LỜI MỞ ĐẦU
Bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước có nghĩa là bằng
những cơ chế và hoạt động pháp lý làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu
quả trong thực tế và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước phải thực sự
vì dân, khơi dậy trí tuệ và tinh thần, ý chí tự lực tự cường của nhân dân, đem
lại những tiện ích và thủ tục thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơng dân theo
một trật tự nhất định. Vì thế cần phải bảo đảm pháp chế thông qua các biện
pháp pháp lý trong quản lý Nhà nước. Đó là các biện pháp: Hoạt động giám
sát của cơ quan quyền lực nhà nước; Hoạt động kiểm tra của các cơ quan
hành chính nhà nước; Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân; Hoạt động của
thanh tra Nhà nước và thanh tra nhân dân; Hoạt động kiểm tra của các tổ chức
xã hội (kiểm tra xã hội) và hoạt động khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại,
tố cáo.
Trong những biện pháp pháp lý trên, hoạt động giám sát của cơ quan
quyền lực nhà nước có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng trong bộ máy Nhà nước.
Hoạt động của các cơ quan này tác động tích cực và chi phối rất lớn hoạt động
của các cơ quan nhà nước khác, trong đó có cơ quan hành chính nhà nước. Vậy
“vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước đối với việc bảo
đảm pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước như thế nào? chúng ta sẽ
cùng tìm hiểu và làm rõ qua nội dung sau.
1
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM:
1.1. Pháp chế:
Pháp chế là một thuật ngữ được nhắc đến khá thường xuyên ở Việt
Nam, trong các văn kiện của Đảng, của nhà nước, trên các phương tiện thông
tin đại chúng, trong các tác phẩm luật học...hiện nay có rất nhiều quan niệm
khác nhau về vấn đề này. Mặc dù được diễn đạt khác nhau song giữa các định
nghĩa đó có một điểm cốt lõi tương tự nhau, đó là các tác giả của chúng đều
đề cập đến yêu cầu hay đòi hỏi pháp luật phải được tôn trọng và thực hiện bởi
các chủ thể trong xã hội, từ nhà nước đến các chủ thể khác. Khái niệm pháp
chế có thể diễn đạt một cách đơn giản như sau: “Pháp chế là sự đòi hỏi mọi tổ
chức và cá nhân trong xã hội đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật hiện
hành một cách nghiêm chỉnh và triệt để nhằm tạo ra trong xã hội một trật tự,
kỷ cương cần thiết”.
Pháp chế là một phạm trù rất rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung
pháp luật mà còn chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội và con người.
Nội dung của pháp chế rất phong phú, trong đó nội dung cơ bản nhất là sự
triệt để tôn trọng pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cơng dân.
Chính từ nội dung này mà pháp chế là một trong những nguyên tắc cơ bản
nhất của quản lí hành chính nhà nước. Nếu thiếu nguyên tắc này hoạt động
quản lý hành chính Nhà nước sẽ khơng có cơ sở pháp lý bền vững, sẽ rơi vào
tình trạng khủng hoảng, khơng thống nhất hoặc thiếu đồng bộ.
Pháp chế hay chế độ pháp luật là một chế độ và trật tự pháp luật trong
đó tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải
tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
Pháp chế và pháp luật có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng không đồng nhất.
Pháp chế thể hiện sự đòi hỏi và những yêu cầu đối với các chủ thể pháp luật,
2
phải triệt để tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật trong đời sống xã
hội.
1.2. Bảo đảm tính pháp chế:
Bảo đảm tính pháp chế là tổng thể các biện pháp, các cách thức có tính
chất pháp lý do các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và cá nhân thực
hiện nhằm đảm bảo sự tôn trọng và triệt để sự tuân theo pháp luật trong quản
lý hành chính.
Bảo đảm pháp chế được hiểu như là những khả năng thực hiện trên
thực tế đối với pháp luật hiện hành nhằm xây dựng và củng cố chính quyền
của dân, do dân, vì dân, bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của công dân trên tất cả
các mặt của đời sống xã hội. Việc bảo đảm pháp chế có ý nghĩa to lớn trong
quản lý hành chính nhà nước nói riêng.
- Pháp chế được bảo đảm thông qua đường lối chính trị của Đảng cầm
quyền.
- Pháp chế được bảo đảm thông qua các biện pháp xã hội và đạo đức,
bởi vì nguồn gốc của pháp chế là pháp luật.
- Pháp chế dược bảo đảm thông qua chế độ kinh tế của xã hội.
- Pháp chế được bảo đảm thông qua các yếu tố pháp lý như thể chế
pháp lý, chế định pháp lý, cơng cụ pháp lý, hình thức và các biện pháp pháp
lý.
Để bảo đảm tính pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước phải:
- Xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ
để Nhà nước pháp quyền Việt Nam hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình và
nhân dân lao động được bảo vệ và có đủ điều kiện thực hiện các quyền tự do
chân chính của họ.
- Xây dựng một bộ máy tổ chức điều hành tinh gọn, đủ năng lực.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ và năng lực đáp ứng
u cầu của việc thực hiện nhiệm vụ và công vụ được giao.
3
- Có nguồn kinh phí đáp ứng đầy đủ nhu cầu của công cuộc đổi mới để
thực hiện pháp luật, để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của cơng dân, coi đó là
điều kiện tiên quyết để đưa pháp luật vào cuộc sống và người lao động có đủ
điều kiện để tự bảo vệ mình.
- Xử lý nghiêm minh mọi trường hợp vi phạm pháp luật bất kể họ là ai,
ở cấp nào để khẳng định pháp luật là công bằng, bất kỳ cơ quan, tổ chức và cá
nhân nào cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật.
- Tiến hành nhiều hình thức, phương pháp và biện pháp khác nhau tạo
nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện pháp luật trong phạm vi cả nước hay ở
từng địa phương.
Căn cứ vào nội dung và tính chất của các biện pháp tổ chức - pháp lý,
chúng ta có thể phân biệt các biện pháp bảo đảm pháp chế cơ bản gồm hoạt
động giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước, hoạt động kiểm tra, giám sát
của tổ chức xã hội và công dân. Những biện pháp này tuy xét về tính chất có
khác nhau nhưng nội dung chúng đều thể hiện quyền lực của nhân dân lao
động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
1.3. Giám sát:
Giám sát tức là theo dõi, xem xét kiểm tra và nhân định về một việc
làm nào đó đúng hay sai với những điều đã quy định.
Giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định. Giám sát luôn gắn với đối
tượng cụ thể (giám sát ai và giám sát cái gì).
Giám sát được tiến hành trên cơ sở những quy định cụ thể.
Giám sát là hoạt động có mục của một chủ thể nhất định.
Ở nước Việt Nam, khái niệm giám sát được dùng chỉ quyền của nhân
dân lao động thông qua hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước.
4
Vì vậy, Giám sát là quá trình theo dõi cập nhật những thông tin về hướng
của sự thay đối, tốc độ của sự thay đổi và mức độ của sự thay đổi trong khi tiến
hành dự án.
II. VAI TRÒ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA CƠ QUAN QUYỀN
LỰC NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ TRONG
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
Theo Điều 2 Luật hoạt động giám sát của quốc hội đã quy định: “Giám
sát là việc Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, hội đồng dân tộc, Ủy ban
của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc
thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
Ủy ban thường vụ Quốc hội”. Các cơ quan quyền lực Nhà nước là những cơ
quan có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Vị trí pháp lý cũng
như chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của nó do Hiến pháp quy định.
Đây là chức năng hiến định của các cơ quan quyền lực Nhà nước. Chức
năng này xuất phát từ quyền giám sát tối cao của cơ quan lập pháp nước Việt
Nam đối với mọi cơ quan, tổ chức khác, trong đó có các cơ quan quản lý nhà
nước, ở vai trị, vị trí của các cơ quan quyền lực Nhà nước nói chung trong
quan hệ với các cơ quan quản lý nhà nước. Phạm vi, nội dung, quyền hạn,
hình thức, và phương pháp giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
của các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp được quy định trong
Hiến pháp và nhiều văn bản khác.
2.1. Hoạt động giám sát của Quốc hội:
Hoạt động giám sát được coi là một trong hai chức năng chủ yếu nhất
của Quốc hội được quy định tại Khoản 4 Điều 83, khoản 2 Điều 84 Hiến pháp
1992. Hoạt động giám sát của Quốc hội còn được quy định tại Luật giám sát
của Quốc hội ban hành năm 2003. Tại khoản 2 Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội
5
năm 2001: “Quốc hội ...thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước”. Những quy định này (giáo trình)
Hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện thơng qua nhiều hình
thức khác nhau.
Trên kỳ họp Quốc hội nghe báo cáo của Chính phủ, các cơ quan của
Chính phủ, thảo luận cac báo cáo đó và đặc biệt là thơng qua quyền chất vấn
của đại biểu Quốc hội đối với Chính phủ và các thành viên chính phủ.
Ủy ban thường vụ Quốc hội là tổ chức quan trọng nhất khơng những có
nhiệm vụ giúp Quốc hội, mà còn trực tiếp thực hiện quyền giám sát đối với
quản lý Nhà nước và hiệu lực của quyền này được bảo đảm bằng nhiều quyền
hạn cụ thể, trong đó tiêu biểu là quyền đình chỉ hoặc bãi bỏ quyết định của
Chính phủ.
Các ủy ban, Hội đồng dân tộc của Quốc hội giúp Quốc hội thực hiện
quyền giám sát đối với quản lý nhà nước và trên các kỳ họp báo cáo trước
Quốc hội về kết quả hoạt động giám sát của mình thể hiện bằng các báo cáo
thẩm tra, thuyết trình...
Các đồn đại biểu và từng đại biểu khơng những có nhiệm vụ giúp
Quốc hội giám sát hoạt động của Chính phủ, mà cịn có quyền trực tiếp giám
sát hoạt động của các cơ quan và người có thẩm quyền trong quản lý nhà
nước, có quyền yêu cầu các cơ quan và người có thẩm quyền trong quản lý
nhà nước trực tiếp và áp dụng các biện pháp để khắc phục việc làm vi phạm
pháp luật, vi phạm chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.
Hoạt động giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan nhà nước được
thực hiện thơng qua nhiều hình thức khác nhau: Nghe, xem xét và đánh giá
công khai các báo cáo của chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ và các bộ về hoạt động của mình, thơng qua việc chất vấn của các đồn
đại biểu Quốc hội đối với Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng và các thành
viên khác của Chính phủ; nghe Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, viện
6
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo, đồng thời cũng chất vấn đối
với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao về các vấn đề liên quan.
Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội thực hiện quyền lực Nhà nước
một cách thường xuyên và trực tiếp chỉ đạo cũng như kiểm tra mọi mặt công
tác của các cơ quan hành chính. Thơng qua hoạt động giám sát, các cơ quan
Nhà nước có thể phát hiện những yếu kém, những khuyết điểm trong công tác
tổ chức và hoạt động cũng như những khó khăn vướng mắc trong q trình
thực hiện pháp luật và thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định đối với
các cơ quan hành chính Nhà nước. Trên cơ sở đó cơ quan quyền lực nhà nước
kịp thời đề ra những thời gian cụ thể và biện pháp thích hợp khắc phục những
khó khăn và tồn tại ấy. Đồng thời cũng thông qua hoạt động giám sát, Quốc
hội có dịp kiểm nghiệm tính hợp lý và hợp pháp của các văn bản pháp luật do
chính mình ban hành. Nếu phát hiện thấy khiếm khuyết về hình thức hay nội
dung thì các cơ quan quyền lực nhà nước nói trên phải đưa ra những biện
pháp, giải pháp khắc phục. Thơng qua đó, những cơ quan này đưa ra những
yêu cầu và những biện pháp cải tiến chế độ, quy trình lập pháp, lập quy nâng
cao hiệu lực quản lý nhà nước. Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội phát
hiện ra những vi phạm pháp luật xâm phạm tới trật tự và lợi ích nhà nước, xã
hội và công dân của cán bộ nhà nước, từ đó mà kịp thời xử lý hoặc yêu cầu
các cấp, các nghành xử lý nghiêm minh những vi phạm đó để củng cố pháp
chế.
Các hình thức, phương pháp giám sát được triển khai đã đem lại kết
quả tốt, góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của công cuộc đổi
mới, tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Như vậy, quyền giám sát của Quốc hội đặc biệt lớn, không bị giới hạn
bởi đối tượng, phạm vi giám sát. về hình thức, Quốc hôi thực hiện chức năng
7
của Tòa án bảo hiến được thành lập ở nhiều nước. Để củng cố pháp chế, kỷ
luật trong quản lý hành chính Nhà nước, cần tăng cường hoạt động giám sát
của Quốc hội đối với hệ thống hành chính.
2.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
Xuất phát từ những quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 thì hội đồng nhân dân có ba chức
năng chủ yếu. Trong đó, chức năng thứ ba là thực hiện quyền giám sát đối với
hoạt động của thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, tòa án nhân
dân, viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết
của hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của nhân
dân và công dân địa phương.
Điều 119 Hiến pháp 1992 quy định: “Hội động nhân dân các cấp là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương...”. Hội đồng nhân dân thực hiện
quyền giám sát đối với các hoạt động của ủy ban nhân dân, các cơ quan
chuyên môn của ủy ban nhân dân cũng như các đơn vị trực thuộc. Hoạt động
giám sát của hội đồng nhân dân địa phương là chức năng chủ yếu của cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương được thực hiện trước hết ở các kỳ họp của
Hội đồng nhân dân. Hoạt động giám sát này cũng được thực hiện thông qua
việc nghe và thảo luận báo cáo của ủy ban nhân dân, thông qua việc chất vấn
các đại biểu là lãnh đạo của ủy ban nhân dân cũng như các đại biểu là lãnh
đạo cơ quan kiểm sát và xét xử ở địa phương.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân được xác định là một trong
những nội dung rất quan trọng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Ở
mỗi địa phương thực tiễn về kinh tế, văn hóa, khoa học cơng nghệ,...khác nhau.
Nên vai trò của Hội đồng nhân dân trong hoạt động giám sát càng có ý nghĩa
thiết thực. Qua đó kiến nghị và góp phần cùng với các cấp chính quyền khắc
8
phục những khó khăn, vướng mắc trong q trình thực hiện chủ trương, chính
sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Hội đồng nhân dân trong Nhà nước Việt Nam là những tổ chức chính
quyền gần gũi nhân dân nhất, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu của
nhân dân. Tiếp dân, đơn đốc, kiểm tra và xem xét Vì vậy, một biểu hiện cụ thể
của hình thức giám sát quan trọng của Hội đồng nhân dân là việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân. Giải quyết khiếu nại, tố cáo của cử tri kịp thời,
nhanh chóng, đúng pháp luật là nghĩa vụ của toàn thể đại biểu hội đồng nhân
dân. Làm tốt nhiệm vụ này là một biểu hiện thiết thực nhất của việc xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của của dân, do dân, vì dân cũng như là bảo
đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đóng vai trị góp phần tích
cực vào việc phát hiện những sai trái của cơ quan, tổ chức cơ sở trong việc
chấp hành pháp luật, trên cơ sở đó kiến nghị cấp có thẩm quyền giải quyết, xử
lý kịp thời những sai phạm đó; đơn đốc các cơ quan, tổ chức hữu quan thực
hiện nghị quyết của hội đồng nhân dân và của cấp trên cũng như giải quyết
các vấn đề bức xúc của địa phương, bảo đảm thi hành có hiệu quả các quy
định của pháp luật và nghị quyết của hội đồng nhân dân địa phương.
Giám sát là một trong những chức năng chủ yếu của Hội đồng nhân
dân. Thực tiễn hoạt động của Hội đồng nhân dân trong những năm qua cho
thấy, Hội đồng nhân dân đã có nhiều cố gắng để tăng cường công tác giám sát
việc thi hành Hiến pháp, luật và các nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Kết
quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đã có tác dụng tích cực trong
việc giải quyết các vấn đề bức xúc ở địa phương.
Nhìn chung, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội
đồng nhân dân và Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp luôn được chú trọng và
đạt được những kết quả thiết thực, cơ bản hồn thành chương trình đề ra, bảo
9
đảm tiến độ và chất lượng được nâng lên. Các nội dung giám sát chuyên đề đều
là những vấn đề quan trọng, phù hợp với tình hình thực tế địa phương, được các
vị Đại biểu Hội đồng nhân dân và đơng đảo cử tri quan tâm, góp phần quan
trọng vào kết quả hoạt động chung. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
thông qua xem xét các báo cáo, giám sát chuyên đề, chất vấn tiến hành nghiêm
túc, tiếp tục có nhiều cải tiến, đổi mới, tiến hành chặt chẽ, đúng quy định của
pháp luật. Sau chất vấn, giám sát chuyên đề, Ủy ban nhân dân, các cơ quan hữu
quan nghiêm túc tiếp thu, chỉ đạo sửa chữa, khắc phục.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, so với yêu cầu thì hoạt động giám
sát của Hội đồng nhân dân các cấp vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển của xã hội và cuộc sống đặt ra; một ít nội dung giám sát chưa bao
quát rộng, bức xúc; Tổ Đại biểu và Đại biểu lúng túng, chưa chủ động xây
dựng chương trình giám sát của mình nên Tổ Đại biểu chưa làm tốt chức năng
giám sát. Một số đơn vị chịu sự giám sát chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm
trong việc cung cấp thông tin phục vụ hoạt động giám sát. Thông qua hoạt
động giám sát, những vấn đề được phát hiện và kiến nghị đã được gửi đến các
cơ quan hữu quan yêu cầu giải quyết, nhưng trong nhiều trường hợp các cơ
quan chịu sự giám sát thực hiện chưa đầy đủ, kịp thời các kiến nghị đó và
cũng chưa báo cáo giải trình. Cho nên, ở gốc độ nào đó, hoạt động giám sát
chưa thật sự thực chất và có mặt, có lúc vẫn cịn hình thức.
Thiết nghĩ, trong thời gian tới, Quốc hội cần xây dựng và ban hành
Luật giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp để có biện pháp chế tài cụ thể.
2.3. Thực trạng và đề xuất của hoạt động giám sát của cơ quan
quyền lực nhà nước:
Giám sát nhằm nâng cao trách nhiệm của các đối tượng chịu sự giám
sát, góp phần hoạn thiện thể chế của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước
bảo đảm cho các cơ quan này thực thi trách nhiệm, quyền hạn một cách đầy
10
đủ, có hiệu quả và đúng pháp luật nhằm bảo đảm pháp chế. Qua hoạt động
chất vấn và trả lời chất vấn đã góp phần làm cho Chính phủ và các cơ quan ta
mạnh lên, các cơ quan quyền lực ở trung ương và địa phương mạnh lên, cả hệ
thống chính ta mạnh lên, chính điều này đã tạo được sự đồng thuận giữa bên
giám sát và bên chịu sự giám sát. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt
động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước cịn có khơng ít khó khăn, trở
ngại như sau: Thẩm quyền giám sát còn chưa được xác định quy định rõ ràng.
Còn thiếu văn bản hướng dẫn thi hành, nhất là về quy trình, thủ tục giám sát
đối với từng chủ thể giám sát; hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc
hội khá sơi nổi, có rất nhiều khởi sắc, nhưng vẫn cịn đó những câu hỏi chưa
được chuẩn bị còn dài dòng, hỏi để được cung cấp thông tin và những câu trả
lời chung chung, tránh né trách nhiệm. Giám sát chưa cụ thể, thiếu thông tin
cần thiết, thời gian giám sát quá ngắn, chưa đi sát cơ sở, chủ yếu vẫn dựa trên
văn bản báo cáo rồi kết luận...
Một số đề xuất: Các cơ quan quyền lực cần nghiên cứu đổi mới và cải
tiến hình thức, nội dung giám sát, giám sát cần đi vào chiều sâu,vào những
vấn đề mà cử tri và xã hội đặt ra; Cần quy định cụ thể cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác bao gồm cơ quan, tổ chức, cá nhân nào để tránh chồng chéo, bỏ
sót, lạm quyền trong hoạt động giám sát; quan tâm hơn nữa hoạt động giám
sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân, hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức trong việc đầu tư,
quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước...
11
KẾT LUẬN
Các hình thức, phương pháp giám sát được triển khai đã đem lại kết
quả khá tốt, góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của công cuộc
đổi mới, tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, phát huy dân
chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Các cơ quan quyền lực nhà nước đã có nhiều cố gắng để tăng cường
cơng tác giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật và các nghị quyết của Các cơ
quan quyền lực nhà nước. Kết quả hoạt động giám sát của Các cơ quan quyền
lực nhà nước đã có tác dụng tích cực trong việc giải quyết các vấn đề bức xúc
trong xã hội. Tuy nhiên, cũng còn nhiều ý kiến cho rằng, hoạt động giám sát
của Các cơ quan quyền lực nhà nước vẫn chưa được thường xuyên, hiệu quả
giám sát còn hạn chế, chẳng hạn, một số kiến nghị của Hội đồng nhân dân
chưa được các cơ quan hữu quan thực hiện nghiêm túc và kịp thời; Hội đồng
nhân dân chưa thật sự phát huy vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương.
12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
Trong giáo trình giảng dạy Mơn: Lý luận về quyền lực chính trị
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ cung năm 2001).
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.
Website: http:www.tapchicongsan.com.vn
13