Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Câu 1 : Quan niệm, đặc điểm quyền lực nhà nước và tính thống nhất của quyền lực nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.27 KB, 37 trang )

Câu 1 : Quan niệm, đặc điểm quyền lực nhà nước và tính thống
nhất của quyền lực nhà nước
Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tổ chức
quyền lực nhà nước, Đảng ta đã khái quát thành các nguyên lý cơ bản: quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhà nước của dân, do dân, vì dân: quyền
lực nhà nước là thống nhất trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp; tổ chức và hoạt động của nhà nước dười sự lãnh đạo của
Đảng. Những quan điểm đó đa được nhà nước ta triển khai trong q trình
xâu dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền XHCN
Quyền lực là cái mà nhờ đó buộc người ta phải phục tùng, là khả năng
thực hiện ý chí của mình trong quan hệ với người khác.
Quyền lực chính trị là một bộ phận của quyền lực trong xã hội, và bao
giờ cũng mang tính giai cấp.
Quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được tổ chức thành nhà
nước. Do vậy xét về mặt bản chất, quyền lực nhà nước là quyền lực của giai
cấp thống trị và nó được thực hiện bằng cả một hệ thống chun chính do
giai cấp đó lập ra. Quyền lực nhà nước cịn có nội dung xã hội hay nói đó là
quyền lực cơng do có sự kết hợp giữa quyền lực chính trị của giai cấp thống
trị với quyền lực xã hội, khi nó đại diện cho các nhóm lợi ích trong xã hội.
Quyền lực nhà nước khác các quyền lực chính trị khác ở chỗ quyền lực nhà
nước được tổ chức thành cả một hệ thống thiết chế và có khả năng sử dụng
các cơng cụ của nhà nước để buộc các giai cấp, tầng lớp xã hội khác phục
tùng ý chí của giai cấp thống trị.
Cấu trúc quyền lực nhà nước gồm hai bộ phận :
Một là, ý chí của giai cấp, của nhân dân là bộ phận cấu thành nên bản
chất của quyền lực nhà nước; ý chí đó gắn chặt quyền lực với chủ thể quyền
lực, biến sức mạnh quyền lực thành những yếu tố tác động hiện thực của sự
tồn tại xã hội.
Ý chí là bộ phận quan trọng nhất của bất kỳ quyền lực xã hội, nếu
thiếu nó thì khơng thể hiểu được bản chất của quyền lực và hiện tượng
quyền lực đó. Ý chí đó có ý nghĩa đầu tiên trong sự hình thành mơ hình


chính quyền nhà nước. Tính giai cấp của quyền lực nhà nước thể hiện một
cách rõ ràng trong ý chí của nó. Ý chí liên kết chặt chẽ quyền lực nhà nước
với chủ thể của no; quyền lực thuộc về giai cấp nào thể hiện ý chí của giai
cấp đó. Quyền lực khơng thể khơng thuộc về một chủ thể nhất định. Vì vậy
chủ thể quyền lực chiếm một vị trí quan trọng trong quyền lực nhà nước.
Chủ nghĩa Mác-Lênin trong khi khơng coi ý chí con người là yếu tố
quyết định đời sống xã hội, nhưng nhấn mạnh vai trị to lớn của nó; nó được
coi như là yếu tố mang tính quyết định tạo nên quyền lực nhà nước.


Ý chí giai cấp là bộ phận cấu thành ý thức xã hội, là mặt hoạt động
tích cực của ý thức xã hội. Như vậy, về thực chất, ý chí giai cấp là hiện
tượng tâm lý xã hội, nó được hình thành trong quá trình đan xen phức tạp
của tác động qua lại của các hiện tượng khách quan, chủ quan, sự thay đổi
biện chứng của ý thức xã hội.
Để trở thành yếu tố của quyền lực nhà nước, ý chí giai cấp cần phải
được tiến hành thơng qua nhà nước, các cơ quan nhà nước, tạo thành định
chế quyền lực nhà nước.
Hai là, bộ phận tạo nên cơ cấu tổ chức quyền lực bao gồm các cơ
quan, tổ chức nhà nước cùng với các phương tiện vật chất và các quy phạm
pháp luật.
Các đặc điểm của quyền lực nhà nước :
Một là, ý chí chính trị của giai cấp thống trị được thể hiện thông qua
bộ máy quyền lực nhà nước và được tuyên bố chính thức nhân danh nhà
nước.
Hai là, về nguyên tắc, ý chí nhà nước đựơc thể hiện dưới hình thức
pháp lý; về hình thức, nó trở thành ý chí của tồn xã hội.
Ba là, việc thực hiện ý chí nhà nước được đảm bảo bởi sức mạnh của
nhà nước.
Quyền lực nhà nước với bộ máy nhà nước: Quyền lực nhà nước dựa

trên cơ sở kinh tế-xã hội. Trên cơ sở đó các yếu tố như sức mạnh vật chất
của quyền lực nhà nước, bộ máy công lực nhà nước: lực lượng quân đội,
cảnh sát ... ra đời. Ý chí giai cấp gắn với bộ máy nhà nước tạo thành nhân tố
tổ chức và điều chỉnh xã hội. Trong thực tiễn và trong tổ chức quyền lực nhà
nước khơng có bộ máy thực hiện thì quyền lực nhà nước chỉ là trống rỗng.
Mác nhấn mạnh, không thể thực hiện được quyền lực nhà nước trên thực thế
nếu thiếu bộ máy tương ứng.
Mối quan hệ qua lại giữa quyền lực nhà nước với bộ máy nhà nước rất
phức tạp. Các cơ quan nhà nước được tổ chức, nó như là sự thể hiện “ vật
chất “ của quyền lực. Cơ cấu quyền lực nhà nước, vai trò, vị trí của nó quyết
định bản chất và nội dung quyền lực nhà nước.
Như vậy, ý chí nhà nước của giai cấp và sức mạnh tập trung có mối
liên kết tới bản chất, nội dung cơ bản của quyền lực nhà nước. Cịn cơng cụ
cơ bản của quyền lực này là cơ quan nhà nước và pháp luật.
Quyền lực nhà nước khơng ngừng tác động lên các q trình xã hội và
bản thân nó được thể hiện dưới dạng đặc biệt của các quan hệ quyền lực. Về
mặt cấu trúc, quan hệ quyền lực được hình thành bởi các yếu tố sau:
- Chủ thể quyền lực nhà nước.
- Khách thể các quan hệ quyền lực ( các giai cấp, cá nhân và mối
liên kết của các tổ chức, cá nhân đó ).


- Về mặt nội dung, quan hệ quyền lực gồm hai phần:
+
Chuyển ý chí của chủ thể cầm quyền thành ý chí quyền lực.
+
Sự lệ thuộc của chủ thể đó vào ý chí.
Sự thống trị của quyền lực nhà nước trong xã hội, sự lệ thuộc của tất
cả vào ý chí chủ thể quyền lực là mục đích trực tiếp của các mối quan
hệ quyền lực.

Tính thống nhất của quyền lực nhà nước
Lịch sử xã hội loài người đã chỉ ra rằng, có nhiều hình thức tổ chức
quyền lực nhà nước khác nhau. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến
quyền lực nhà nước bao gồm quỳên lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư
pháp tập trung nằm trong tay một nhà quân chủ. Đến khi giai cấp tư sản nắm
quyền, quyền lực nhà nước được phân chia thành quyền hành pháp, quyền
lập pháp và quyền tư pháp; trong đó quyền lập pháp bị khống chế khơng thể
kiểm tra, giám sát được hành động của hành pháp và tư pháp. Các Mác – Lê
Nin đã chỉ ra những hạn chế của thuyết phân quyền về lý luận cũng như thực
tiễn. Khi tổng kết kinh nghiệm của công xã Pari, Các Mác đã đưa ra quan
điểm mới về tổ chức thực hiện quyền nhà nước của nhà nước kiểu mới; ‘
Công xã Pari không phải là cơ quan đại nghị, mà là một tập thể hành động
vừa lập pháp vừa hành pháp “. Lê Nin đã kế thừa và phát huy tư tưởng đó,
coi đó là cơ sở lý luận của quá trình tổ chức bộ máy nhà nước kiểu mới. Như
vậy, cả Các Mác và Lê Nin đều khẳng định quan điểm về sự thống nhất giữa
các quyền của quyền lực nhà nước, sự thống nhất nội tại bởi bản chất giai
cấp, tính xã hội của nó. Sự thống nhất, xích lại gần giữa các quyền khơng
phải là sự “ nhập cục “ tất cả các quyền đó để trao cho một cơ quan mà do
nhiều cơ quan thực hiện.
Quyền lực thuộc về nhân dân có nghĩa là mọi quyền binh trong xã hội
là của nhân dân, đó là quyền lực thống nhất, về căn bản đã thay đổi các quan
hệ quyền lực nhà nước, tạo nên cơ sở ý chí, tư tưởng để các thành viên trong
xã hội tự nguyện chấp hành quyền lực nhà nước của nhân dân. Sự tuân thủ
đó được bổ sung thêm nội dung dân chủ, đó là sự chấp hành của thiểu số đối
với đa số.
Liên hệ thực tế
Quan nghiên cứu về quyền lực nhà nước, chúng ta càng khẳng định
quan điểm của Đảng ta trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lê Nin là quan
điểm đúng đắn, sáng suốt về tổ chức quyền lực nhà nước. Xây dựng và hoàn
thiện nhà nước CHXHCNVN theo hướng nhà nước pháp quyền, do dân, của

dân và vì dân là q trình lâu dài là cơng việc to lớn và quan trọng nhất của
toàn Đảng,... toàn dân và toàn quân ta. Các cấp, các ngành, mọi cán bộ, đảng
viên cần quán triệt sâu sắc các cơ sở lý luận này thành hành động thực tế để


nhanh chóng đưa nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân hoạt động có
hiệu quả đem lại no ấm, hạnh phúc cho mọi người dân.
Câu 2: Tính nhân dân của quyền lực nhà nước và thiết lập quyền
lực nhà nước của nhân dân.
Quan điểm nhất qn, có tính nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của
nhà nước CHXHCNVN được cá Đại hội Đảng chỉ rõ “... Nhà nước ta là
công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp...”. Những quan điểm trên đã từng
bước được thể hiện trong quá trình xây dựng, hoàn thiện nhà nước.
Hiến pháp năm 1946 ghi rõ “ tất cả quyền binh trong nhà nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, trai gái, giàu nghèo,
giai cấp, tôn giáo “. Hiến pháp năm 1959 thể hiện khá đầy đủ và rõ nét quan
điểm quyền lực thống nhất thuộc nhân dân, quan điểm tập quyền, tập trung
quyền lực cao nhất vào Quốc Hội, thể hiện trong những quy định: “ tất cả
quyền lực trong nước...đều thuộc về dân nhân... “. “ Quốc hội là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất...”. Hiến pháp năm 1992 đã kế thừa những tư
tưởng tổ chức quyền lực nhà nước trong những hiến pháp trước đây; đồng
thời thể hiện rõ nét và đầy đủ hơn về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước
như bước chuyển về sự phân công lao động trong bộ máy nhà nước, nhưng
vẫn đảm bảo quyền lực thống nhất thuộc về nhân dân.
Từ thực tiễn tổ chức vận hành nhà nước ta có thể rút ra những cách
thức cơ bản để tổ chức quyền lực nhân dân.
Một là, nhân dân thành lập nhà nước bằng phổ thông đầu phiếu. Nhân

dân bằng lá phiếu của mình bầu ra những người đại diện cho mình vào các
cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Một cuộc bầu cử dân chủ trước hết là lựa chọn ứng cử viên theo ý
dân. Nhưng ý dân khơng thể là ý chí rời rạc cho từng người dân, cũng không
phải là số cộng của các ý chí cộng đồng. Ý chí của dân được hình thành
thơng qua các yếu tố: sự lãnh đạo của Đảng, sự thể chế của nhà nước, sự
tham gia của các tổ chức và cá nhân người dân. Các yếu tố đó tác động qua
lại hình thành ý dân. Khi tổ chức tìm kiếm ứng cử viên, cơ chế tác động đó
vận hành trên cơ sở kết hợp hài hoà, cân nhắc mọi khách quan ý muốn của
Đảng và ý muốn của dân ( Đảng cử, dân bầu ). Do vậy chế độ bầu cử là vấn
đề hiến định và được cụ thể hoá trong luật bầu cử cơ quan dân cử.
Đại biểu nhân dân là nhà chính trị, là người tham gia hoạch định chính
sách, chủ trương, biện pháp lớn của quốc gia và của từng địa phương vì vậy
phải có các tiêu chuẩn chính trị, tiêu chuẩn về chuyên môn.


Hai là, nhân dân trao quyền lực cho nhà nước, trở thành quyền lực nhà
nước – trung tâm của quyền lực chính trị, được thực hiện thơng qua pháp
luật, trước hết là hiến pháp, quy định về tổ chức quyền lực nhà nước, địa vị
pháp lý của công dân và mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước với đời sống
dân sự. Sự trao quyền của nhân dân cho nhà nước sẽ tạo nên xu hướng lạm
quyền. Để ngăn chặn xu hướng đó, pháp luật quy định quyền lực quản lý nhà
nước đối với xã hôi; đồng thời với việc chế định các quy tắc hạn chế quyền
lực, đặt quyền lực của bộ máy cưỡng chế đảm bảo nó vào trong một khn
hổ hạn định. Đó là nội dung cơ bản của nhà nước pháp quyền. Nhà nước có
quyền lực mạnh mẽ, nhưng luôn bị lệ thuộc vào pháp luật, quyền hiến định
của cơng dân rất rộng rãi,nhưng có thể bị hạn chế bằng các đạo luật trong
các trường hợp cụ thể.
Ba là, các quyền chỉ thuộc về công dân cần được pháp luật ghi nhận.
Quyền lực là của nhân dân. Nhân dân bàn giao quyền lực cho nhà nước,

nhưng nhân dân vẫn có các quyền khác đó là quyền trưng cầu dân ý, quyền
bãi nhiệm đại biểu nhân dân, quyền giám sát quyền khiếu nại, tố cáo, khiếu
kiện. Những quyền này được ghi nhận trong pháp luật, đồng thời pháp luật
cũng quy định nhà nước nghĩa vụ tổ chức thực hiện cá quyền đó cho dân.
Liên hệ thực tế
Nghiên cứu về tính nhân dân của quyền lực nhà nước và thiết lập
quyền lực nhà nước của nhân dân, ta càng nhận thức sâu sắc quan điểm cơ
bản có tính nguyên tắc của Đảng về xây dựng XHCN của dân, do dân, vì
dân, lấy liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãn đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm
chủ của nhân dân, giư nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành
động xâm phạm tổ quốc. Đây là kim chỉ nam, sợi chỉ đỏ xun suốt q
trình xây dựng và hồn thiện nhà nước ta.
Câu 3: Tính thơng nhất của quyền lực nhà nước và sự phân chia quyền
lực nhà nước
Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “ Nhà nước
ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận hành
của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về
nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp giữa
các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Trong tổ chức và hoạt động thực tiễn, việc xác định đúng đắn địa vị pháp
lys của từng cơ quan nhà nước khơng có ý nghĩa trong quản lý, phân công
rõ chức năng, phân định thẩm quyền tránh đc tình trạng trùng lặp, mâu thuẫn
về thẩm quyền, chức năng
Tính thống nhất của quyền lực nhà nước


Tính thống nhất về quyền lực đã được để cập trong các hiến pháp
1946. 1959, 1980 và đặc biệt trong Hiến pháp 1992 chỉ rõ nguyên lực đó là
quyền lực nhà nước. Nguyên tắc này khẳng định nhân dân là cội nguồn,

chủ thể của mọi quyền; Quyền lực nhà nước của nhân dân phải được thống
nhất
Quyền lực thống nhất đòi hỏi nhà nước phải tập quyền, tập trung dân
chủ, nhưng ko độc quyền, tập trung quan lieu. Nguyên tắc tập trung quyền
lực dẫn đến việc thừa nhận các cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là quốc
hội – đại diện cao nhất của nhân dân, nắm toàn quyền lập pháp, thực hiện
giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất
nước,nhưng ko có nghĩa là Quốc hội có quyền phân cơng thẩm quyền cho
các cơ quan nhà nước, định cho mình quyền hạn ngồi quy định của hiến
pháp, pháp luật. Quốc hội cũng là cơ quan hoạt động trong khuôn khổ hiến
pháp, pháp luật
Các cơ quan đại biểu nhân dân đc hình thành từ bầu cử theo ngun
tắc dân chủ, phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp bỏ phiếu kín, ln phiên và bãi
miễn, có đầy đủ khả năng thực thi lập pháp, quyết định quốc kế dân sinh và
giám sát cao nhất hoạt động của bộ máy nhà nước
Hoạt động hành pháp đc phân biệt với đời sống dân sự, kinh doanh,
phải lien tục đc giải quyết công việc của công dân và phục vụ cơng cộng,
cần phải phân biệt hành chính quản lý với hành chính tài phán trong quyền
lực của nhà nước. Để xây dựng một hệ thống các cơ quan hành chính nhà
nước mạnh mẽ, vững chắc, thống nhất, có thứ bậc từ trung ương xuống cơ
chế giám sát, kiểm tra và xử lý các vi phạm trong lập quy, áp dụng pháp
luật, tổ chức, chỉ huy và điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước.
Quyền lực thống nhất của nhà nước đc đảm bảo bằng hoạt động tư
pháp đặc biệt là xét xử. Xét xử có mục đích cuối cùng là đảm bảo sự tuân
theo luật của xà hội và nhà nước
Sự phân chia quyền lực nhà nước
Quyền lực thống nhất của nhà nước được phân công cho các cơ quan,
tổ chức nhà nước để thực hiện ba quyền: Lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Việc phân công quyền lực nhằm thực hiện tổ chức quyền lực chứ ko phải
giải quyết vấn đề quyền lực đó thuộc về ai

Quyền lập pháp là thẩm quyền ban hành các quy phạm pháp luật,
được thực hiện bằng các hoạt động quyết định về luật của quốc hội và ủy
quyền cảu quốc hội cho Ủy ban thường vụ Quốc hội ra pháp lênh. Tuy
nhiên, trong q trình lập pháp ko chỉ có Quốc hội mà còn nhiều cơ cấu nhà
nước tham gia, phổi hợp bằng việc thực hiện các thẩm quyền : kiến nghị về
luật, soạn thảo và trình dự án luật, thẩm tra dự án luật,…


Quyền hành pháp là quyền thi hành pháp luật và tổ chức đời sống xã
hội theo pháp luật. Quyền hành pháp đc thưc hiện bởi các thẩm quyền: ban
chính sách quản lý, ra quyết định quy phạm pháp luật bằng hoạt động lập
quy, áp dụng pháp luật bằng việc quyết định hành chính cá biệt, cụ thể, tổ
chức phục vụ đời sống xã hội, để đảm bảo thực hiện lợi ích công cộng
Quyền hành pháp đc thực hiện bởi bộ máy hành chính nhà nước và sự
kết ước bằng hợp đồng hành chính tạo thành hoạt động cơng vụ nhà nước,
trong đó nền hành chính có vai trị quyết định
Quyền tư pháp là quyền tài phán bằng hoạt động xét xử theo pháp luật
tố tụng của cac tịa án. Đó là sự phán xét tính hợp hiến, hợp pháp của các
quyết định pháp luật và sự phán quyết về: hành vi tội phạm, tranh chấp dân
sự, kinh tế, lao động và tranh chấp về hành chính. Quyền tư pháp cịn đc
thực hiện bởi các cơ cấu quyền lực bằng hoạt động trực tiếp lien quan đến
xét xử như: điều tra, giám định, pháp y, luật sư, công chứng phục vụ trực
tiếp các vụ xét xử
Sự phân công các quyền theo đơn vị hành chính nhà nước
Quyền lập pháp: Theo quy định của pháp luật hiện hành thì quyền lập
pháp chỉ thuộc về Quốc hội và chỉ được ủy quyền cho Ủy ban thương vụ
quốc hội. Do vậy, quyền lập pháp ko đc phân xuống cho địa phương
Quyền hành pháp đc triển khai xuống địa phương và được thực hiện
bởi các cơ quan chính quyền địa phương và các cơ cấu, tổ chức ngoại thuộc
( thuộc hệ thống ngành dọc trên trung ương). Chính quyền địa phương bao

gồm hai loại cơ quan: hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân được bầu ra từ
hội đồng nhân dân thực hiện quyền hành pháp theo các hướng:
Một là, thực hiện pháp luật và thực hiện quyết định của các cơ quan
nhà nước cấp trên
Hai là, quyết định của chủ trương, biện pháp bằng việc ra nghị quyết
để giải quyết để giải quyết các vấn đề quan trọng thuộc quyền tự chủ cộng
đồng hành chính
Ba là, giám sát hoạt động thi hành pháp luật và quyêt định của chính
quyền địa phương đối với tất cả các cơ quan tổ chức, công dân trên lãnh thổ
hành chính
Quyền tư pháp xét xử là quyền lực thống nhất, quyền lực nhà nước,
ko phải là quyền của từng cộng đồng địa phương, do vậy quyền này ko được
phân chia cho địa phương
Liên hệ thực tiễn
Câu 4: Hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước ở nước ta.


Tinh thần các Nghị quyết đại hội toàn quốc của Đảng đã chỉ rõ xây dựng nhà
nước ta là nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân cơng phối
hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp
và quyền tư pháp. Mỗi cơ quan nhà nước có chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể. Hệ thống các cơ quan nhà nước có chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể. Hệ thống các cơ quan nhà nước được tổ chức và hoạt động theo
những nguyên tắc chung thống nhất tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực
hiện các nhiệm vụ và chức năng của nhà nước.
Những đặc điểm của cơ quan nhà nước.
Một là, cơ quan nhà nước là một tổ chức có quyền lực nhà nước, có
tính độc lập tương đối trong hệ thống cơ quan nhà nước, có cơ cấu tổ chức,
được giao những quyền hạn nhất định để thực hiện nhiệm vụ và chức năng

nhà nước theo quy định của pháp luật.
Hai là, mỗi cơ quan nhà nước đều có thẩm quyền do pháp luật quy
định. Đó là quyền ban hành những văn bản quy phạm pháp luật có tính bắt
buộc chung, văn bản áp dụng pháp luật phải thực hiện đối với chủ thể có liên
quan. Thẩm quyền của cơ quan nhà nước có những giới hạn về khơng gian,
thời gian, đối tượng chịu sự tác động….
Ba là, mỗi cơ quan nhà nước có hình thức và phương pháp hoạt động
riêng do pháp luật quy định.
Địa vị pháp lý của các cơ quan quyền lực nhà nước:
Địa vị pháp lý của mỗi cơ quan nhà nước là vị trí của cơ quan đó trong bộ
máy nhà nước và được xác lập trên cơ sở, cấp của cơ quan (trung ương, tỉnh,
huyện, xã…); tính chất chính trị của cơ quan (do nhân dân trực tiếp bầu hay
do cơ quan cấp trên thành lập); trách nhiệm của cơ quan (chế dộ báo cáo,
chịu trách nhiệm trước cơ quan, tổ chức); quyền kiểm tra, giám sát; thẩm
quyền của cơ quan; hệ thống văn bản dưới hình thức pháp lý và quyền đình
chỉ, bãi bỏ văn bản, văn bản do nó ban hành bị ai đình chỉ hay bãi bỏ; nguồn
tài chính phục vụ cho cơ quan hoạt động; biểu tượng nhà nước mà cơ quan
được sử dụng….
Hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước của nước ta:
Quốc hội: là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam; quốc hội do nhân dân cả
nước bầu ra theo chế độ bầu cử phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu
kín. Quốc hội có các chức năng cơ bản như sau:
Một là, lập hiến và lập pháp.
Hai là, quyết định những vấn đề hệ trọng nhất của đất nước, quyết
định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức


và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công

dân.
Ba là, thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của nhà nước.
Ủy ban thường vụ quốc hội: là cơ quan thường trực của quốc hội, do quốc
hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội.
Các quyền của ủy ban thường vụ quốc hội:
Một là, quyền ban hành pháp lệnh
Hai là, giám sát hoạt động của cơ quan chính phủ, các cơ quant ư
pháp, giám sát và hướng dẫn hoạt động của hội đồng nhân dân.
Ba là, quyền đình chỉ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng, các cơ
quan tư pháp nếu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
Bốn là, quyền hủy bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng, các cơ
quan tư pháp nếu trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc
hội.
Năm là, quyền quyết định một số vấn đề trong thời gian Quốc hội
không họp…
Chủ tịch nước: là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước CHXHCN VN
về đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội, nhiệm kỳ
của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Chính phủ: là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước CHXHCN VN. Chính phủ phải chấp hành Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban
thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; đồng thời Chính
phủ có tồn quyền giải quyết các vấn đề quản lý nhà nước trên phạm vi toàn
quốc trừ những vấn đề thuộc quyền giải quyết của Quốc hội, ủy ban thường
vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Chính phủ chỉ đạo tập trung thống nhất các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cấp chính quyền địa
phương.

Thủ tướng được Quốc hội bầu theo đề nghị của Chủ tịch nước. Các phó thủ
tướng, các Bộ trưởng bà thủ tướng cơ quan ngang Bộ là thành viên Chính
phủ được Quốc hội phê duyệt theo đề nghị của Thủ tướng. Chính phủ chịu
trách nhiệm trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, thơng qua các phiên họp định kỳ và
đột xuất. Thủ tướng, các phó thủ tướng điều hành cơng việc chung của
Chính phủ; các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ chịu trách nhiệm
mọi mặt về ngành, lĩnh vực phụ trách.


Bộ, cơ quan ngang Bộ: là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản
lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước,
quản lý các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực….
Bộ trưởng là thành viên Chính phủ, là người đứng đầu Bộ, cơ quan ngang
Bộ có quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong ngành, lĩnh
vực mình phụ trách, đồng thời điều hành hành chính nhà nước đối với
ngành, lĩnh vực được giao theo đúng quy định của pháp luật.
Tòa án: là cơ quan xét xử của nhà nước ta. Hệ thống Tòa án gồm: Tòa án
nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân tại địa phương, các tòa án quân sự, các
tòa án khác theo luật định. Tòa án là cơ quan quyền lực nhà nước, chỉ tuân
thủ luật pháp, không phụ thuộc vào cơ quan hoặc cấp hành chính nào.
Nguyên tắc hoạt động của các Tòa án là khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo
đa số.
Viện kiểm sát nhân dân: là cơ quan nhà nước làm việc theo chế độ thủ
trưởng, có đặc điểm, đặc thù riêng, được tổ chức theo hệ thống từ Trung
ương đến cấp huyện.
Các cơ quan Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân thủ theo pháp luật của các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan hành chính địa
phương, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang, thực hành

quyền công tố, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất.
Hội đồng nhân dân: là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Ủy ban nhân dân: do Hội đồng nhân dân đồng cấp bầu ra. Là cơ quan chấp
hành của Hội đồng nhân nhân, Ủy ban nhân dân có trách nhiệm thực thi các
Nghị quyết của HĐND, báo cáo kết quả hoạt động và chịu sự giám sát của
HĐND; là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, Ủy ban nhân dân có
trách nhiệm thực thi các văn bản pháp luật, các văn bản của cơ quan Nhà
nước cấp trên, thực hiện chế độ báo cáo Ủy ban nhân dân cấp trên ( tỉnh báo
cáo Chính phủ), điều hành các quá trình kinh tế - xã hội, hành chính – chính
trị ở địa phương theo sự chỉ đạo chung của Chính phủ.
Câu 5: Kiểm sốt đối với hành chính nhà nước
Mỗi loại cơ quan nhà nước được thành lập để thực hiện những chức năng
nhất định. Trong bộ máy hành chính, hoạt động của mỗi cơ quan nhà nước
khơng biệt lập, có liên hệ hoạt động với cơ quan nhà nước khác. Các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền còn thực hiện giám sát, kiểm tra, thanh tra,
kiểm sát, tài phán đối với các cơ quan khác theo quy định của pháp luật.


Kiểm sốt đối với hành chính nhà nước để đánh giá tổ chức và hoạt động
của hệ thống hành chính nhà nước, đánh giá tính tích cực và tiêu cực của nó
trong việc thực hiện hoạt động chấp hành các quyết định pháp luật của các
cơ quân quyền lực nhà nước và điều hành các quá trình phát triển xã hội trên
cơ sở pháp luật và để thi hành pháp luật.
Phải tiến hành kiểm sốt vì:
- Kiểm sốt là chức năng bắt buộc của lãnh đạo trong công tác quản lý.
- Hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước sử
dụng nhiều quyền lực nhà nước, nên có nhiều khả năng kéo theo sự

lạm dụng quyền lực nhà nước và phát sinh những tiêu cực.
- Hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện hoạt động quản
lý nhà nước do nhiều con người khác nhau đảm nhận, phải kiểm sốt
để đảm bảo tính thống nhất quyền lực từ Trung ương đến các địa
phương, nếu khơng sẽ dẫn đến tình trạng bng lỏng, phát sinh vấn đề
trong hoạt động quản lý.
- Hoạt động quản lý nhà nước có tính tồn diện, diễn ra ở mọi nơi, mọi
lúc, mọi địa phương, phải thực hiện kiểm sốt để đảm bảo sự cơng
bằng, hạn chế tiêu cực.
- Quản lý hành chính nhà nước cịn là hoạt động lệ thuộc vào chính trị,
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, có sự tham gia của các tổ chức xã hội,
cơng dân. Vì vậy ngồi hoạt động kiểm tra của Đảng, giám sát của
cơng dân có mục đích tăng cường tính hợp pháp, hợp lệ, hợp lý và
hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước.
- Hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước
gắn liền với nguồn tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, do đó phải
có hoạt động kiểm sốt trên lĩnh vực này để tránh những sai sót, tiêu
cực có thể xảy ra.
Tóm lại, kiểm sốt đối với hoạt động hành chính nhà nước là hoạt động
đặc biệt thuộc chức năng của nhà nước và xã hội nhằm đảm bảo tính hợp


pháp, hợp lý và hiệu quả trong quản lý nhà nước, thiết lập trật tự trong
quản lý, bảo vệ các quyền tự do, lợi ích hợp pháp của cơng dân, của nhà
nước và xã hội.
Các phương pháp kiểm soát đối với nền hành chính nhà nước.
Có các phương thức kiểm soát là: giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát.
Giám sát: là hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, tịa án, các
tổ chức xã hội, cơng dân nhằm đảm bảo sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp
luật trong quản lý xã hội. Giám sát là sự tác động quyền lực nhằm chấn

chỉnh những lệch lạc, trái pháp luật, sai trái mục tiêu của hệ thống đối với
hệ thống khác, nằm ngoài hệ trực thuộc theo ngành dọc. Giám sát là hoạt
động đánh giá nhưng không quyết định, chỉ xem xét, tổng hợp kiến nghị
những vấn đề đã phát hiện trong quá trình giám sát.
Kiểm tra: là hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên với
cơ quan nhà nước cấp dưới nhằm xem xét, đánh giá mọi mặt hoạt động
của cấp dưới khi cần thiết hoặc kiểm tra cụ thể việc thực hiện một quyết
định hành chính nào đó. Hoạt động kiểm tra thực hiện trong quan hệ trực
thuộc.
Thanh tra: là hoạt động của các tổ chức thuộc Tổng thanh tra nhà nước và
thanh tra nhà nước chuyên ngành. Cơ quan thanh tra và đối tượng bị
thanh tra khơng có quan hệ trực thuộc, nhưng các cơ quan thanh tra do
thủ trưởng cơ quan hành chính thành lập, hoạt động với tư cách là cơ
quan chức năng giúp thủ trưởng cùng cấp.
Kiểm toán: là hoạt động kiểm sốt tài chính mang tính chất chun mơn
cao của hệ thống các tổ chức chuyên hoạt động trên lĩnh vực này. Có hai
hình thức kiểm tốn là kiểm tốn nội bộ và kiểm tốn độc lập.
Ngồi ra, để tăng cường hiệu lực, hiệu quả, các cơ quan hành chính nhà
nước phải tự tổ chức kiểm sốt chính hoạt động của họ; tổ chức kiểm tra
nội bộ, kiểm soát hoạt động sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước.
Đây là một trong những địi hỏi có tính chất quyết định đối với cơng cuộc
phịng chống tham nhũng, lãng phí tài sản, ngân sách nhà nước hiện nay.
Câu 6: Tổ chức hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung
ương và địa phương. Những vấn đề chú ý trong thiết kế xây dựng hệ
thống hành chính nhà nước.
Tư tưởng chỉ đạo cảu Đảng về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính,
nâng cao năng lực quản lý của nhà nước là: “Đẩy nhanh công cuộc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các mặt; hệ thống thể
chế, chức năng, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy; cán bộ và công chức; phương
thức hoạt động. Định rõ những việc nhà nước phải làm và bảo đảm đủ

các điều kiện để làm tốt, khắc phục tình trạng bng lỏng hoặc làm thay,


chồng chéo về chức năng nhiệm vụ giữa các cơ quan của Đảng và cơ
quan nhà nước; hiện đại hóa nền hành chính nhà nước” . Quan điểm đó
đã được từng bước thể hiện trong việc bố trí, sắp xếp lại tổ chức hành
chính nhà nước.
Hành chính theo nghĩa rộng là một q trình có tổ chức gắn liền với việc
thực hiện các mục tiêu, kế hoạch và hiệu lực bên trong của tổ chức; là
năng lực để phối hợp nhiều nguồn lực khác nhau của xã hội trong một tổ
chức nhằm làm cho mọi sự nỗ lực này hoạt động như một đơn vị thống
nhất.
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động quản lý nhà nước của các cơ
quan hành chính nhà nước – các cơ quan thực thi quyền hành pháp –
hành pháp hành động.
Những đặc trưng của tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.
- Là hệ thống tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước; quyền hành pháp;
tính chấp hành – điều hành cao; tính hệ thống thức bậc chặt chẽ; thong
điệp giấy tờ và nhiều thủ tục hành chính;
- Cung cấp dịch vụ cơng cho xã hội;
- Hoạt động mang tính cưỡng chế, độc quyền;
- Có ảnh hưởng xã hội rộng lớn;
- Hoạt động của công chức bị điều tiết chặt chẽ bởi pháp luật;
- Sự đa dạng về chuyên môn và phạm vi hoạt động;
- Tính chun mơn hóa cao;
- Hoạt động bằng ngân sách nhà nước.
Những mục đích của q trình phân tích tổ chức hành chính nhà nước
- Giải thích quá khứ của tổ chức
- Tìm hiểu thực trạng hiện tại của tổ chức và bản sắc văn hóa tổ chức
- Xác định các điều kiện, nhân tố tác động đến tổ chức

- Tạo lập cơ sở khoa học và thực tiễn để dự báo tương lai của tổ chức
- Đề xuất những giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của tổ
chức.
Tổ chức hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước


- Các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương: bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và một số cơ quan khác do Thủ tướng
Chính phủ thành lập nhằm giúp Thủ tướng trên những lĩnh vực cụ thể.
- Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương bao gồm UBND các
cấp và cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND
Những vấn đề cần chú ý trong thiết kế xây dựng hệ thống hành chính nhà
nước
- Nguyên tắc để xác định cơ cấu tổ chức của bộ máy hành chính nhà
nước
+ Trong mối quan hệ với hệ thống cac cơ quan thực thi quyền lập
pháp và tư pháp
+ Đảm bảo hoạt động thống nhất từ TW đến cơ sở trong quá trình
triển khai thực hiện pháp luật.
+ Tạo nên hệ thống thứ bậc hành chính, địi hỏi phải bảo đảm thực
hiện các văn bản quản lý của cấp trên trong điều kiện cụ thể của địa
phương.
+ Đảm bảo tính khoa học trong thiết kế cơ cấu tổ chức.
- Nguyên tắc thiết kế cơ cấu tổ chức của từng cơ quan hành chính nhà
nước.
+ Đảm bảo thống nhất mục tiêu
+ Phạm vi kiểm soát phù hợp
+ Thống nhất về cách thức lãnh đạo, chỉ huy, ra lệnh
+ Hòa hợp lợi ích vật chất và tinh thần giữa các bộ phận
+ Phối hợp giữa các bộ phận

- Một trong những nguyên tắc cơ bản là: xác định rõ ràng, cụ thể nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng bộ phận, từng con người trong cơ


quan và mối quan hệ lãnh đạo quản lý, báo cáo giữa các bộ phận con
người trong tổ chức.
- Cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính nhà nước còn phụ thuộc rất
lớn vào hai yếu tố:
+ Đầu vào mà các cơ quan hành chính nhà nước nhận được.
+ Những sản phẩm đầu ra mà các cơ quan đó phải cung cấp.
- Cơ cấu tổ chức phải được xem xét thường xuyên cho phù hợp với sự
thay đổi của mơi trường kinh tế - xã hội mà trong đó hệ thống các cơ
quan hành chính nhà nước hoạt động quản lý.
Một số vấn đề về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
- Chính phủ và người đứng đầu chính phủ: chức nằng, nhiệm vụ, quyền
hạn, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân.
- Số lượng bộ và cơ quan ngang bộ: chức năng của bộ, nhiệm vụ, quyền
hạn của người đứng đầu Bộ, cơ quan ngang Bộ, mối quan hệ lãnh đạo
trong Bộ; mối quan hệ giữa các Bộ.
- Số lượng các cơ quan thuộc chính phủ, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn
- Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; vai trị tự
quản của địa phương trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
- Mối quan hệ ngành, lãnh thổ về bộ máy hành chính nhà nước.
Câu 7: Năng lực chính sách của hệ thống hành chính nhà nước.
Năng lực là thuật ngữ để chỉ tất cả khả năng của cá nhân, tổ chức thực
hiện cơng việc, nhiệm vụ một cách có kết quả, hiệu quả và vững chắc.
Năng lực của cá nhân, tổ chức không cố định mà luôn thay đổi cùng
với sự phát triển của cá nhân, tổ chức.
Trong tổ chức hành chính nhà nước, năng lực được xác định ở 3 cấp

đô:
- Năng lực của các hệ thống
- Năng lực của từng cơ quan


- Năng lực của từng cá nhân
Năng lực ban hành chính sách của hệ thống hành chính nhà nước được
hiểu như là toàn bộ các khả năng mà các cơ quan thuộc chính phủ, cá nhân
có được gắn liền với q trình chính sách. Đó là các khả năng thực hiện một
cách tốt nhất các vấn đề sau:
- Xác định vấn đề chính sách.
- Xây dựng các phương án chính sách và lựa chọn chính sách
- Triển khai thực hiện chính sách từ Trung ương đến cơ sở
- Đánh giá chính sách gồm: đánh giá lựa chọn, triển khai và tác động
của chính sách đế khi kết thúc chính sách.
Sự thể hiện cụ thể của năng lực chính sách của công chức cao cấp trong bộ
máy nhà nước.
Năng lực triển khai đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
nhà nước.
- Chính sách do Chính phủ ban hành nhằm triển khai các chính sách vĩ
mơ của Đảng và Nhà nước.
- Năng lực triển khai đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước chính là năng lực biến các đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và nhà nước thành các chính sách, quyết định quản lý
cụ thể phù hợp với đặc điểm của ngành, địa phương trong từng giai
đoạn, khơng trái với chính sách của chính quyền cấp trên và hệ thống
pháp luật nhà nước.
Năng lực tiếp thu sáng kiến chính sách và huy động sự tham gia triển
khai, đánh giá chính sách từ nhân dân.
- Sự tham gia của cơng dân đến sáng kiến, đến q trình chính sách

thong qua nhiều hình thức khác nhau và đặc biệt quan trọng trong giai
đoạn đề ra các sáng kiến chính sách, gồm các hình thức: sự tham gia
trực tiếp, chính thức của cơng dân thong qua các đại biểu quốc hội,
đại biểu hội đồng nhân dân các cấp; hoạt động của các tổ chức chính
trị, đồn thể, xã hội và sự phản ánh ý nguyện của họ; thong tin đại


chúng để bày tỏ tư duy, suy nghĩ, quan điểm về các vấn đề chính sách;
những diễn đàn, hội thảo, hội nghị; tổ chức lấy ý kiến công dân thong
qua trưng cầu dân ý; điều tra dư luận xã hội; hịm thư góp ý, đường
day nóng, qua mạng thong tin Internet…
- Nhân dân tham gia triển khai thực hiện chính sách. Tuyên truyền,
động viên, thuyết phục để công dân hiểu rõ chính sách, có như vậy
mới tham gia, ủng hộ các biện pháp thực thi chính sách.
- Nhân dân là người tham gia đánh giá chính sách vì: nhân dân là người
chịu tác động lớn của chính sách; là người quyết định sự thành công
hay thất bị của nhiều chương trình dự án của nhà nước; phản ánh
khách quan những lợi ích chính sách mang lại.
Khả năng phân tích chính sách: phân tích chính sách là một q trình
được xây dựng theo nhiều bước, có thể tiến hành ở tất cả các giai đoạn của
q trình chính sách. Nhưng ở giai đoạn hoạch định chính sách có vai trị hết
sức quan trọng, cụ thể ở một số bước như sau:
- Xác định vấn đề chính sách.
- Thu thập số liệu liên quan đến vấn đề chính sách
- Xây dựng hay thiết kế khả năng đánh giá, lựa chọn phương án tối ưu
- Dự kiến hay dự báo kết quả của các phương án chính sách
- Phân tích để xác định lại tính hợp lý của phương án lựa chọn
- Khuyến nghị quyết định của chính sách
Khả năng hoạch định chính sách: là sử dụng kiến thức để giải quyết vấn
đề chính sách. Hoạch định chính sách có lien quan đến nhiều vấn đề, trong

đó sử dụng những thơng tin, tiếp nhận và xử lý chúng là vấn đề hết sức quan
trọng trong hoạch định chính sách.
Khả năng tổ chức triển khai thực hiện chính sách.
- Triển khai chính sách nhằm biến ý tưởng, mực tiêu chính sách thành
kết quả cụ thể; giải quyết các vấn đề đặt ra của chính sách; huy động
nguồn lực để đạt mục tiêu ở mức tối ưu trên cơ sở chi phí, hiệu quả,;
biến ý tưởng chính sách thành sản phẩm; q trình ra quyết định; triển


khai các chương trình, dự án liên quan đến mục tiêu chính sách trong
khn khổ nguồn lực xác định
- Một số cách tiếp cận trong tổ chức triển khai thực hiện chính sách:
tăng khả năng lựa chọn các cách thức triển khai hay tìm được nhiều
cách giải quyết; tăng cường vai trị cơng dân trong các hoạt động triển
khai thực hiện chính sách; tăng cường tính kỷ luật, kỷ cương, long
trung thành, liêm khiết của đội ngũ công chức trong nên cơng vụ.
Khả năng đánh giá chính sách. Đánh giá chính sách nhằm xác định đích
thực giá trị của chính sách để làm tốt hơn chính sách trong tương lai, bao
gồm đánh giá trước khi quyết định, trong triển khai và ngay cả khi kết thúc
chính sách.
- Mục đích đánh giá chính sách: hồn thiện chính sách; tiếp tục mở
rộng hay thể chế hóa chính sách; kiểm tra tính xác thực của chính
sách; lựa chọn các khả năng; quyết định cung cấp tài chính; xác định
trách nhiệm trên các lĩnh vực tài chính, pháp lý; đánh giá được kết quả
của chính sách.
- Các mơ hình đánh giá chính sách: mơ hình dựa vào mục tiêu chính
sách và đánh giá việc đạt mục tiêu; đánh giá các tác động phụ kèm
theo đạt được mục tiêu chính sách; đánh giá tự do theo tình huống cụ
thể của sự tác động của chính sách đối với đời sống kinh tế - xã hội;
mô hình đánh giá tồn diện; phương pháp đánh giá tập trung vào

khách hàng, vào những người có liên quan đến chính sách; phương
pháp đánh giá dựa vào hiệu quả chính sách.
- Những hoạt động đánh giá chính sách: đánh giá để lựa chọn chính
sách; đánh giá triển khai thực hiện chính sách; đánh giá kết thúc và
hậu chính sách; đánh giá sự thất bại của một chính sách.
Câu 8: Khái niệm, đặc điểm của chính sách kinh tế và các chính sách
kinh tế ở nước ta hiện nay.


Nghị quyết đại hội toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ đường lối phát triển
kinh tế của Đảng giai đoạn 2001-2010: “ Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩ; phát huy cao độ
nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững…”. Trong quá trình
phát triển kinh tế theo từng thời kỳ, quan điểm đó đã được vận dụng vào
việc đề ra các chính sách kinh tế phù hợp.
Khái niệm: Kinh tế, theo nghĩa chung nhất là các hoạt động mưu cầu
sự sống, đáp ứng nhu cầu vật chất để tồn tại và phát triển con người.
Hoạt động kinh tế diễn ra trong tất cả các khâu của sản xuất xã hội từ
sản xuất, phân phối, trao đổi đến tiêu dùng và diễn ra trên thị trường. Theo
nghĩa này thì khơng chỉ các chủ thể sản xuất mà cả người tiêu dùng cũng là
chủ thể của kinh tế.
Phân công lao động xã hội càng phát triển thì ngày càng đơng đảo tầng lớp
dân cư tham gia vào các hoạt động phi kinh tế; trong điều kiện đó thì chủ thể
hoạt động kinh tế chỉ bao gồm các chủ thế sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
nhằm kiếm lời.
Hoạt động kinh tế diễn ra trong những mối quan hệ qua lại chằng chịt
và cũng từ đó phát sinh hang loạt vấn đề kinh tế.

Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế:
Định nghĩa: chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là những nhiệm vụ
tổng quát mà nhà nước phải thực hiện để phát huy vai trị và hiệu lực của
mình.
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế do bản chất của nhà nước, do yêu
cầu của nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội và tình hình kinh tế - xã hội từng
giai đoạn lịch sử quy định.
Những chức năng cơ bản của quản lý nhà nước về kinh tế hiện nay:
+ Chức năng tạo lập môi trường và điều kiện hoạt động kinh doanh
+ Chức năng định hướng và hướng dẫn phát triển kinh tế
+ Chức năng tổ chức
+ Chức năng điều tiết
+ Chức năng kiểm tra
Chính sách kinh tế:
Chính sách kinh tế là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc và biện
pháp xử sự của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đối với các quan hệ
kinh tế và các vấn đề kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu tăng trưởng, nâng


cao hiệu quả kinh tế quốc dân, tạo tiền đề vật chất tài chính cho sự phát triển
và tiến bộ xã hội.
+ Chủ thể: Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân vì dân chịu sự lãnh đạo
của Đảng do vậy mọi chính sách kinh tế do nhà nước ban hành thể hiện bản
chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, hướng tới quyền con người, vì con
người. Chính sách kinh tế thể hiện từng giai đoạnh phát triển kinh tế- xã hội
của Đảng.
+ Đối tượng tác động của chính sách kinh tế. Hiện nay theo nghị quyết
Đảng, chúng ta có các thành phần kinh tế như sau: Kinh tế nhà nước; kinh tế
tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhâ; kinh tế tư bản nhà
nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Mỗi thành phần kinh tế trên có

nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh và đối với từng loại thành
phần kinh tế như vậy chúng ta có nội dung quản lý cụ thể, xác định trách
nhiệm nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện gì cho nó phát triển.
+ Mục tiêu chung của chính sách kinh tế là tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời
sống cho nhân dân, ổn định xã hội, đảm bảo phát triển bền vững.
Đặc trưng chính sách kinh tế:
+ Chính sách kinh tế là các chính sách điều tiết và giải quyết các quan hệ
kinh tế, các vấn đề phát sinh trong hoạt động kinh tế
+ Hiệu quả chủ yếu của chính sách kinh tế là hiệu quả tăng trưởng, nâng cao
hiệu quả kinh tế quốc dân và tăng lợi nhuận của sản xuất, kinh doanh.
+ Chính sách kinh tế là cơng cụ điều tiết vĩ mô chủ yếu của nhà nước đối với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
+ Khách thể của chính sách kinh tế là các chủ thể hoạt động kinh tế
+ Đầu tư để thực hiện chính sách kinh tế chủ yếu dựa và nguồn vốn tự có và
vốn vay của các chủ thể hoạt động kinh tế, Ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ
một phần trong điều kiện cần thiết.
Các chính sách điều tiết vĩ mơ của nhà nước. Có 5 nhóm chính sách
cơ bản như sau:
Một là, nhóm chính sách thương mại tác động đến các quan hệ kinh tế đối
ngoại, đến cán cân thanht oán quốc tế, đến hoạt động thương mại nội địa,
góp phần tăng trưởng và tạo việc làm. Các chính sách trong nhóm này bao
gồm các nội dung về xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái, quy định tiêu chuẩn kỹ
thuật nhập khẩu hang hóa, các quy định về hoạt động thương mại trong
nước…
Hai là, chính sách về việc làm và thu nhập tác động chủ yếu đến lĩnh vực
đời sống, thu nhập, việc làm của cư dân. Các chính sách của nhóm này gồm:
luật thuế thu nhập, lương tối thiểu, chính sách khuyến khích tạo việc làm,




×