Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Quan điểm triết học mác lê nin về vấn đề con người sự vận dụng của đảng vào quá trình xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.92 KB, 19 trang )

MỤC LỤC

1


PHẦN I: MỞ ĐẦU
Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản
nguyên thuỷ được thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu
tiên trong lịch sử xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở
Ấn Độ cổ đại, Trung quốc cổ đại, Hy Lạp và La Mã cổ đại và ở các nước
khác. Triết học nghiên cứu về con người là một vấn đề được quan tâm hàng
đầu trong lịch sử nhân loại. Những nội dung được đưa ra là: Con người là gì?
Bản tính, bản chất con người? Mối quan hệ giữa con người và thế giới? Con
người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do? Tuỳ theo điều kiện lịch
sử của mỗi thời đại mà nổi trội lên vấn đề này hay vấn đề kia. Đồng thời, tuỳ
theo giác độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết học, các nhà triết học
trong lịch sử có những phát hiện, đóng góp khác nhau trong việc lý giải về
con người.
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học. Khi
nghiên cứu về con người, triết học Mác - Lênin đã phân tích rất đầy đủ và sâu
sắc, trong mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt tự nhiên và xã hội trên cơ sở
lập trường tư tưởng triệt để nhất. Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước, con người là mục tiêu, là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, là
vấn đề được quan tâm hàng đầu. Hiện nay, chúng ta đang bước vào thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, việc đào tạo con người
vững mạnh về đạo đức, tư tưởng, chính trị, trí tuệ, thể chất, năng lực, ý thức
cộng đồng, lối sống văn hóa, quan hệ hài hịa với gia đình và xã hội càng trở
nên cấp thiết. Để có những hiểu biết sâu sắc hơn về bản chất của con người,
chúng em đã nghiên cứu đề tài: “Quan điểm triết học Mác- Lênin về vấn đề
con người. Sự vận dụng của Đảng vào quá trình xây dựng nguồn lực con


người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.”.

2


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI
1.1. Một số quan điểm triết học phi Macxit về con người
1.1.1. Quan điểm về con người trong triết học phương Đông
Ở Phương Đông, các trường phái triết học như Phật giáo, Hồi giáo nhận
thức bản chất con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, đặt trọng tâm
nghiên cứu mối quan hệ giữa người với người và đời sống tâm linh, ít quan
tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác
theo lập trường của giai cấp trống trị cho nên nghiên cứu con người không
phải là để giải phóng con người mà là để cai trị con người, không thấy quan
hệ giữa người với người trong lao động sản xuất.
Với chiều dài hơn hai nghìn năm cổ đại, nền triết học Trung Hoa quan
niệm vấn đề con người qua tư tưởng của Nho giáo và Lão giáo, bản chất con
người được thể hiện rất phong phú. Khổng Tử cho rằng bản chất con người do
thiên mệnh chi phối quyết định, đức nhân chính là giá trị cao nhất của con
người, đặc biệt là người quân tử. Mạnh tử quy tính thiện của con người vào
năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng phong tục tập quán xấu mà con người bị
nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, phải thơng qua tu dưỡng đạo đức để
giữ gìn những cái tốt đẹp. Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ
đạo đức để hướng con người đến những điều tốt đẹp. Triết học Tuân Tử thời
kì Chiến quốc lại cho rằng bản chất của con người khi sinh ra là ác, nhưng có
thể cải biến được, phải chống lại cái ác ấy thì con người mới tốt lên được.
Trong triết học phương Đơng, cịn có quan niệm duy tâm cho rằng trời và con
người có thế hịa hợp (thiên mệnh hợp nhất). Đơng Trọng Thư, một người kế

thừa Nho giáo theo khuynh hướng duy tâm cực đoan quan niệm rằng trời và
con người không thể thơng hiểu lẫn nhau (thiên nhân cảm ứng). Nói chung,
đây là quan niệm duy tâm, quy cuộc đời con người phụ thuộc vào thiên mệnh.
3


1.1.2. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây
Ở Phương Tây, các nhà tư tưởng ít quan tâm đến mặt xã hội của con
người, đề cao cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng
con người về mặt nhận thức, khơng chú ý đến nguyên nhân kinh tế – xã hội,
cái gốc để giải phóng con người.
Ngay từ thời Cổ đại, các nhà triết học duy vật đã từng đưa ra quan niệm
về bản chất vật chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật
trong giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất. Tiêu
biểu là quan niệm của Đêmôcrit về bản tính vật chất nguyên tử cấu tạo nên
thể xác và linh hồn của con người. Đây cũng là tiền đề phương pháp luận của
quan điểm nhân sinh theo đường lối Êpiquya... Những quan niệm duy vật như
vậy đã được tiếp tục phát triển trong nền triết học thời Phục hưng và Cận đại
mà tiêu biểu là các nhà duy vật nước Anh và Pháp thế kỷ XVIII; nó cũng là
một trong những tiền đề lý luận cho chủ nghĩa duy vật nhân bản của
Phoiơbắc. Trong một phạm vi nhất định, đó cũng là một trong những tiền đề
lý luận của quan niệm duy vật về con người trong triết học Mác.
1.2. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về con người
1.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Triết học Mác-Lênin đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử
triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu
tố sinh học và yếu tố xã hội.
Trước hết, Mác thừa nhận con người là động vật cao cấp nhất, là sản
phẩm của sự tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên như tiến hóa luận của Đác-uyn
đã khẳng định. Như mọi động vật khác, con người là một bộ phận của thiên

nhiên. Con người phải tìm kiếm thức ăn, nước uống… từ trong thiên nhiên và
phải đấu tranh để tồn tại, ăn uống, sinh con đẻ cái. Như vậy, con người trước
hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người sống, là
tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của con người đối với tự nhiên.
4


Tuy nhiên, Mác không thừa nhận quan điểm cho rằng cái duy nhất tạo nên
bản chất con người là đặc tính sinh học, là bản năng sinh vật của con người
cho dù con người vốn là một sinh vật có đầy đủ những đặc trưng của sinh vật
nhưng con người vẫn có nhiều điểm để phân biệt với những sinh vật khác.
Con người là một bộ phận của tự nhiên nhưng trong mối quan hệ với tự
nhiên con người hoàn toàn khác con vật ở chỗ tự nhiên chỉ là cơ thể vơ cơ của
con người và con người có khả năng tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên
trong khi đó con vật hồn tồn lệ thuộc vào tự nhiên và chỉ sản xuất ra bản
thân nó. Ngọn nguồn của sự khác biệt đó chính do hoạt động thực tiễn quy
định. Thông qua hoạt động lao động sản xuất con người, con người sản xuất
ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình, hình thành và
phát triển ngơn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Chính vì vậy, lao động
là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình
thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên q trình phát triển
ln luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống nhất
với nhau. Hệ thống quy luật tự nhiên - quy định phương diện sinh học. Hệ
thống quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học
của con người. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa
người và người.
Ba hệ thống quy luật này cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối
quan hệ và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu

cầu xã hội trong đời sống con người.
Mặt sinh học và mặt xã hội, nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong
mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con
người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài
vật. Hai mặt này hòa quyện với nhau tạo thành thực thể Người.
5


1.2.2. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
Sự khác biệt về bản chất của con người với con vật là ở ba quan hệ: quan
hệ với tự nhiên, quan hệ quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con
người. Ba mối quan hệ này đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội là
quan hệ bản chất, bao trùm mọi hoạt động của con người, cả trong lao động,
sinh con đẻ cái và trong tư duy.
Mác khẳng định: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hịa những quan hệ xã hội". Khẳng định này đã chỉ rõ ba quan
hệ (quan hệ với thiên nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với bản thân) cấu
thành bản chất của con người thể hiện trong toàn bộ hoạt động cụ thể của con
người. Vì vậy, khơng có con người trừu tượng mà chỉ có những con người
sống, hoạt động trong một xã hội nhất định, một thời đại nhất định, trong
những điều kiện lịch sử nhất định, nghĩa là con người cùng với xã hội mình
khai thác thiên nhiên, sinh hoạt xã hội, phát triển ý thức. Chỉ trong tồn bộ
những quan hệ xã hội cụ thể đó, con người mới bộc lộ và thực hiện được bản
chất thực sự của mình. Xét về bản chất của một con người cũng như của một
dân tộc phải xuất phát từ toàn bộ những quan hệ xã hội ấy.
Điều cần lưu ý là khi Mác nhấn mạnh mặt xã hội trong việc xác định bản
chất của con người không đồng nghĩa với việc phủ nhận mặt tự nhiên trong
đời sống con người mà nhấn mạnh với mục đích chỉ rõ tiêu chí phân biệt con
người với con vật chính là ở bản chất xã hội. Và sự khác biệt trong việc giải

quyết vấn đề con người của C. Mác với các nhà triết học trước C. Mác cũng là
ở bản chất xã hội của con người mà các triết gia đó không thấy. Mặt khác, cái
bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ khơng thể là
cái duy nhất, do đó cần phải thấy được cái biểu hiện riêng biệt, phong phú và
đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng
đồng xã hội.
6


1.2.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu
sinh. Vì vậy, khơng có thế giới tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn
tại con người. Song điều quan trọng hơn cả là con người luôn luôn là chủ thể
của lịch sử.
Với tư cách là thực thể xã hội, thông qua hoạt động thực tiễn, con người
tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên và thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử - xã hội.
Hoạt động lao động sản xuất không chỉ là điều kiện tồn tại mà còn là
phương thức để biến đổi đời sống và thay đổi bộ mặt xã hội. Do vậy, mỗi
bước tiến của lịch sử, của xã hội luôn luôn là kết quả của hoạt động thực tiễn
của con người.
Trên cơ sở nắm bắt quy luật, thông qua hoạt động vật chất và tinh thần
con người thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục đích và
nhu cầu đặt ra. Từ đó có thể khẳng định: khơng có hoạt động của con người
thì khơng có quy luật xã hội mà khơng có quy luật xã hội thì cũng khơng có
xã hội lồi người.
Khơng có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai
đoạn cụ thể của lịch sử. Xã hội ln vận động và phát triển, vì vậy bản chất
con người khơng thể là một hệ thống đóng kín mà là một hệ thống mở tương
ứng với điều kiện tồn tại luôn biến đổi của con người. Và trong sự biến đổi ấy,

bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi
sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không
trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
1.2.4. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về giải phóng con người
Cốt lõi của triết học Mác nói chung, của triết học về con người trong triết
học Mác – Lênin nói riêng là vấn đề giải phóng con người, từ giải phóng
7


những con người cụ thể sẽ tiến đến giải phóng nhân loại. Toàn bộ nội dung trả
lời các câu hỏi như: Con người là gì? Nguồn gốc của con người? Bản chất của
con người? … đều nhằm mục đích hiểu đối tượng giải phóng để xác định
đúng đắn những vấn đề liên quan đến vấn đề giải phóng con người.
Triết học Mác – Lênin không phải là triết học đầu tiên đề cập đến vấn đề
giải phóng con người. Trong lịch sử đã có nhiều học thuyết, quan điểm về giải
phóng con người song do điều kiện lịch sử, ràng buộc giai cấp, do cách hiểu
về con người, hiểu về nguồn gốc và bản chất con người khác nhau nên việc
xác định giải phóng con người là giải phóng ai? Giải phóng bằng cách nào?
Giải phóng như thế nào cũng rất khác nhau.
Giải phóng con người là xố bỏ người bóc lột người, xóa bỏ tha hố để
con người trở về với chính mình, phát triển bản tính chân chính của mình.
“Con người bẩm sinh đã có tính xã hội thì do đó con người chỉ có thể phát
triển bản tính chân chính của mình trong xã hội”, việc giải phóng xã hội lồi
người phải được thực hiện trong xã hội loài người.
Lênin đã nhận định: Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó
làm sáng tỏ vai trị lịch sử thế giới của giai cấp vơ sản là thực hiện sứ mệnh
giải phóng con người.
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG VÀO QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ Ở NƯỚC TA TRONG
SỰ NGHIỆP CƠNG NGHỆP HĨA- HIỆN ĐẠI HĨA

2.1. Phát triển nguồn nhân lực và công tác cán bộ theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đề ra mục tiêu cụ thể:
“Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: trở thành nước phát
triển, thu nhập cao”. Để đạt được mục tiêu này, yếu tố quyết định là xây dựng
8


và phát huy được nguồn lực con người Việt Nam, làm cho mọi cơng dân được
phát triển tự do, tồn diện, kết tinh được các giá trị văn hóa truyền thống q
báu, có đạo đức trong sáng, có lịng u nước, tự hào dân tộc, tiếp thu chọn
lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại, được đào tạo, trang bị tri thức, kỹ năng
sống, năng lực lao động sáng tạo, tư duy đổi mới, phát huy được tối đa trí tuệ,
tài năng, khát vọng phát triển trong cuộc sống và lao động sáng tạo.
Vì vậy, phải nhận thức một cách đúng đắn, rõ ràng hơn để có những nội
dung, chính sách, giải pháp tích cực, thiết thực, hiệu quả nhằm đổi mới và
tăng cường công tác xây dựng, phát huy nguồn lực con người, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đề ra định hướng phát
triển đất nước giai đoạn 2021-2030, đó là: “Tạo đột phá trong đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao,
thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng
mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm
năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng
và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới”.
Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao đủ trình độ, năng lực đáp
ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới, Nhà nước cần quan tâm thích đáng
đến việc đầu tư cho nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển

nguồn nhân lực nói chung, nhân lực có chất lượng cao nói riêng. Trong điều
kiện nước ta chưa có đủ điều kiện, khả năng đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực
chất lượng cao cho tất cả các ngành, lĩnh vực thì cùng với việc xây dựng đội
ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm
vụ như yêu cầu của Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ
bảy khoá XII, cần tập trung cho những ngành, lĩnh vực trọng tâm, then chốt
của nền kinh tế để tạo sự bứt phá về chất lượng nguồn nhân lực.
9


Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi
cơng việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Con người
là chủ thể của sự phát triển đất nước, từ người lao động bình thường cho đến
người lãnh đạo cao nhất. Do đó, phải lấy con người là chủ thể, là trung tâm, là
nguồn lực, động lực, là mục tiêu phát triển quan trọng nhất của đất nước. Đột
phá phát triển con người, mà trọng tâm là nguồn nhân lực chất lượng cao,
nhất là giới tinh hoa, những chuyên gia, nhà khoa học, nhà lãnh đạo, quản lý,
đội ngũ nhân lực công nghệ kỹ thuật số giỏi. Nguồn nhân lực phải có chất
lượng cao mới đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư và hội nhập quốc tế, phát triển đất nước nhanh và bền vững.
2.2. Một số thành tựu và tồn tại của quá trình xây dựng dựng nguồn
nhân lực Việt Nam
2.2.1. Điểm mạnh của nguồn nhân lực Việt Nam
Trong những năm qua, hệ thống văn bản pháp luật về phát triển nguồn
nhân lực đã được ban hành tương đối đầy đủ và ngày càng được hoàn thiện.
Cụ thể, Quốc hội đã ban hành Bộ luật Lao động năm 2012, Luật Giáo dục
nghề nghiệp năm 2014, Luật Giáo dục năm 2019, Luật Cán bộ công chức,
Luật Viên chức… Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn thi hành luật, đồng thời ban hành nhiều cơ chế, chính sách về phát
triển nguồn nhân lực. Hệ thống văn bản này đã tạo hành lang pháp lý thuận

lợi và tạo động lực cho việc thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng
và chất lượng.
Bên cạnh hệ thống văn bản pháp luật được ban hành khá cụ thể, hệ
thống bộ máy quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực đã từng bước
được kiện toàn theo hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của công
tác quản lý nhà nước trên phạm vi cả nước, đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ
phát triển mới. Hiện nay, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về phát triển
nguồn nhân lực ở nước ta bao gồm các bộ có chức năng, nhiệm vụ thực hiện
10


quản lý nhà nước về những lĩnh vực chuyên ngành liên quan đến phát triển
nguồn nhân lực như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Nội vụ; các bộ có chức năng quản lý nhà nước trong một
số lĩnh vực chuyên ngành liên quan tới phát triển nguồn nhân lực đó như Bộ
Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; tất cả các bộ, ngành, địa phương trên cả
nước đều có các cơ sở trực thuộc trực tiếp cung ứng dịch vụ công liên quan
đến phát triền nguồn nhân lực trong phạm vi quản lý của mình.
Thực hiện Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 20112020 và Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020,
các bộ, ngành và địa phương đã xây dựng, ban hành, tổ chức triển khai thực
hiện chiến lược, quy hoạch phát triển nhân lực; thực hiện nhiều giải pháp,
chính sách nhằm thu hút, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, bước đầu đã đạt được những kết quả quan trọng.
Nguồn nhân lực của đất nước được tăng cường cả về quy mô và chất
lượng. Lực lượng lao động cả nước tăng từ 50,4 triệu người năm 2010 lên
56,2 triệu người năm 2020. Tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 40% năm 2010 tăng
lên khoảng 65% năm 2020(2). Nhân lực chất lượng cao cũng tăng đáng kể,
trong đó có một số ngành đạt trình độ khu vực và quốc tế như y tế, cơ khí,

cơng nghệ, xây dựng.
2.2.2. Một số tồn tại của nguồn nân lực Việt Nam
Tuy nhiên, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Cụ thể, ở bình diện
quốc gia, mới đưa ra chiến lược, quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam nói
chung, chưa có chiến lược, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao. Trong chiến lược, quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn
2011-2020 chưa xác định được nhu cầu cụ thể về số lượng và chất lượng
11


nguồn nhân lực chất lượng cao của cả nước nói chung cũng như của từng bộ,
ngành, địa phương nói riêng. Vì vậy, chưa có cơ sở xây dựng một chính sách
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thống nhất, đồng bộ để thu hút,
tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và trọng dụng một cách hiệu
quả, hợp lý.
Thực tế cho thấy, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn lớn, chất lượng
đào tạo thấp, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý, thiếu lao động có trình độ, năng
lực, kỹ năng tay nghề cao, thừa lao động thủ công, không qua đào tạo; thiếu
cán bộ lãnh đạo, quản lý, quản trị doanh nghiệp có trình độ năng lực cao;
thiếu đội ngũ chuyên gia trong các ngành kinh tế, kỹ thuật và công nhân lành
nghề. Cạnh tranh quốc tế bằng lao động phổ thông, giá nhân công rẻ đang
ngày càng không mang lại hiệu quả và khiến chúng ta yếu thế. Sự kém phát
triển, thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng cao đang trở thành trở ngại lớn
cho tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức
trong các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập chưa đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội
nghị Trung ương lần thứ bảy, khóa XII đã chỉ rõ: “... nhìn tổng thể, đội ngũ
cán bộ đơng nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở

nhiều nơi; sự liên thơng giữa các cấp, các ngành cịn hạn chế. Tỷ lệ cán bộ trẻ,
cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu đề ra. Thiếu
những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành
trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt cịn
hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính
chun nghiệp, làm việc khơng đúng chun mơn, sở trường; trình độ ngoại
ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong mơi trường quốc tế cịn
nhiều hạn chế. Khơng ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại
12


khó, ngại khổ, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có
cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất
chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm”.
Trong khi đó “... theo dự báo của Tổng cục Thống kê, thời kỳ dân số
vàng sẽ kéo dài trong khoảng 34 năm và kết thúc vào năm 2041. Như vậy,
chúng ta đã trải qua hơn 10 năm trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, nhưng thực
tế cho thấy giá trị thặng dư, hiệu suất kinh tế chưa tương xứng với số lượng
lao động hiện có của cả nước. Điều này thể hiện rõ ở việc so sánh năng suất
lao động của Việt Nam thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực
Đông Nam Á: chỉ bằng 7% của Singapore, bằng 17,6% Malaysia; 36,5% của
Thái Lan; 42,3% của Indonesia; 56,7% của Philippines và 87,4% so với
Lào...”.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực còn những hạn chế, đó là:
Thứ nhất, quản lý nhà nước về phát triển nhân lực không tập trung,
thống nhất xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương mà đang có sự phân tán

giữa cơ quan quản lý nhà nước và các đơn vị chủ quản, giữa các bộ, ngành
với địa phương.
Thứ hai, các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành được ban hành
nhiều nhưng chưa có sự thống nhất giữa các văn bản với nhau, thậm chí có sự
mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập dẫn đến khó khăn cho việc phát triển nguồn
nhân lực nói chung. Cụ thể, quy định pháp luật về quản lý nhà nước về phát
triển nguồn nhân lực được quy định ở nhiều văn bản nêu trên, tuy nhiên thực
tiễn áp dụng pháp luật và việc phân cơng, điều hành của Chính phủ với các cơ
quan liên quan chưa rõ ràng, cụ thể, thiếu thống nhất nên hiệu quả chưa cao.
13


Thứ ba, một số văn bản quy phạm pháp luật thiếu tính khả thi trong
thực tiễn, hiệu lực thấp, dẫn đến việc quản lý nhà nước đối với các cơ sở cung
cấp nguồn nhân lực cịn bị bng lỏng, thiếu chặt chẽ. Ví dụ, việc cho phép
thành lập nhiều trường đại học, nhưng chất lượng đào tạo tại một số trường
thấp, không tương xứng; nguồn nhân lực được đào tạo tại một số cơ sở đào
tạo kém chất lượng, không đủ khả năng đáp ứng thị trường lao động; có
những cơ sở tổ chức đào tạo mang tính chất hình thức, không chú trọng đến
chất lượng đầu ra nguồn nhân lực…
Thứ tư, việc kiểm định, đánh giá chất lượng dịch vụ cung cấp nguồn
nhân lực chưa thực sự thống nhất và hiệu quả chưa cao, các tiêu chuẩn đánh
giá chất lượng chưa có quy định chuẩn, nặng về số lượng, thiếu quan tâm đến
chất lượng nguồn nhân lực. Có khơng ít cơ sở đào tạo chưa xây dựng được
quy chế đào tạo và chuẩn về chất lượng đầu ra, việc đánh giá chất lượng vẫn
mang tính nội bộ, thiếu các tổ chức kiểm định độc lập đánh giá chất lượng
nguồn nhân lực.
Thứ năm, thiếu sự thống nhất giữa quản lý nhà nước về chuyên môn
với quản lý nhân sự và tài chính, dẫn đến thiếu sự thống nhất trong chỉ đạo,
điều hành đối với hệ thống giáo dục, đào tạo nói chung, khiến cho việc kiểm

sốt chất lượng nguồn nhân lực gặp rất nhiều khó khăn. Cụ thể, cơng tác phân
luồng định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học cơ sở và trung học phổ
thông chưa tốt; công tác đào tạo, giáo dục nghề nghiệp chưa thực sự dựa trên
nhu cầu của xã hội, chưa thu hút được sự tham gia phát triển nguồn nhân lực
từ các đơn vị sử dụng lao động; đội ngũ giáo viên, giảng viên cịn thiếu về số
lượng, yếu về chun mơn nghiệp vụ, cịn sự chênh lệch lớn về trình độ phát
triển giữa các địa phương, vùng, miền; hệ thống phương pháp, công cụ kiểm
tra, giám sát, kiểm định và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo kém hiệu
quả; mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng…

14


Thứ sáu, thiếu minh bạch trong khâu tuyển dụng nguồn nhân lực đối
với khu vực công, dẫn đến chất lượng tuyển dụng nguồn nhân lực chưa cao,
chưa thu hút được người tài vào làm việc cho khu vực công(5).

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TRONG SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA – HIỆN ĐẠI HĨA Ở
NƯỚC TA
3.1. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc phát huy nguồn lực
con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nhận thức ngày càng sâu sắc và đầy đủ hơn về vai trò của con người –
với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới đất nước,
chúng ta có thể mạnh dạn đưa ra một vài giải pháp để góp phần phát huy các
yếu tố tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực, để kích thích mọi tiềm năng ở từng
con người phát triển, tạo ra những con người say sưa, năng động, tích cực, lao
động, học tập, cơng tác…, đạt năng suất cao, hiệu quả kinh tế tốt, làm ra
nhiều sản phẩm hàng hoá, đưa mức thu nhập, mức sống của con người ngày
càng cao cùng với lối sống văn minh, có đạo đức, nhân phẩm ngày càng tốt

đẹp.
Phải xác định cho rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt
Nam trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một đất nước rất ít tài
nguyên thiên nhiên như ở Việt Nam, cần phải lấy nguồn nhân lực làm tài
nguyên thay thế, gọi là tài nguyên nguồn nhân lực, hoặc tài nguyên con
người. Muốn vậy, phải làm cho mọi người thấy rõ vai trò và trách nhiệm đào
tạo và sử dụng nhân lực, biến thách thức và chất lượng nhân lực thành lợi thế
cạnh tranh trên phương diện toàn cầu.

15


3.2. Nâng cao mặt bằng dân trí
Ở nước ta, để nâng cao dân trí, cần thực hiện dân chủ trong giáo dục,
thực hiện một “nền giáo dục khai phóng” cho tất cả mọi người, mọi công dân.
“Nền giáo dục khai phóng” đào tạo ra những con người tự do, có nhân cách
công dân - những con người biết tư duy rốt ráo về từng vấn đề, biết tự đưa ra
quyết định và chịu trách nhiệm cho quyết định của mình. Mẫu người tự do
này khác hẳn mẫu người nô lệ, chỉ trông cậy vào tư duy và quyết định của
người khác, và dĩ nhiên, họ không hề muốn chịu trách nhiệm về những quyết
định đó tuy rằng họ đã hành động theo những quyết định đó.
Trước tiên, nâng cao mặt bằng dân trí, phát hiện, bồi dưỡng và trọng
dụng nhân tài: phát triển giáo dục mầm non, thanh toán nạn mù chữ cho
người lao động. Thơng qua các chính sách, các qui định của Nhà nước để điều
chỉnh cơ cấu đào tạo một cách hợp lý nhằm đạt tới sự cân đối giữa đào tạo và
sử dụng ở các trình độ, các ngành nghề khác nhau, đặc biệt đảm bảo được
nhân lực cho các ngành mũi nhọn… Bảo đảm tri thức cần thiết để mọi người
gia nhập cuộc sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình đổi mới và phát triển
của đất nước.
3.3. Khai thác hợp lý và có hiệu quả nguồn lực con người

Chú trọng việc tạo việc làm cho người lao động: muốn khai thác hợp lý
và có hiệu quả nguồn lực con người, việc đầu tiên là phải tạo được việc làm
cho người lao động. Nhanh chóng triển khai chương trình quốc gia giải quyết
việc làm, tạo mọi điều kiện cho người lao động tự tạo, tự tìm việc làm. Tổ
chức thực hiện và kiểm tra việc thi hành Luật Lao động, tiếp tục cải tiến chế
độ tiền lương, làm cho tiền lương thực sự gắn liền với năng suất, chất lượng,
hiệu quả, trở thành thu nhập chính và là động lực đối với người lao động. Để
từ đó giúp họ nâng cao mức sống, có điều kiện thoả mãn được các nhu cầu cơ
bản của con người (ăn, mặc, ở…và các dịch vụ cần thiết

16


Chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động phải gắn với cơ chế thị
trường, có sự hướng dẫn, quản lý của nhà nước: giải pháp này cho phép phát
huy triệt để tiềm năng và sức sáng tạo của người lao động, tạo điểu kiện và
môi trường thuận lợi để người lao động tự do lựa chọn việc làm và cống hiến
khả năng của bản thân. Do đó vấn đề tuyển dụng phải xuất phát từ nhu cầu thị
trường lao động, phải có các hình thức phương pháp thi tuyển lao động một
cách khoa học, chính xác, nghiêm túc và khách quan. Trong sản xuất kinh
doanh cần bố trí đúng người đúng việc theo nguyên tắc “tùy việc xếp người”.
Bảo đảm sự phù hợp, chính xác và cơng bằng trong quá trình tuyển dụng,
đánh giá sắp xếp đề bạt cán bộ.
Các doanh nghiệp cần đa dạng hóa loại hình tuyển dụng và sử dụng lao
động bao gồm các chính sách theo quy chế công chức nhà nước đối với lao
động trong khu vực hành chính sự nghiệp và theo hợp đồng lao động đối với
lao động trong khu vực sản xuất kinh doanh.

17



PHẦN III: KẾT LUẬN
Cơng nghiệp hố hiện đại hố là con đường tất yếu duy nhất để đưa
nước ta từ một nước kém phát triển đạt được những thành tựu to lớn cả về
mặt kinh tế cũng như xã hội. Để thực hiện thành cơng q trình cơng nghiệp
hố hiện đại hoá chúng ta phải biết tận dụng một cách có hiệu quả các nguồn
lực trong nước cũng như nước ngồi. Một trong những nguồn lực to lớn trong
nước đó chính là nguồn nhân lực. Đảng ta đã xác định rõ vị trí, vai trị to lớn
của con ngưịi Việt nam hiện nay : con người vừa mục tiêu vừa là động lực
của q trình cơng nghiệp hố hiện đại hoá. Việc phát triển con người lấy
quan điểm của triết học Mác –Lênin có cơ sở nền tảng là một trong những
chiến lược, nhiệm vụ cấp bách củ nước ta hiện nay. Bởi tiềm năng con người
với trí tuệ và lao động dịnh hướng qui định sự tiến bộ của mỗi quốc gia. Hơn
10 năm tiến hành công cuộc đổi mới người lao đọng Việt nam đã được giải
phóng tong bước khỏi sự ràng buộc của cơ chế cũ, phát huy quyền làm chủ và
tính năng động sáng tạo trong các hoạt động kinh tế xã hội tong bước thcj
hiện mục tiêu “ dân giàu nước mạnh xã hội công bằng xã hội dân chủ văn
minh”.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.


Giáo trình triết học Mac- Lênin – Nhà xuất bản chính trị quốc gia
Giáo trình kinh tế chính trị – Viện đại học mở hà nội
Có một Việt nam như thế đổi mới và phát triển – Giáo sư Trần Biên- Nhà
xuất bản chính trị quốc gia
Nghiên cứu con người đối tượng và những hướng chủ yếu - Chủ biên
GSVSTSKH – Phạm Minh Hạc – Nhà xuất bản khoa học xã hội
Vấn đề con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố hiện đại hố - Nhà
xuất bản chính trị quốc gia
Nền kinh tế tri thức và yêu cầu - Nhà xuất bản chính trị quốc gia
Nguyễn thanh : “ Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá ở nước ta hiện nay “- Tạp chí triết học số 5 – 1996

19



×