, Mỹ là nước thu đựoc nhiều lợi nhất.
Vào những năm 1920, Mỹ trở thành nhà băng của thế giới, thành nhà sản xuất lương thực, sản xuất
đồ dùng cho toàn thế giới nhưng sẽ mua ít nhất có thể những gì mà phần cịn lại của thế giới sản
xuất ra. Tất nhiên điều này tạo nên trạng thái cán cân thương mại rất có lợi cho Mỹ, những nó
khơng thể tồn tại lâu. Mỹ thiết lập nhiều rào cản thương mại để bảo vệ hoạt động kinh doanh của
những doanh nghiệp Mỹ, nhưng vấn đề ở chỗ nếu Mỹ không muốn mua hàng từ đối tác Châu Âu
thì những đối tác đó lấy đâu ra tiền để mua hàng từ các đối tác Mỹ. Cho đến khi mà những đối tác
Châu Âu thậm chí khơng còn đáp ứng được lãi suất cho những khoản vay từ nước Mỹ, họ khơng
thể mua hàng nữa, thì hoạt động xuất khẩu của Mỹ sụt 30% và tiếp tục sụt giảm trong thời gian sau
đó. Đây là một trong những yếu tố góp phần vào cuộc Đại khủng hoảng.
Hoạt động đầu cơ với quy mơ lớn cũng hình thành nhiều vào những năm 1920. Chỉ trong năm
1929, đã có một lượng cổ phần kỷ lục là 1,124,800,410 được giao dịch trên sàn NYSE. Từ đầu
năm 1928 đến tháng 9 năm 1929, chỉ số công nghiệp Dow Jones tăng từ 191 điểm lên 38139 điểm.
Không một nhà đầu tư nào có thể bỏ qua mức lợi nhuận như vậy. Có thể lấy ví dụ về cơng ty RCA,
cơng ty này có cổ phiếu tăng từ 85 lên 420 chỉ trong năm 1928, mặc dù cổ phiếu này chưa từng trả
cổ tức một lần nào. Nguy hiểm hơn, với sự tăng ổn định của giá cổ phiếu, người ta bắt đầu vay để

mua chứng khoán. Chẳng hạn nhà đầu tư A có thể có 10 USD và vay 75 USD từ người mơi giới
của mình. Nếu anh ta bán cổ phiếu khi giá là 420$ ở thời điểm một năm sau, anh ta đã biến từ 10
USD đầu tư ban đầu thành 341.25 USD (420 trừ 75 và 5% lãi suất trả cho người môi giới). Tức là
lợi suất lên đến 3400%. Con số này càng thúc đẩy "cơn điên" cổ phiếu. Cho đến giữa năm 1929,
tổng lượng cho vay đang lưu hành của những đơn vị môi giới là hơn 7 tỷ USD, ba tháng sau con số
này là 8,5 tỷ USD. Lãi suất thanh toán cho các khoản vay này cũng tăng nhanh không kém, đạt
mức 20% vào năm 1929. Cơn bùng nổ đầu cơ này hoàn toàn chỉ dựa trên những niềm tin vơ căn
cứ, và nó trái ngườ với sự sụp đổ khủng khiếp vài tháng sau đó cũng chính ở cơ sở, sụp đổ bắt
nguồn từ sự sợ hãi.
Giá bắt đầu giảm từ tháng chín, nhưng khi đó nhìn chung nhà đầu tư nói chung vẫn rất lạc quan.
Những nhà đầu cơ tiếp tục nhảy vào thị trường. Ngày thứ hai, 21/10/1929, giá bắt đầu giảm nhanh.
Bài tập nhóm

6

Nhóm 3 – CH K18D


Khối lượng giao dịch lớn khủng khiếp. Nhà đầu tư vô cùng hoang mang và sợ hãi. Nhận ra rằng
giá bẳt đầu"rơi", chứ khơng cịn tính được giảm bao nhiêu, nhiều người lao ra bán. Điều này làm
cho sự sụp đổ diễn ra nhanh hơn. Giá có ổn định lại một chút vào ngày thứ ba và thứ tư, nhưng cho
đến Ngày thứ Năm Đen Tối, 24/10/1929, mọi thứ đều vỡ tan. Hầu hết những nhà đầu tư lớn đều
mất niềm tin vào thị trường. Tất cả nhà đầu tư đều đồng ý ở một điểm - đã hết tăng rồi. Thị trường
có hồi phục lại một chút vào thứ Sáu và thứ Bảy khi một nhóm các ngân hàng lớn tham gia tham
gia vào với nỗ lực cố gắng chặn lại sự sụp đổ của thị trường. Nhưng vào thứ hai tuần sau, ngày 28,
giá tiếp tục giảm 13%. Ngày hôm sau, Thứ Ba Đen Tối, khối lượng lên đến 16,4 triệu cổ phần đã
được giao dịch. Cổ phiếu giảm liên tục, thường xun khơng có người mua.
Cuộc đại khủng hoảng 1929 bắt đầu từ Mỹ nhưng tác động của nó ảnh hưởng trên tồn thế giới.
Những hoạt động kinh tế bắt đầu suy giảm từ mùa hè năm 1929 và đến năm 1933, GDP của Mỹ
giảm hơn 25%, xóa đi mọi thành quả kinh tế đạt được của 1/4 thế kỷ trước đó. Sản lượng cơng

nghiệp bị tác động mạnh nhất, giảm đến 50%. Nền kinh tế suy thối liên tục đến năm 1933 thì bắt
đầu cải thiện trong vịng 4 năm cho đến 1937. Sau đó tiếp tục có những giai đoạn điều chỉnh lên
xuống nhưng cho đến 1940 mới đạt lại mức sản lượng kinh tế trước suy thối.
Mức thất nghiệp, khơng có thống kê chính thức, nhưng được chấp nhận chung là ở vào khoảng
25% vào năm 1933 và duy trì trên 14% vào những năm 1940. Tuy nhiên những con số này vẫn
chưa phản ảnh hết sự thực bởi số lượng người không nhỏ, q thất vọng, đã khơng cịn động lực đi
kiếm việc và khơng được tính vào thất nghiệp. Những người này thường về các vùng quê để tự
kiếm sống.
Hệ thống ngân hàng cũng chứng kiến những con số "hoảng loạn" khi người gửi tiền đua nhau đi
rút. Nhiều nhà băng không chịu được sức ép này, một số khác buộc phải sáp nhập, số lượng ngân
hàng tại Mỹ giảm 35% trong giai đoạn 1929 đến 1933.
Tác động trực tiếp của cuộc đại khủng hoảng có thể chỉ nhằm vào một số vùng và ngành cụ thể,
tuy nhiên tác động gián tiếp của nó - suy thối, giảm sản lượng, thất nghiệp,... là những tác động
xuất hiện ở tất cả các khu vực, ngành và lĩnh vực. Những người nông dân cũng phải chấp nhận giá
nơng sản của họ giảm trung bình còn một nửa.
Cuộc khủng hoảng - sụp đổ cả thị trường, kéo theo 12 năm khủng hoảng trên phạm vi toàn thế
giới và chỉ kết thúc khi người ta bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2. Cuộc khủng hoảng này
được đánh giá là "tai họa tài chính" lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Bản thân sự sụp đổ của thị
trường chứng khốn, dù có quy mơ lớn, vẫn rất nhỏ so với hậu quả kế tiếp của một thị trường được
mô tả như một "nghĩa địa" và tác động hủy hoại của cuộc khủng hoảng.
1.4.2 Cuộc khủng hoảng tại châu Á:
là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị
trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á,
nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn
thường được gọi là Khủng hoảng tiền tệ châu Á.

Bài tập nhóm

7


Nhóm 3 – CH K18D


Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng
này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Cịn
Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng.
Điểm đặc biệt của cuộc khủng hoảng này là ở tính lây lan nhanh chóng của nó. Khơng mất nhiều
thời gian từ khi khủng hoảng xảy ra ở Thái Lan vào mùa hè năm 1997 cho tới khi nó nhanh chóng
trở thành một hiện tượng lây lan loàn cầu ở các nền kinh tế mới nổi ở Châu Á và cả ở những châu
lục khác như Nga và Mỹ Latinh. Tại Thái Lan, khủng hoảng xảy ra khi đồng baht của Thái Lan bị
đổ vỡ sau quyết định thả nổi tỷ giá hối đối của Chính phủ Thái Lan sau một thời gian dài "neo"
đồng baht với đồng đơla Mỹ để khuyến khích xuất khẩu (do tỷ giá hối đoái ổn định và có lợi cho
các nhà xuất khẩu).
Thời gian trước khi xảy ra khủng hoảng, Thái Lan đã vay nợ nước ngoài rất nhiều với nhiều khoản
đầu tư thiếu hiệu quả trên thị trường bất động sản và tăng trưởng dựa trên những nguồn vốn ngắn
hạn trên thị trường chứng khoán. Dự đoán trước khả năng kinh tế Thái Lan sụp đổ, các nhà đầu tư
ngắn hạn nước ngồi nhanh chóng rút các khoản vốn ra khỏi nước này khiến hệ thống tài chính tiền tệ của Thái Lan càng nhanh chóng sụp đổ. Đồng baht mất giá nhanh chóng khiến thu nhập từ
xuất khẩu giảm mạnh trong khi gánh nặng nợ nước ngoài tăng trầm trọng. Các quốc gia khác trong
khu vực cũng chịu ảnh hưởng lây lan khi các nhà đầu tư rút vốn ở các thị trường này, khiến cho thị
trường chứng khoán và tỷ hối đoái đều tụt dốc khơng phanh, ảnh hưởng nặng nề nhất ngồi Thái
Lan là Indonesia, Hàn Quốc, và trong chừng mực ít hơn là Malaysia, Hong Kong và Philippines.
* Diễn biến chính cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 tại một số nước Châu Á
- Thái Lan
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%.
Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan
tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể khơng giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường
chứng khốn Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị
trường chứng khoán đều giảm đi.
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn.
Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá baht, song

rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm
1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán
Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn
hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, cơng ty tài chính
lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị
giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9
tỷ dollar.
- Philippines
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã
cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn

Bài tập nhóm

8

Nhóm 3 – CH K18D


(lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn
một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối của
tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị
trường chứng khốn Philippines giảm xuống cịn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm
hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá.
Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng thống.
- Hong Kong
Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được neo vào
Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ.
Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn cơng. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào
thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan

Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng
khốn ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã
giảm 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành
23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào
các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này
và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính
Hong Kong, đã cơng khai tun chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ
Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001,
chính quyền đã bán ra số chứng khống này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong (khoảng 4
tỷ Dollar Mỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán của nước này đã
ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết
dịng vốn nước ngồi của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở
Nga.
Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8 : 1.
- Hàn Quốc
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước ngồi
khổng lồ. Các cơng ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước
ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư
bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức
đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng
12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khốn của Hàn Quốc thêm giảm
giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt
7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống cịn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD.
- Malaysia

Bài tập nhóm

9


Nhóm 3 – CH K18D


Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của Malaysia
và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức
3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit
là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị
trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính
về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm
xuống khuyến khích dịng vốn chảy ra nước ngồi. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit
vào quý hai và quý ba năm 1997.[8]
- Indonesia
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên
độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah
bị giới đầu cơ tấn cơng và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đối thả nổi có quản lý được thay thế
bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài
chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah
bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị
trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho
món nợ ngân hàng nước ngồi của các cơng ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều cơng ty đẩy
mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát
tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến chính phủ
phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để
tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động.
Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998,
Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1. Nhưng trong thời

kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm
đi.
* Hậu quả của cuộc khủng hoảng:
- Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ thị
trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn
đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998. Những nước bị
ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan.
- Khủng hoảng kinh tế cịn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của Suharto ở Indonesia và
Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây gia tăng cùng với sự phê phán gay
gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các phòng trào Hồi giáo và ly khai phát triển
mạnh ở Indonesia khi chính quyền trung ương của nước này suy yếu.

Bài tập nhóm

10

Nhóm 3 – CH K18D


Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình qn đầu người tính bằng Dollar
Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng
này. Cuốn CIA World Fact Book cho biết thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan đã giảm từ
mức 8.800 USD năm 1997 xuống còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600
USD xuống 3.700 USD, của Malaysia giảm từ 11.100 USD xuống 10.400 USD.
Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đơng Á mà nó góp phần dẫn tới khủng hoảng tài
chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một số nước khơng bị khủng hoảng, nhưng kinh tế
cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu giảm và do FDI vào giảm.
+ Ý nghĩa
Khủng hoảng tài chính Đơng Á làm người ta nhận thức rõ hơn sự cần thiết phải có một hệ thống tài

chính - ngân hàng vững mạnh, minh bạch. Điều này thôi thúc Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng
Thanh toán Quốc tế đổi mới các quy chế về ngân hàng và các tổ chức tín dụng nói chung.
Chính phủ nhiều nước đang phát triển cho rằng các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và vốn
vay ngân hàng nước ngoài có thể đem lại những tác động bất lợi với nền kinh tế của họ. Do đó,
nhiều chính phủ đã ban hành những quy chế nhằm điều tiết các dòng vốn này.
Bên cạnh đó,những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển một hệ thống phòng ngừa khủng
hoảng tái diễn đã được thúc đẩy ở châu Á, ví dụ như Sáng kiến Chiang Mai, Tiến trình Đánh giá và
Đối thoại Kinh tế ASEAN+3, Sáng kiến Thị trường Trái phiếu Châu Á, ...
Về mặt học thuật, các nhà nghiên cứu kinh tế đã nhận thấy sự hạn chế của các mơ hình lý luận về
khủng hoảng tiền tệ trước đây trong việc giải thích nguồn gốc và sự lây lan của khủng hoảng tài
chính Đơng Á. Đã có nhiều nỗ lực nhằm đưa ra một mơ hình mới về khủng hoảng tiền tệ, chẳng
hạn như mơ hình phương pháp tiếp cận bảng cân đối tài sản, lý thuyết bong bóng, lý thuyết về
nguồn gốc khủng hoảng từ chính sách tài chính và chính sách tiền tệ,...
+ Các biện pháp khơi phục kinh tế sau khủng hoảng
Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn, các nền kinh tế Đông Á bị ảnh
hưởng nặng đều tiến hành các cải cách cơ cấu mạnh mẽ, gồm: cải tổ cách thức quản lý trong khu
vực doanh nghiệp, cải cách tài chính, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đổi mới phương pháp quản lý
kinh tế vĩ mô, và đổi mới cả phương thức tăng trưởng kinh tế.
- Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô
Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã và đang thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và cơ
chế ổn định giá cả. Cụ thể, các nước từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái neo và hướng tới chế độ mục tiêu
lạm phát. Đồng thời, các nước nỗ lực gia tăng lượng dữ trự ngoại hối nhà nước của mình. Từ 1997
đến 2005, năm nước bị ảnh hưởng nặng nhất của khủng hoảng đã tăng lượng dự trữ ngoại hối của
mình lên bốn lần, đạt 378 tỷ USD.
- Cải cách khu vực tài chính
Các nước Đơng Á đã thực thi các biện pháp, chính sách sau để cải cách khu vực tài chính: (1) Xóa
và giảm nợ xấu, tái vốn hóa các thể chế tài chính; (2) Đóng cửa các thể chế tài chính đổ vỡ, (3)
Tăng cường giám sát và áp dụng các tiêu chuẩn quản trị, kế toán mới đối với các tổ chức tín dụng
và tài chính khác; (4) Đẩy mạnh chun mơn hóa các thể chế tài chính; (5) Tăng cường giám sát và
Bài tập nhóm


11

Nhóm 3 – CH K18D


điều tiết các tổ chức tín dụng đồng thời với nâng cao kỷ luật thị trường. Yellen (2007) cho thấy các
ngân hàng của Hàn Quốc đã áp dụng phương thức quản trị hiện đại của phương Tây và đã giảm
được tỷ lệ sở hữu gia đình tại các ngân hàng, tăng cường lợi ích cho các giám đốc bằng cách cho
họ quyền chọn mua cổ phiếu, v.v... Còn các ngân hàng Malaysia đã thay đổi tập quán cho vay của
mình. Giờ đây, họ cho các xí nghiệp nhỏ và vừa vay nhiều hơn.
- Cải tổ cách thức quản lý của khu vực xí nghiệp
Các nước Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã hoàn thiện các thủ tục về phá sản, nỗ lực tái cơ cấu
nợcáo bạch, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông nhỏ cũng như nâng cao quyền lực và trách nhiệm
của ban giám đốc, áp dụng các tiêu chuẩn kế tốn và kiểm tốn theo thơng lệ quốc tế, tăng cường
mức vốn tự có của doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt động mua lại và sáp nhập kể cả với
doanh nghiệp trong nước cũng như với doanh nghiệp nước ngồi. của các xí nghiệp, củng cố các
quy định và tiêu chuẩn về
- Cải cách các thị trường
Các nước Đông Á đã và đang phát triển thị trường trái phiếu định danh bằng nội tệ của mình. Đồng
thời, cải cách thị trường lao động đã cho phép các xí nghiệp tuyển dụng và sa thải lao động dễ dàng
hơn, giúp xí nghiệp của các nước Đơng Á trở nên linh hoạt hơn.

Bài tập nhóm

12

Nhóm 3 – CH K18D



PHẦN II: ĐẠI KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU 2008
2.1. Bức tranh cuộc khủng hoảng tài chính sau hơn 1 năm nhìn lại
Nhìn lại sau hơn một năm theo ước tính của IMF, thiệt hại của cuộc khủng hoảng vừa qua đã
lên đến 1000 tỷ USD. Từ lĩnh vực tài chính cuộc khủng hoảng đã nhanh chóng lan sang các lĩnh
vực kinh tế.
* Ngược dòng thời gian ta điểm qua diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính như sau:
- Cuộc khủng hoảng có khởi nguồn từ năm 2007;
* Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp và khơng bị
quản chế q chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ - quỵ ngã sau khi đánh
cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ.
* Tháng 7 - Tháng 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại châu Âu chịu
ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó,
Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ.
* Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây để đòi rút
tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay thế chấp Northern Rock - ngân hàng lớn thứ
5 tại Anh.
* Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi nhuận Quý 3
bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phịng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều
hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11.
* Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là Tập đoàn
Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa
ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70% tại các giao dịch ở Sydney.
- Đến năm 2008 sự đổ vỡ, sát nhập, mua lại của hệ thống ngân hàng tài chính thực sự
bùng nổ
* Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hoá thị
trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp
địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó địi q lớn.
* 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS cơng bố trích lập dự phịng 4 tỷ USD, nâng tổng số
tiền trích lập dự phịng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát quan đến cuộc khủng hoảng cho vay
cầm cố.

* 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.
* 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân của cuộc khủng
hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro.
* 16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP Morgan Chase với giá 2 đôla
một cổ phiếu.
* 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau
khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm
bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản.
Bài tập nhóm

13

Nhóm 3 – CH K18D


* 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây
là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền
đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vịng 11 ngày.
* 31/7: Deutsche Bank cơng bố khoản trích lập dự phịng tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền
ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của
cuộc khủng hoảng tín dụng tồn cầu.
* 7/9: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm sốt hai tập đồn chuyên
cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ.
* 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính mình. Cổ
phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
* 14/9: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cp sau khi từ chối đề nghị
mua lại của Lehman Brothers .
* 15/9: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở lại sau vụ
khủng bố 2 tồ tháp đơi tại Mỹ vào Tháng 9 năm 2001. Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ
phá sản lớn nhất tại Mỹ ; Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm; American

International Group - tập đồn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những
khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố
=> Sự kiện này được coi là một trận động đất dữ dội đối với thị trường tài chính Mỹ.
* 16/09: FED và Bộ tài chính Mỹ quốc hữu hóa công ty bảo hiểm AIG bằng 85 tỷ USD đổi lấy
79,9 % cổ phiếu
* 17/11: Ngân hàng CitiGroup sa thải bớt 50.000 nhân viên cộng với 23.000 đã sa thải năm 2007
* 23/11: Cổ phiếu Citigroup giảm còn 4 USD (năm 2007 giá cổ phiếu này là 50 USD)
* 23/11: Chính phủ Mỹ hỗ trợ 300 tỷ USD cho Citigroup, gồm 25 tỷ tiền mặt cộng với tiền bảo
lãnh nợ và tiền ký gửi tại ngân hàng
(Citigroup là ngân hàng lớn thứ hai ở Mỹ - so về phương diện tài sản, có 200 triệu khách hàng tại
100 quốc gia. Cổ phiếu giảm trong một tuần lễ 60 %, còn 4,11 USD. Sau này Citigroup đã bị chia
ra làm hai: Citicorp và Citi Holdings)
- Cuối năm 2008, năm 2009 các nước trên thế giới đồng loạt tung các giải pháp nhằm
giải cứu nền kinh tế thoát khỏi cuộc khủng hoảng
* 16/9: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các thị trường
tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của hệ thống tài chính
tồn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm
giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman
với trị giá 1,75 tỷ USD.
* 17/9: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh; Tập đoàn Lloyds TSB
của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán Mỹ kiềm chế tình trạng bán khống.
* 19/9: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế hoạch mua lại
tài sản của các tập đồn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh sạch hệ thống tài chính.

Bài tập nhóm

14

Nhóm 3 – CH K18D



* 20-21/9: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD . Hai ngân hàng Goldman
Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa năng, đánh dấu sự kết thúc
mơ hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall.
* 22/9: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm hoạt động của
Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và Trung Đông. Mitsubishi
UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley.
* 23/9: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs; Cục điều tra liên bang
Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận trong cuộc khủng
hoảng tài chính tại Mỹ.
* 25/9: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ
cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên
bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm sốt WaMu và sau đó bán các tài sản của ngân hàng tiết kiệm
lớn nhất Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu
đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ.
Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc hội đã đồng ý về
những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.
* 29/9: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ. Phản
ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt giảm gần 780 điểm – mức
giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay.
* 03/10: Thượng viện Mỹ thông qua kế hoạch Paulson – kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ
74-25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu nhập cho
doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền
gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD.
* 10/10: Họp nhóm G7 (7 nước công nghiệp hàng đầu thế giới), quyết định không để các
ngân hàng phá sản.
2.2 Những tác động và hệ luỵ của cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế tồn cầu:
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 đã để lại một thiệt hại to lớn đối với các nền
kinh tế trên thế giới. Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn cuộc khủng hoảng đã tàn phá thị trường
bất động sản, ngành công nghiệp ô tô, thương mại, gang thép, vận tải, lương thực, năng lượng,

công nghệ thơng tin. Tài sản tiền tệ tồn cầu bị sụt giảm dẫn đến tình trạng khan hiếm vốn lưu
động diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực. Hoạt động sản xuất kinh doanh đình đốn do nhu cầu yếu kém
trước viễn cảnh suy giảm kinh tế tồn cầu vẫn cịn bất ổn định.
Theo ước tính của IMF, thiệt hại của cuộc khủng hoảng vừa qua lên đến 1000 tỷ usd. Anh và
Mỹ là 2 thị trường hàng đầu thế giới trong lĩnh vực này phải chịu hậu quả nặng nề nhất, hàng trăm
nhân viên ngân hàng, chứng khoán mất việc làm trong hơn 1 năm qua. Cịn nếu tính theo đầu
người, trung bình thiệt hại là 10000 usd/một người Mỹ, khoảng 30000 bảng anh/ Vương quốc của
Nữ hoàng Elizabeth đệ nhị.
Mặc dù chính phủ các nước đã có nhiều biện pháp nỗ lực nhưng suy thoái kinh tế- thất
nghiệp - bất ổn định xã hội - đói nghèo vẫn là một vịng luẩn quẩn khơng thể thốt được.
Bài tập nhóm

15

Nhóm 3 – CH K18D


Xem xét theo từng lĩnh vực cụ thể ta sẽ thấy như sau:
2.2.1 Thứ nhất là đối với chính bản thân nước Mỹ, nơi bắt nguồn của cuộc khủng hoảng
- Cuộc khủng hoảng ở khu vực địa ốc đã kéo theo sự khủng hoảng của hệ thống tài chính Mỹ,
khiến cho hệ thống tài chính Mỹ trở nên thiếu tính thanh khoản, bảng cân đối thiếu lành mạnh.
Bảng cân đối thiếu tính lành mạnh ở chỗ: đến thời điểm tháng 6/2008 hệ thống ngân hàng
Mỹ nắm khoảng 700 tỉ USD các khoản nợ dưới chuẩn trong tổng tài sản 11.000 tỉ usd, phần còn lại
là các quỹ đầu tư, các cơng ty bảo hiểm, quỹ hưu trí… Nếu như các khoản cho vay dưới chuẩn này
mất hết thì vốn tự co của các ngân hàng cũng sẽ gần bằng không. Khó khăn trong việc thu hồi các
khoản nợ sẽ khiến cho các ngân hàng lâm vào tình trạng thiếu thanh khoản và kéo cả nền kinh tế
vào tình trạng này.
- Hệ thống ngân hàng, tài chính, TTCK sụp đổ: Ngay sau khi ngân hàng Lehman Brothers
chính thức tuyên bố phá sản, tập đoàn bảo hiểm số 1 AIG đối mặt với nguy cơ khánh kiệt khiến
chính quyền Greorge Bush phải can thiệp; rồi một trụ cột khác của nền tài chính Mỹ là Merrill

Lynch chỉ sống sót sau khi được ngân hàng Bank of America mua lại một phần vốn; chỉ số chứng
khoán tuột dốc mạnh.
- Đồng USD bị mất vị thế trên thị trường quốc tế, khơng cịn chiếm giữ vị trí độc tơn:
- Nợ quốc gia và tư nhân gia tăng, lạm phát phi mã; kinh tế suy thoái, nhu cầu tiêu dùng
giảm. Đến 30/9/2009 thâm hụt Ngân sách Mỹ là 1086 nghìn tỷ USD
- Thất nghiệp tăng: theo báo cáo của Bộ lao động đến tháng 3/2009 tỉ lệ thất nghiệp Mỹ cao
nhất trong vòng 25 năm qua, tăng từ 0.4% lên 8.5 %; tính từ khi có cuộc suy thối đến nay thị
trường Mỹ mất khoảng 5 triệu 100 ngàn việc làm
2.2.2 Đối với thế giới: Xem xét theo từng lĩnh vực
Tương ứng với những hậu quả nước Mỹ gánh chịu thì thế giới cũng chịu những hậu quả lan
truyền tương tự.
2.2.2.1 Đối với hệ thống ngân hàng, tài chính tiền tệ, thị trường chứng khốn:
Một hậu quả rõ nét nhất đó là sự sụp đổ dây chuyền của hệ thống ngân hàng, thị trường
chứng khoán:
Với hậu quả gần như tức thời là toàn bộ các thị trường tài chính thế giới, từ Wall Street đến
tokyo, thượng hải, các chỉ số chứng khoán đều tuột dốc mạnh. Tại châu Âu: Paris, Luân đôn,
Frankfurt, Amsterdam cũng cùng chung số phận. Thị trường Matxcơva cũng lâm vào trình trạng
hoảng loạn đến nỗi phải tạm đóng cửa để “ chờ cơn bão đi qua”
Cũng trong tuần lễ đó NewYork, trung tâm tài chính số 1 của quốc tế như ngồi trên lửa với
những tin đồn ngân hàng Morgan stanley điêu đứng, đang cố tìm lấy một chiếc phao để qua cơn
hoạn nạn.
2.2.2.2 Về kinh tế, chính trị và xã hội;
Sự đổ vỡ của hệ thống tín dụng đã đẩy nền kinh tế thế giới vào cuộc suy thoái sâu rộng nhất
trong hơn 70 năm qua. Cuộc suy thoái này bắt đầu khi bong bóng nhà đất của Mỹ lan nhanh,các
ngân hàng đổ vỡ, ngừng cho vay và người tiêu dùng cũng như là các doanh nghiệp thắt chặt chi
tiêu=> Một hệ quả là khi nhu cầu của Mỹ và châu Âu giảm các thị trường đang nổi một thời thịnh
Bài tập nhóm

16


Nhóm 3 – CH K18D


vượng đã mất đi những khách hàng và đối tác đầu tư lớn nhất. ngày càng có thêm dấu hiệu cho
thấy kinh tế toàn cầu trong năm 2009 sẽ tăng trưởng âm lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh thế giới
lần thứ II.
18 tháng sau kể từ khi cuộc suy thoái bắt đầu, phản ứng kinh tế dây chuyền: từ các ngân hàng
đến thị trường, đến người tiêu dùng,rồi đến các công ty đã bước vào một thời kỳ mới. Và một hệ
quả tất yếu: những khó khăn về kinh tế sẽ kéo theo những bất ổn về chính trị:
* Sự phát triển các lĩnh vực kinh tế trở lên đình trệ:
Sản xuất Ở châu Âu cũng bị suy sụp vào cuối năm 2008. tháng 12/2008 sản xuất công nghiệp
giảm 2.6% so với tháng 11/2008. Đến năm 2009 sản xuất công nghiệp giảm 12% ( từ Báo Mạng
Trung đông tháng 3/2009). Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở châu Âu giảm, cùng với việc gắn kết của
các nước sử dụng đồng tiền chung Châu Âu giảm. Do thất nghiệp bùng nổ, thâm hụt ngân sách
tăng, nước nào lo nước ấy=> Giám đốc nghiên cứu của Trường đào tạo kinh tế cao cấp Ethess,
Pháp cho rằng: “ từ tháng 6 đến nay sự phân tán giữa các nước trong khu vực đồng Euro gia tăng
đáng kể”
Do thiếu vốn, tính thanh khoản của vốn thấp, hơn nữa những nền kinh tế phát triển chủ yếu
dựa vào xuất khẩu đã bị suy thối tồn cầu làm cho trì trệ. Châu Á là khu vực dễ bị tổn thương nhất
do sự phụ thuộc nặng nề vào xuất khẩu khi mà tiêu dùng ở Phương Tây sụt giảm nghiêm trọng.
Theo Foreign Affairs- số 7,8/209: đầu năm 2009 phí vận tải đường biển giữa Nam Trung
quốc và Châu âu tạm thời rớt xuống mức 0 USD. Khi nhu cầu của người tiêu dùng ở Phương Tây
khơng cịn và thu nhỏ lại, các cơng ty mơi giới thực tế đã khơng lấy phí vận chuyển, và chỉ tính
một khoản chi phí bốc xếp tối thiểu. Vào tháng 4/2009, hàng trăm con tàu trống rỗng chiếm hơn
10% năng lực vận tải hàng hoá thế giới vật vờ không tải trên bờ biến Châu Á. Cảng Pusan của Hàn
Quốc cũng ko cịn đủ chỗ chứa cho 32000 cơng ten nơ ko được sử dụng chồng chất lên nhau.
* Thất nghiệp, đối nghèo gia tăng: tình trạng sa thải công nhân diễn ra trên khắp mọi lĩnh
vực của nền kinh tế từ sản xuất, bán hàng, gia công cho tới các ngành dịch vụ mà có lẽ chịu tác
động mạnh nhất là tài chính ngân hàng;
Làn sóng cắt giảm nhân cơng trong ngành sản xuất ơ tơ buộc chính phủ nhiều nước phải hỗ

trợ.
Các ngành công nghệ cao trong những lĩnh vực đang ngày càng phát triển cũng chịu ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng. Các tên tuổi lơn như; Microsoft, HP, Intel, Nec cũng có kế hoạch cắt
giảm nhân cơng.
* Sự phân hố giàu nghèo càng sâu sắc: Cuộc khủng hoảng gây nhiều hậu quả nghiêm trọng
đối với các nền kinh tế trên thế giới, hậu quả dễ nhìn nhất là từ phía các nước phát triển. tuy nhiên
cuộc khủng hoảng này làm cho sự phân hoá giàu nghèo trở lên sâu sắc hơn, các nước đã nghèo lại
còn nghèo hơn;
Ở các nước đang phát triển người dân chỉ cảm thấy cay đắng khi từ bỏ cuộc sống sung túc;
họ kêu mất việc làm nhưng vẫn được hưởng trợ cấp xã hội, y tế, giáo dục, nước uống sạch sẽ vệ
sinh. Nhưng đối với các nước đang phát triển và các nước thế giới thứ 3 như ở châu á, Châu phi thì
sao? đầu tư nước ngồi giảm sút, kiều hối do người lao động nước ngoài gửi về giảm, thu nhập từ
Bài tập nhóm

17

Nhóm 3 – CH K18D


xuất khẩu nguyên liệu rơi tự do, dòng vốn nước ngoài tháo lui, căng thẳng vấn đề tỉ giá và lãi suất
tín dụng, do thiêu kho bảo quản nên các nước nghèo cũng rất dễ bị tắc động từ việc giá lương thực
leo thang => gây ra nhiều nguy cơ mới: dịch bệnh, tị nạn.
=> cuộc khủng hoảng TC giúp ta nhận thấy: không phải là mua sắm nhiều hơn, tiêu dùng
nhiều hơn mà chính là gia đình, bạn bè, cuộc sống tiết kiệm là những việc có ý nghĩa thiêt thực góp
phần chống đói nghèo.
* Bất ổn chính trị, xã hội:
Những nguy cơ chính trị xuất phát từ cuộc khủng hoảng tài chính đang ngày càng trở lên
khốc liệt. Giám đốc cơ quan tình báo quốc gia Mỹ ( CIA) đã cho rằng: sự rối loạn chính trị do suy
thối tồn cầu đã thay thế chủ nghĩa khủng bố trở thành mối đe doạ lớn nhất đối với anh ninh quốc
gia Mỹ.

Tại Đông âu, cuộc khủng hoảng không những làm lung lay các nền kinh tế mà còn ảnh
hưởng đến những quan niệm về tư tưởng liên quan đến việc khôi phục chủ nghĩa tư bản ở nước
này.
2.3 Nguyên nhân cuộc khủng hoảng
Khủng hoảng tài chính tồn cầu có xuất phát điểm từ khủng hoảng tài chính Mỹ 2007. Do vậy để
tìm hiểu nguyên nhân của khủng hoảng tài chính ta bắt đầu từ việc đi tìm ngun nhân của khủng
hoảng tài chính ở Mỹ.
Nguyên nhân gián tiếp từ giai đoạn cận khủng hoảng:
Giai đoạn 1: Dưới thời của cựu tổng thống Bill Clinton (1992 – 2000). Đây được coi là thời kỳ
hoàng kim của Mỹ, với tiến bộ công nghệ và hiệu quả kinh tế cao, thặng dư ngân sách, và tỷ lệ nợ
nước ngoài thấp. Nhưng ngay vào cuối thời kỳ này đã xuất hiện hai sự kiện đáng chú ý:
- Vỡ bong bóng chứng khốn (dotcom bubble). Điều này làm ảnh hưởng đến sự giầu có của tầng
lớp trung lưu của Mỹ, tức là làm giảm khả năng thế chấp cho các khoản vay để đầu tư của họ vào
nhà cửa, bất động sản, và các hoạt động kinh doanh khác.
- Tự do hóa tài chính (unregulated finance). Cụ thể là dưới áp lực của các nhóm đặc quyền tài
chính, vào năm 1999, Bill Clinton đã ký đạo luật mới (Gramm-leach-Bliey), khai tử đạo luật GlassSteagal (1933). Điều này cho phép các ngân hàng thương mại tham gia vào các hoạt động đầu tư
rất rủi ro (chủ yếu là trong lĩnh vực bất động sản), làm khởi đầu bong bóng nhà đất ngay từ
năm2000
Giai đoạn 2: Thời kỳ của cựu tổng thống George Bush, với điểm nổi bật là mất cân đối vĩ mô ngày
càng trầm trọng:
(i) Mỹ chịu gánh nặng của hai cuộc chiến tranh tại Iraq và Afganistan, sau sự kiện 11 tháng 9. Điều
này trực tiếp làm tăng thâm hụt ngân sách.
(ii) Thâm hụt cán cân thương mại và nợ nước ngoài của Mỹ (nhất là với Trung Quốc) đã tăng trong
suốt 3 thập kỷ, nhưng
nhanh nhất vào những năm 2000 trở đi.
Nguyên nhân trực tiếp
Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính lần này là sự suy sụp của thị
trường bất động sản. Ở Mỹ, gần như hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và
Bài tập nhóm


18

Nhóm 3 – CH K18D


trả lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài sau đó. Do đó, có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình
hình lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người
ta đổ xơ đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất cao thì thị trường giậm chân, người bán
nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp.
Có ba yếu tố chính đã khởi tạo nên bong bóng trong thị trường bất động sản:
- Thứ nhất, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thốt khỏi trì trệ, Cục Dự trữ liên bang Mỹ
(Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất
động sản (mặc dù những loại lãi suất cho vay tiền mua nhà do các ngân hàng thương mại ấn định
bao giờ cũng cao hơn nhiều so với lãi suất cơ bản của Fed, nhưng mức độ cao hay thấp của chúng
bao giờ cũng phụ thuộc vào lãi suất cơ bản). Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên
6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ cịn 1%.
- Thứ nhì, về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính phủ lúc bấy giờ là khuyến
khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua
nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie
Mae và Freddie Mac.
Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của
các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay
thế chấp (mortgage-backed securities - MBS), rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là
các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch.

Biểu đồ : Lượng cung nhà Mỹ giai đoạn 2000-2007
(Nguồn: www.cuna.Org)

Bài tập nhóm


19

Nhóm 3 – CH K18D


Biểu đồ : Giá cả nhà ở Mỹ giai đoạn 2008-2010 (Nguồn:
www.marketoracle.co.uk)
- Thứ ba, như đã trình bày ở trên, bởi vì có sự biến đổi các khoản cho vay thành các cơng cụ đầu tư
cho nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động sản khơng cịn là sân chơi duy nhất
của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty chuyên cho vay thế chấp bất động sản nữa. Nó đã
trở nên một sân chơi mới cho các nhà đầu tư, có khả năng huy động dòng vốn từ khắp nơi đổ vào,
kể cả dịng vốn ngoại quốc.

Bài tập nhóm

20

Nhóm 3 – CH K18D


Điểm đặc biệt ở đây là bởi vì việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm MBS là vô cùng phức tạp cho
nên nó diễn ra gần như là ngồi tầm kiểm sốt thơng thường của chính phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm
sốt cần thiết cho nên lịng tham và tính mạo hiểm đã trở nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh
đó, bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản vay để các công ty khác biến chúng thành MBS, các
ngân hàng thương mại đã trở nên mạo hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của
người vay.
Với ba lý do trên, thị trường bất động sản trở nên rất nhộn nhịp, có rất nhiều người thu nhập thấp
hoặc khơng có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xơ đi mua nhà. Để có thể được vay, nhóm người này
thường phải trả lãi suất cao hơn và thường được cho mượn dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo
thời gian (ví dụ, nếu thỏa thuận là được vay với lãi suất 6% và điều chỉnh sau 3 năm thì đúng ba

năm sau lãi suất mới sẽ được ấn định theo thời điểm đó). Tóm lại, nhóm người này thuộc vào thành
phần được cho vay với loại lãi suất dưới chuẩn (subprime rate).
Bất kể khả năng trả được nợ của nhóm vay dưới chuẩn, khoản tiền cho vay dành cho nhóm này đã
tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD ở năm 2001 lên 540 tỉ vào năm 2004 và
trên 1.300 tỉ vào năm 2007. Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại các khoản cho vay đầy
mạo hiểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty khác, chẳng hạn như Lehman
Brothers.
Bài tập nhóm

21

Nhóm 3 – CH K18D


Bên cạnh đó, nhu cầu mua lại MBS của các nhà đầu tư vẫn cao bởi vì cho tới trước năm 2006 thì
thị trường bất động sản vẫn chưa có dấu hiệu nổ bong bóng. Hơn nữa, họ cũng phần nào được trấn
an khi vẫn có thể mua thong thả các hợp đồng bảo hiểm CDS từ các công ty bảo hiểm và đầu tư
khác. Việc này dẫn đến các công ty bán bảo hiểm càng mạnh tay hơn trong việc bán CDS ra thị
trường, bất chấp khả năng bảo đảm của mình.
Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất động sản liên tục. Giá nhà
bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn năm từ 2001 (năm bắt đầu cắt mạnh lãi suất) đến
2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta
sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ
bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Do đó, một bong bóng đã thành hình trong thị trường
bất động sản.
Khi bong bong bong bất động sản vỡ kéo theo sự suy sụp dây chuyền bất động sản – tài chính:
Do lo lắng về diễn biến lạm phát, Cục Dự trữ liên bang (DTLB) bắt đầu tăng dần lãi suất, dẫn đến
việc thị trường bất động sản (BĐS) bắt đầu chững lại vào đầu năm 2006.
Trong khi vào giữa năm 2003 lãi suất căn bản của Fed chỉ có 1% thì vào giữa năm 2006 nó đã tăng
lên đến 5,25%, bắt buộc các ngân hàng thương mại phải đẩy lãi suất cho vay tiền mua nhà lên cao

hơn nhiều nữa. Tình hình lãi suất cao đã khiến cường độ vay để mua nhà giảm lại. Giá nhà bắt đầu
trượt dốc vì cung vượt cầu. Nhiều người mua nhà giá cao trước đây bắt đầu thấy giá thị trường của
căn nhà đang sở hữu thấp hơn khoản nợ mà mình đang vay. Bên cạnh đó, rất nhiều người trong
nhóm vay tiền với lãi suất dưới chuẩn bắt đầu mất khả năng trả nợ khi lãi suất của họ bị điều chỉnh
trở lại theo lãi suất mới hiện hành khá cao. Họ muốn bán nhà để trả nợ cũng khơng được vì giá nhà
thấp hơn khoản nợ do thị trường tụt dốc. Hệ quả là họ đành bỏ nhà cho ngân hàng trưng thu lại.
Việc ngày càng nhiều người khơng có khả năng trả nợ ngân hàng mỗi tháng dẫn đến việc trị giá
của các MBS bị tụt dốc. Như đã nói lúc đầu, có rất nhiều nhà đầu tư ở Phố Wall đã mua MBS. Do
đó, khi MBS mất giá thì đồng nghĩa với việc tài sản của họ cũng bị mất theo, dẫn đến việc thiếu
hụt vốn. Bên cạnh đó, các cơng ty bảo hiểm MBS, chẳng hạn như AIG, cũng lâm vào cảnh khốn
đốn khi phải đứng ra bảo lãnh ngày càng nhiều các khoản vay xấu. Ngoài ra, các ngân hàng thương
mại hoặc các cơng ty cho vay thế chấp cịn giữ lại phần lớn các khoản vay cho mình (thay vì bán
lại cho Fannie Mae chẳng hạn) cũng nhìn dịng vốn và tín dụng của mình bị cạn kiệt khi phải
đương đầu với tỷ lệ mất khả năng trả nợ ngày càng cao của người vay thuộc nhóm dưới chuẩn.
Tóm lại, bởi vì có nhiều mối liên hệ chằng chịt giữa người vay và nhiều thành phần cho vay trực
tiếp cũng như gián tiếp, việc tụt dốc của thị trường BĐS đã ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường tài
chính nói chung. Mức độ lan tỏa và nghiêm trọng của vấn đề là do sự mua đi bán lại các công cụ
tài chính phát sinh (các MBS và CDS) đã kéo quá nhiều các thành phần đầu tư, trong cũng như
ngoài nước, vào cuộc chơi trong khi luật lệ của sân chơi thì vẫn thiếu sót hoặc khơng rõ ràng.
Vấn đề mấu chốt hiện giờ là sự khan hiếm tín dụng đang hoành hành. Vấn đề này càng trở nên
nghiêm trọng hơn khi các nhà đầu tư bắt đầu bán tháo bán đổ các công cụ đầu tư mạo hiểm để tìm
cách bảo tồn vốn. Sự việc này dẫn đến niềm tin vào thị trường bị tụt dốc và "suy nghĩ và hành
động bầy đàn" trở nên phổ biến. Khủng hoảng nổ ra.
Bài tập nhóm

22

Nhóm 3 – CH K18D



PHẦN III: CUỘC ĐẠI KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008-2009 VÀ VIỆT NAM
3.1 Khủng hoảng Tài chính tác động đến nền kinh tế Việt Nam.
Trong nhiều tháng nay đề tài khủng hoảng tài chính, kinh tế tồn cầu đã được nói đến ở
mọi nơi, mọi lúc. Và ở Việt Nam, khi đi vào nhận định tình hình nền kinh tế, nhiều ý kiến cho
rằng cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009, xuất phát từ Mỹ chỉ ảnh hưởng gián tiếp đến nền kinh
tế Việt Nam, nhưng cũng có những ý kiến cho rằng nền kinh tế Việt Nam không chỉ đơn thuần bị
ảnh hưởng gián tiếp mà bị ảnh hưởng trực tiếp. Là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế giới,
vả lại ngày nay kinh tế nước ta đã hội nhập đầy đủ với nền kinh tế thế giới, chúng ta khơng thể
khơng tính đến những tác động sâu xa, mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng toàn cầu đối với Việt Nam,
không thể không nghĩ tới một số vấn đề nảy sinh đối với nước ta. Về tác động thì có lẽ nên tính tới
cả những tác động ngắn hạn lẫn trung hạn và dài hạn.
3.1.1 Ảnh hưởng đến Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính tồn cầu đã làm cho nền kinh tế bị suy giảm,
tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta chậm lại. Kế hoạch đầu năm 2008, tăng trưởng GDP dự
kiến từ 8,5 – 9%, đến tháng 5 năm 2008 Quốc hội đã điều chỉnh tỷ lệ tăng trưởng GDP xuống 7%.
Nhưng thực tế năm 2008 tốc độ tăng trưởng GDP chỉ là 6,23%, thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP
năm 2007, năm 2007 là 8,48%. Tuy nhiên, trong bối cảnh tài chính thế giới khủng hoảng, kinh tế
nhiều nước suy giảm thì tốc độ tăng trưởng 6,23% này vẫn là mức khá cao. Sang năm 2009, theo
báo cáo của Thủ tướnng chính phủ, GDP quý sau tăng cao hơn quý trước: quý I: GDP là 3,14%,
quý II: 4,46%, quý III: 5,76%, 9 tháng đầu năm tăng 4,56% dự kiến cả năm 2009 tăng khoảng
5,2%. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009 vẫn thấp nhất trong 10 năm tại đây, tăng
trưởng chủ yếu vẫn theo chiều rộng.
3.1.2 Ảnh hưởng đến thu chi ngân sách nhà nước:
Tình trạng thâm hụt ngân sách trong năm 2007 là 5.5% và năm 2008 là 4.7%. Sang năm
2009, thâm hụt ngân sách Việt Nam có thể lên đến 142,4 ngàn tỷ đồng (tương đương 7,7 tỷ USD)
sau khi thu nhập của nhà nước sụt giảm do khủng hoảng kinh tế tồn cầu và chính phủ đã gia tăng
chi tiêu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thu nhập của chính phủ năm 2009 ước tính lên đến
390,64 nghìn tỷ đồng trong khi chi tiêu của chính phủ có thể vượt mức 533 nghìn tỷ đồng ( thơng
tin từ Bộ tài chính). Việt Nam đã đối mặt với mức thâm hụt ngân sách lớn.
3.1.3 Ảnh hưởng đến hệ thống tài chính - ngân hàng

Mặc dù hiện tại hệ thống tài chính ngân hàng của Việt Nam chưa chịu tác động mạnh từ
cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ vì mức độ hội nhập với hệ thống ngân hàng Mỹ và thế giới
chưa sâu. Các ngân hàng Việt Nam chủ yếu làm cầu nối cung cấp dịch vụ thanh toán, bảo lãnh và
bao thanh toán cho các doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu. Bên cạnh đó, lượng vốn của các ngân
hàng Việt Nam vay trên thị trường quốc tế không lớn nên có thể loại trừ khả năng xuất hiện hiệu
ứng rút vốn ồ ạt gây rủi ro về thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Và các ngân hàng và các tổ
chức tài chính Việt Nam khơng sở hữu các MBS của Mỹ, và các ngân hàng đầu tư vào bất động
sản chủ yếu thơng qua hình thức cho vay có đảm bảo bằng tài sản hoặc bằng chính bất động sản
Bài tập nhóm

23

Nhóm 3 – CH K18D


hình thành từ vốn vay nên khả năng tạo hiệu ứng dây chuyền kiểu Mỹ khi bất động sản giảm giá là
khó xảy ra. Tuy nhiên, hệ thống tài chính - ngân hàng vẫn phải đối mặt với những khó khăn như:
- Do tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính, lợi nhuận của nhiều ngân hàng có
thể giảm, thậm chí một số ngân hàng nhỏ có thể thua lỗ, nợ xấu tăng lên, nên hệ thống ngân hàng
tài chính Việt Nam có nguy cơ bị ảnh hưởng trong một vài năm. Năm 2008, theo số liệu từ Ngân
hàng nhà nước , tổng dư nợ tín dụng cho vay kinh doanh bất động sản hiện nay khoảng 115.500 tỷ
đồng, chiếm 9,15% trên tổng dư nợ toàn hệ thống. Trong tình hình thị trường BĐS vẫn chưa có
dấu hiệu khởi sắc thì việc các ngân hàng phải đối diện với khoản lỗ lớn là không tránh khỏi. Đơn
cử như ngân hàng Eximbank, năm 2008 tỷ lệ nợ xấu chiếm đến 4,71 % trên tổng số dự nợ và nợ
xấu này chủ yếu là các khoản cho vay BĐS. Đến tháng 5/2009, cuối tháng 5/2009 giảm còn 3,3%.
Các khoản nợ nếu xử lý khơng khéo thì có thể dẫn đến tình trạng mất thanh tốn, ảnh hưởng dây
chuyền đến hệ thống.
- Mức độ liên thông giữa hệ thống ngân hàng Việt Nam với thị trường tài chính bên ngồi và
với ngân hàng Mỹ sẽ gặp khó khăn. Khả năng giao dịch ngân hàng, tài chính quốc tế sẽ giảm, ảnh
hưởng đến nợ vay ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng và doanh nghiệp.

- Cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu cũng đã ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng cho vay giữa
các ngân hàng (Libor và Sibor, tức London Inter Bank offer rate, Singapore Inter Bank Offer rate,
thường được dùng làm lãi suất cơ sở để cho các xí nghiệp và ngân hàng Việt Nam vay).
3.1.4. Ảnh hưởng tới hoạt động xuất - nhập khẩu:
- Hết 11 tháng/2009, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước là 113,6 tỷ USD, giảm 14,7 %
so với cùng kỳ năm 2008, trong đó, xuất khẩu là 51,31 tỷ USD, giảm 11,6% và nhập khẩu là 61,72
tỷ USD, giảm 17,8%. Cán cân thương mại hàng hoá 11 tháng thâm hụt 10,95 tỷ USD, bằng 21,3%
xuất khẩu - Tình hình Xuất khẩu: Xuất khẩu chịu ảnh hưởng do sự suy giảm nền kinh tế toàn cầu
làm giảm nhu cầu tiêu dùng và việc giảm giá của các mặt hàng xuất khẩu. Mỹ, Nhật Bản, và Châu
Âu (chiếm khoản 60% kim ngạch xuất khẩu của nước ta) đã bị ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng
hoảng, và đã ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của. Năm 2007 với kim
ngạch đạt 48 tỷ USD, năm 2008 giá trị xuất khẩu cả năm lên 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so năm
2007. Tuy nhiên đến hết tháng 11/2009, tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ còn 51,31 tỷ USD, giảm
11,6% so với cùng kỳ năm 2008 . Kim ngạch giảm do giá một số mặt hàng xuất khẩu giảm như :
dầu giảm 41,7% so với cùng kỳ năm trước do giá dầu thô xuất khẩu giảm 43,5% (tương ứng giảm
350 USD/tấn). Trong 24 mặt hàng xuất khẩu chủ lực chỉ có 8 mặt hàng có kim ngạch tăng, gồm
hố chất và sản phẩm hoá chất, đá quý, kim loại quý và sản phẩm, chất dẻo, rau quả, cà phê, hạt
tiêu, sắn và sản phẩm sắn, điện tử máy tính; 15 mặt hàng khác kim ngạch bị sụt giảm, trong đó
giảm nhiều là dầu thô, cao su, giày dép, dây điện và cáp điện.
- Tình hình nhập khẩu: Tổng kim ngạch nhập khẩu 11 tháng ước đạt 61,72 tỷ USD giảm
17,8% so với tháng 11/2008. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là xăng dầu các loại, sắt thép, ô tô
nguyên chiếc,....
- Sau 11 tháng, mức nhập siêu đã lên đến gần 10,42 tỷ USD, bằng 20,3% tổng kim ngạch
xuất khẩu (cùng kỳ năm trước nhập siêu 28,8%).. Tuy giảm so với cùng kỳ năm trước, nhưng nhập
Bài tập nhóm

24

Nhóm 3 – CH K18D



siêu đã vượt dự kiến từ đầu năm. Với mức nhập siêu như trên và có thể cịn cao hơn trong tháng 12
tới thì cả năm có thể vượt qua mức 12 tỷ USD. Với mức nhập siêu trên thì vẫn tiếp tục tác động
tiêu cực đến cán cân thanh tốn.
3.1.5. Ảnh hưởng tới vốn đầu tư của nước ngồi kể cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp
Vốn đầu tư vào Việt Nam là một yếu tố góp phần quan trọng vào những thành tựu phát triển chung
của cả nước, những năm gần đây tổng đầu tư nước ngồi đóng góp 25-30% tổng đầu tư tồn xã
hội. Với tình hình khủng hoảng tài chính xảy ra, thì nguồn vốn đầu tư này đổ vào Việt Nam hiện
nay đã có bước sụt giảm, ảnh hưởng trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế.
- Đầu tư trực tiếp: Năm 2008, cả nước thu hút được 64 tỷ USD với 1171 dự án đăng ký mới
(60,3 tỷ USD) và 311 dự án bổ sung vốn (3,7 tỷ USD), tăng gấp 3 lần so với năm 2007. Sang đến
năm 2009, có 839 dự án đăng ký mới với tổng vốn đăng ký 16,34 tỷ USD, cộng với 215 dự án
đăng ký tăng vốn với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 5,13 tỷ USD đưa tổng số FDI đăng ký vào
Việt Nam là 21,48 tỷ USD, chỉ bằng 30% so với năm 2008. Trong đó Dịch vụ lưu trú và ăn uống
vẫn là lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với 8,8 tỷ USD vốn cấp
mới và tăng thêm, tiếp theo là kinh doang bất động sản với 7,6 tỷ USD. Qua xem xét luồng vốn, có
43 quốc gia vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, trong đó Mỹ vẫn là nhà đầu tư lớn nhất
với tổng vốn đăng ký là 9,8 tỷ USD chiếm 45,6% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, tiếp theo là
Cayman Islands đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký 2,02 tỷ USD chiếm 9,4%. Đứng thứ 3 là Samoa
với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD chiếm 7,9%. Hàn Quốc đứng thứ 4 với 1,66 tỷ USD vốn đăng ký,
chiếm 7,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. Bà Rịa-Vũng Tàu là địa phương thu hút nhiều vốn FDI nhất
trong năm 2009 với 6,73 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Tiếp theo là Quảng Nam, Bình
Dương, Đồng Nai và Phú Yên với quy mô vốn đăng ký lần lượt là 4,1 tỷ USD; 2,5 tỷ USD; 2,36 tỷ
USD và 1,7 tỷ USD.
- Đầu tư gián tiếp (FII): thông qua các hoạt động mua tài sản tài chính như cổ phiếu, trái
phiếu, tiền gửi ngân hàng, tiền tệ và các giấy tờ có giá khác. Ba tháng đầu năm, khi mà nền kinh tế
tồn cầu chao đảo, thị trường chứng khốn tụt dốc không phanh, cũng là lúc các nhà đầu tư gián
tiếp nước ngồi đẩy mạnh việc thối vốn khỏi thị trường Việt Nam. Trên tổng quy mô vốn 8 tỷ
USD, số vốn FII chảy ra khỏi thị trường vào khoảng 700 triệu USD, chủ yếu là từ hoạt động đầu tư
trái phiếu. Tuy nhiên, 3 tháng trở lại đây, đã có thêm 120 triệu USD được chuyển ngược vào Việt

Nam, 120 triệu USD chuyển vào nền kinh tế Việt Nam trong vòng 3 tháng trở lại đây, xét trên
tương quan với lượng vốn đã rút ra khỏi thị trường và lượng vốn FII đang hiện hữu thì khơng phải
là một con số lớn. Bên cạnh đó, theo Uỷ ban chứng khốn Nhà nước, khối ngoại từ chỗ bán rịng
trên thị trường, đã chuyển qua mua ròng với số tiền ước tính lên tới 75 triệu USD. Tuy nhiên, điều
đáng nói là hầu như khơng có tiền mới đổ vào thị trường, mà chủ yếu là các nhà đầu tư cơ cấu lại
danh mục. Thực tế này cho thấy, các nhà đầu tư nước ngồi vẫn cịn hết sức thận trọng đối với nền
kinh tế Việt Nam. Vốn FII đã quay lại, nhưng vẫn còn rất khiêm tốn. Điều này khiến nhiều người
lo ngại về sự thu hẹp quy mô hoạt động của các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Bởi
lẽ, số vốn giải ngân của các quỹ hiện đã đạt 70 đến 80%, trong đó số dư trái phiếu 1 tỷ USD, 2,7 tỷ
USD đầu tư tiền gửi và 4,5 tỷ USD cổ phiếu, mà lại thiếu hụt nguồn bổ sung. Dự báo, FII vào thị
Bài tập nhóm

25

Nhóm 3 – CH K18D


×