Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.63 KB, 26 trang )

Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
MỤC LỤC
A – GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 4
B – NỘI DUNG CHÍNH 6
I. Cơ sở của việc nghiên cứu 6
1. Cơ sở lý luận 6
1.1. Bản chất con người 6
1.2. Nguồn lực con người 11
2. Cơ sở thực tế 14
II. Thực trạng các vấn đề nghiên cứu 14
1. Truyền thống con người Việt Nam 14
1.1. Tích cực 15
1.2. Hạn chế 16
1.3. Nguyên nhân của thực trạng 17
2. Nhân cách con người Việt Nam 18
2.1. Tích cực 18
2.2. Hạn chế 19
2.3. Nguyên nhân của thực trạng 20
3. Nguồn lực con người 20
3.1. Tích cực 21
3.2. Hạn chế 22
3.3. Nguyên nhân của thực trạng 23
III. Những giải pháp để phát huy nguồn lực con người 24
1. Trên lĩnh vực kinh tế 24
2. Trên lĩnh vực chính trị 25
3. Trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng 26
C – KẾT LUẬN 27
D – TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
3
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới


A – GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Xuất phát từ thế giới quan duy vật về lịch sử, C. Mác và Ph. Ăngghen cho
rằng: mọi sự biến đổi của các chế độ xã hội trong lịch sử đều là quá trình phát triển
của lịch sử tự nhiên. Đó là sự chi phối của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vận dụng lí luận của C.
Mác và Ph. Ăngghen vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga trước
đây, V.I. Lênin đã phát triển lí luận về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa là tất yếu khách quan đối với tất cả các nước muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, ngay cả đối với các nước có nền kinh tế phát triển cao nhưng cần
phải cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hóa mới. Đối với
nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa thì lại càng phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài.
Nước ta bắt đầu thời kì quá độ từ năm 1954 ở miền Bắc và từ 1975 trên
phạm vi cả nước sau khi đất nước độc lập. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nhiệm vụ
quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kĩ thuật của chủ
nghĩa xã hội,… tiếp dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện
đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là
nhiệm vụ chủ chốt lâu dài”. Do đó toàn đảng, toàn dân ta trong những năm qua đã
đẩy nhanh quá trình công nghiêp hóa - hiện đại hóa, từ sự sụp đổ của Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, ta đã kịp thời có những sự chuyển đổi từ Đại
hội VI của Đảng (1986), sau đó đến Đại hội VII, VIII, IX ta đã tiếp tục xây dựng
nền kinh tế mới – nền kinh tế thị trường có sự quản lí điều tiết của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình đổi mới đất nước nhằm nâng cao đời sống vật chất tinh thần
của người dân, con người chính là mục tiêu của sự đổi mới và là động lực cho sự
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
4
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
phát triển của nền kinh tế đất nước. Cùng với thời gian, con người ngày càng phát

huy được vai trò của mình với tư cách là người chủ xã hội. Việt Nam là một nước
kém phát triển, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần phát huy có hiệu
quả nguồn lực con người của đất nước. Nghiên cứu về vấn đề con người có rất
nhiều mặt, trong giới hạn bài viết này xin được nghiên cứu con người và nguồn lực
con người trên các phương diện:
- Truyền thống con người Việt Nam hiện nay
- Nhân cách con người Việt Nam hiện nay
- Nguồn lực con người
Trên cơ sở nghiên cứu ba vấn đề trên ta thấy được vai trò của con người và
nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
5
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
B – NỘI DUNG CHÍNH
I. Cơ sở của việc nghiên cứu
1. Cơ sở lí luận
1.1. Bản chất con người
Những vấn đề triết học về con người là một nôi dung lớn trong lịch sử triết
học nhân loại. Tùy theo điều kiện lịch sử của mỗi thời đại mà nổi trội lên vấn đề
này hay vấn đề kia. Đồng thời, tùy theo giác ngộ tiếp cận khác nhau mà các trường
phái triết học, các nhà triết học trong lịch sử có những phát hiện, đóng góp khác
nhau trong việc lí giải về con người. Mặt khác, trong khi giải quyết những vấn đề
trên, mỗi nhà triết học, trường phái triết học có thể lại đứng trên lập trường thế giới
quan, phương pháp luận khác nhau: duy vật hoặc duy tâm, biện chứng hoặc siêu
hình, …
- Triết học phương Đông tiêu biểu là nền triết học Trung Hoa cổ đại, vấn
đề bản tính con người là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Giải quyết vấn đề này,
các nhà tư tưởng của Nho gia và Pháp gia đã tiếp cận từ giác độ hoạt động thực tiễn
chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến kết luận bản tính con người là thiện (Nho
gia) và bản tính con người là bất thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng Đạo gia, ngay

từ Lão tử thời Xuân Thu, lại tiếp cận giải quyết vấn đề con người từ giác độ khác
và đi đến kết luận bản tính Tự Nhiên của con người. Còn các trường phái triết học
Ấn Độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật đã kết luận về bản tính vô ngã, vô
thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự giác ngộ.
- Quan niệm về con người của triết học Phương Tây có nhiều điểm khác
với nền triết học phương Đông. Nhìn chung, các nhà triết học đứng trên lập trường
duy tâm chú trọng giác độ hoạt động lí tính của con người. Tiêu biểu cho giác độ
tiếp cận này là quan điểm của Platon ở thời cổ đại Hy Lạp (ông coi bản chất con
người là bản chất bất tử của linh hồn thuộc thế giới ý niệm tuyệt đối), Đêcáctơ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
6
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
trong nền triết học Pháp thời cận đại (ông cho bản chất của con người là bản chất
phi kinh nghiệm của lí tính) và Hêghen trong nền triết học cổ điển Đức (ông cho
rằng bản chất con người đó là lí tính tuyệt đối) … Đối lập với các nhà triết học duy
tâm, thì các nhà triết học duy vật đã lựa chọn giác độ khoa học tự nhiên để lí giải
bản chất con người và các vấn đề có liên quan. Ngay từ thời cổ đại, các nhà triết
học duy vật đã từng đưa ra quan niệm về bản chất vật chất tự nhiên của con người,
coi con người cũng như vạn vật tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên
từ vật chất. Tiêu biểu là quan niệm của Đêmôcrít về bản tính vật chất nguyên tử cấu
tạo nên thể xác và linh hồn con người. Những quan niệm duy vật như vậy đã tiếp
tục phát triển trong nền triết học Phục Hưng và Cận Đại mà tiêu biểu là các nhà
duy vật nước Anh và Pháp thế kỉ XVIII, nó cũng là những tiền đề lí luận của chủ
nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Ông đã tiến một bước đáng kể về nhận thức
của con người. Ông khẳng định rằng: ý thức cũng như tư duy của con người chỉ là
sản phẩm của tinh thần, mà chính tinh thần là sản phẩm tối cao của vật chất. Song
khi xem xét con người, ông lại tách con người ra khỏi mối quan hệ nhất định của
họ, không đặt họ trong những điều kiện sinh hoạt nhất định. Ông chỉ coi con người
là “đối tượng cảm tính” mà không coi con người là hoạt động cảm tính.
- Nhìn chung các quan điểm triết học trước Mác và ngoài Mác-xít còn có

một hạn chế cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lí giải các vấn đề triết
học về con người. Do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu
tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lí giải nhân
sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người.
Kế thừa những quan điểm trước đó và khi phê phán quan điểm của Phoiơbắc, Mác
đã khái quát bản chất con người qua câu nói : “Phoiơbắc hòa tan bản chất tôn giáo
vào bản chất con người. Nhưng bản chất con người không phải là cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa các quan hệ xã hội ”. Mác đã đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh về khái
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
7
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
niệm con người, bản chất con người, ông chỉ rõ hai mặt của con người là mặt sinh
học và mặt xã hội đặt trong mối quan hệ giữa chúng.
a) Bản chất sinh học của con người
Mác xem xét con người với tư cách là cá nhân sống, Mác viết: “vì vậy điều
cụ thể đầu tiên phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan
hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ và phần còn lại của giới tự nhiên”. Trước
hết, Mác thừa nhận con người là một động vật cao cấp nhất. Cũng như mọi động
vật khác, con người là bộ phận của tự nhiên hay nói cách khác, giới tự nhiên là
thân thể vô cơ của con người nên con người chịu sự chi phối của các quy luật
khách quan. Trong đó có những quy luật sinh học (đồng hóa – dị hóa, biến dị - di
truyền, tương quan giữa cơ thể và môi trường…). Và cùng điều kiện khách quan đã
tạo nên những nhu cầu sinh học của con người như ăn, ngủ, giao tiếp, nhận thức,
duy trì nòi giống … Để thích nghi và tồn tại được, cũng như bao loài vật khác con
người cũng phải đấu tranh sinh tồn. Từ đó đã định ra phương hướng và mục đích
hoạt động của con người nhằm phục vụ lợi ích cho mình. Tuy nhiên, Mác không
thừa nhận quan điểm cho rằng: cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính
sinh học và bản năng sinh vật của con người. Con người có đầy đủ các đặc trưng
của sinh vật tuy nhiên cũng lại có nhiều điểm phân biết với các sinh vật khác.

Trước Mác cũng đã có nhiều nhà tư tưởng lớn đã có những tiêu chí khác nhau phân
biệt giữa con người với các động vật khác như: con người khác con vật ở chỗ con
người biết sử dụng công cụ lao động (Phrankim) Arixtốt đã gọi con người là “một
động vật có tính xã hội”, Pascal thì nhấn mạnh đặc điểm của con người và sức
mạnh của con người là ở chỗ con người biết suy nghĩ. Các nhận định đó đều đúng
khi nêu lên một khía cạnh nào đó của con người tuy nhiên lại phiến diện vì không
nói lên được nguồn gốc của những đặc điểm ấy và mối quan hệ giữa chúng với
nhau. Với phép biện chứng duy vật, Mác đã chỉ ra được vai trò của lao động tạo ra
của cải vật chất “có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
8
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự
tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất
ra chính đời sống vật chất của mình”. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con
người đã làm thay đổi, cải biến tự nhiên (con người chỉ sản xuất ra bản thân nó còn
con người tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên).
Kết luận: Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự
tồn tại của con người và là tiền đề cho việc thể hiện bản chất xã hội của con người.
b) Bản chất xã hội của con người
Con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
- Con người là chủ thể của các mối quan hệ xã hội.
Con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan
hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người.
Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng đều mang tính xã hôi. Trong đó quan hệ
xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ
khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người, mà quan hệ đầu
tiên là quan hệ sản xuất. Vậy con người có tính xã hội, được biểu hiện trước hết

trong hoạt động sản xuất vật chất. Trong hoạt động sản xuất vật chất con người
không thể tách khỏi xã hội. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần để phục vụ cho đời sống của mình, đồng thời
hình thành và phát triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là cái vỏ vật chất của tư duy và
tư duy cũng chính là điểm phân biệt con người và các loài động vật khác. Tư duy
của con người phát triển trong hoạt động và giao tiếp xã hội mà trước hết là hoạt
động sản xuất. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
9
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
của con người, đồng thời hình thành nên nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã
hội.
- Con người là sản phẩm của các mối quan hệ xã hội
C. Mác đã nêu luận đề của mình trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc:
“Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội ”.
Luận đề trên đã khẳng định: không có con người trừu tượng thoát li mọi điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong
một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch
sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người đã tạo ra những giá trị vật chất
và tinh thần để tồn tại và phát triển cả về thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong mối
quan hệ đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại, quan hệ chính trị, kinh tế, quan
hệ cá nhân, gia đình, xã hội…) con người mới bộc lộ bản chất xã hội của mình. Từ
đó, con người có các nhu cầu xã hội được đáp ứng trên nền tảng đáp ứng nhu cầu
sinh học của con người.
Kết luận: Mặt thứ hai của bản chất con người đó là tổng hòa của những quan
hệ xã hội, giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu sai lệch về
mặt tự nhiên - cái sinh vật ở con người.
c) Con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
10
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
Từ những quan niệm trên, chúng ta có thể khẳng định rằng giữa bản chất
sinh học và bản chất xã hội của con người là một sự thống nhất không tách rời. Mặt
sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng, bản
chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hóa” để
mang giá trị văn minh của con người và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể
thoát li khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học.
Kết luận: Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau để tạo
thành CON NGƯỜI, con người tự nhiên – xã hội.
1.2. Nguồn lực con người
Con người sáng tạo ra lịch sử của mình và cũng là sản phẩm của lịch sử.
C. Mác khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người
là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục… Cái học thuyết ấy quên rằng
chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nàh giáo dục cũng
cần phải được giáo dục ”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên Ph. Ăngghen
viết: “Con người càng xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bào nhiêu thì con
người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là một thực thể của xã hội, con người tác động vào tự nhiên,
cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội. Không có
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Mặt xã hội
Mặt sinh học
11
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất
định của xã hội. Mặc dù, con người sáng tạo ra lich sử của mình, song vài trò quyết
định sự phát triển xã hội là thuộc về quần chúng nhân dân hay các cá nhân có phần
đặc biệt.

- Tư tưởng tôn giáo cho rằng mọi sự biến đổi trong xã hội là do ý chí của
đấng tối cao, là do “mệnh trời”, ý chí đó là do cá nhân thực hiện.
- Chủ nghĩa duy tâm cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử của các bậc vua
chúa, anh hùng hào kiệt, thiên tài lỗi lạc. Còn quần chúng nhân dân chỉ là lực lượng
tiêu cực, là “phương tiện” mà các vĩ nhân cần đến để đạt mục đích của mình.
- Những nhà tư tưởng đề cao vai trò của quần chúng nhân dân nhưng
không nhận thức được một cách khoa học vai trò đó. Có người đề cao vai trò của
quần chúng nhân dân nhưng lại phủ nhận hoàn toàn vai trò của cá nhân đặc biệt.
- Chủ nghĩa duy vật trước Mác tuy không tin vào Thượng Đế, thần linh
nhưng lại cho rằng: nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là tư tưởng, đạo
đức, là các vĩ nhân sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu.
- Còn chủ nghĩa Mác – Lênin đã chứng minh một cách khoa học vai trò của
quần chúng nhân dân trong lịch sử và xác định đúng đắn mối quan hệ giữa vai trò
cá nhân điển hình là lãnh tụ với quần chúng nhân dân trong lịch sử phát triển cảu xã
hội.
Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, được thể hiện
ở các mặt:
- Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp
sản xuất ra của của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và sự phát triển của của xã
hội.
Con người muốn tồn tại thì phải có những điều kiện vật chất hết sức cần thiết
đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở… mà những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng thông qua
sản xuất. Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
12
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
gồm lao động chân tay và lao động trí óc. Thực tiễn sản xuất là cơ sở và động lực
của sự phát triển khoa học kĩ thuật và khoa học kĩ thuật làm tăng năng suất lao
động của quần chúng nhân dân lao động. Điều đó khẳng định rằng, hoạt động sản
xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản đề quyết định sự tồn tại và phát

triển của xã hội.
- Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội
Trong xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX biểu hiện thành
mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Cách mạng xã hội sẽ xảy ra khi
QHXH không còn phù hợp với LLSX để xoá bỏ QHSX cũ thiết lập QHSX mới
phù hợp với sự phát triển của LLSX mới. Quần chúng nhân dân luôn là lực lượng
cơ bản và quyết định thắng lợi của cách mạng. Đó thực sự là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân chứ không phải của một vài cá nhân.
- Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, không thể thay thế trong sản xuất
tinh thần.
Hồ Chí Minh nhận định “ Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là
những người sáng tạo. Nhưng, quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của
cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa Những sáng tác ấy
là những hòn ngọc quý”.
Vậy quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định trong sự phát triển lịch sử,
vai trò đó được phát huy cao độ một khi đông đảo quần chúng thoát khỏi sự trói
buộc của những tư tưởng phản động, phản khoa học, những tập quán còn lạc hậu và
được giác ngộ những tư tưởng khoa học và cách mạng.
Theo quan điểm Mác- Lênin vai trò của quần chúng và vai trò của cá nhân
trong lịch sử không tách rời nhau trái lại có quan hệ khăng khít với nhau. Cá nhân
ưu tú lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm là con đẻ của phong trào quần chúng nên sức
mạnh của họ, trí tuệ của họ bắt nguồn từ quần chúng nhân dân. Lênin viết “ Trong
lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được thống trị, nếu nó không đào tạo ra
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
13
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị những đại biểu tiên phong
cúa đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào ”. Chủ nghĩa Mác- Lênin đánh giá
rất cao vai trò của cá nhân anh hùng của lãnh tụ trong sự phất triển của lịch sử
nhưng kiên quyết chống lại tề sùng bái cá nhân. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa

Mác- Lênin luôn coi sùng bái cá nhân là hiện tượng hoàn toàn xa lạ với hệ tư tưởng
của giai cấp vô sản.
2. Cơ sở thực tế
Nước ta đang tiến hành quá trình xây dựng nền kinh tế mới kinh tế thị trường
có sự quản lí, điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền
kinh tế ấy thì vấn đề con người càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Con người là mục tiêu đồng thời cũng là động lực của sự phát triển kinh tế-
xã hội. Là chủ thể sáng tạo nên lịch sử, con người đã thỏa mãn nhu cầu của mình
bằng cách góp phần đưa xã hội đi lên. Tiềm năng phong phú đa dạng của xã hội
loài người, là nguồn tài nguyên vô tận, quý báu nhấtvà ngày càng phát triển cùng
với sự phát triển của nền văn minh nhân loại. Trong nền kinh tế thị trường thì động
lực con người càng thể hiện rõ hơn trong nền sản xuất hàng hóa-nền sản xuất có sự
ứng dụng rộng rãi của các tiến bộ khoa học - kỹ thuật.
Sau chiến tranh, với nền kinh tế bao cấp, nước ta đã rơi vào tình trạng trì trệ
kém phát triển. Từ thực trạng đó, tại Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam đã nhìn
lại chặng đường đã qua và đã có những bước đi mới đó là chuyển đổi cơ cấu kinh
tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Với sự thay đổi đó thì vấn đề
con người được quan tâm chú trọng nhiều hơn và có nhiều cơ hội để phát huy vai
trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
II. Thực trạng các vấn đề nghiên cứu
1. Truyền thống con người Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
14
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
Giá trị đạo đức truyền thống là tiền đề cơ bản để tạo dựng nên đạo đức lành
mạnh của xã hội, góp phần giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc phát huy
mặt tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất mặt trái của thị trường.
1.1. Mặt tích cực
Tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống của con người Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.

- Con người Việt Nam có truyền thống yêu nước từ bao đời nay, như Lênin
đã viết chủ nghĩa yêu nước là “… một trong những tình cảm sâu sắc nhất được
củng cố qua hàng trăm năm, hàng ngàn năm của các tổ quốc biệt lập”. Yêu nước
đối với mỗi người dân Việt Nam là đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên hàng
đầu, chăm lo xây dựng đất nước, kiên quyết đấu tranh chống đô hộ và xâm lược,
bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Lòng yêu nước
là động lực tinh thần to lớn, có sức cổ vũ mạnh mẽ nhân dân ta trong sự nghiệp xây
dựng đất nước hiện nay. Có thể nói lòng yêu nước, thương người là giá trị định
hướng của các giá trị đạo đức, tinh thần truyền thống Việt Nam, là cơ sở chủ nghĩa
anh hùng, là tinh thần đoàn kết… của nhân dân ta.
- Người Việt Nam ta còn có truyền thống hiếu học từ ngàn xưa. Mặc dù
nước ta còn nghèo nàn lạc hậu nhưng không vì thế mà truyền thống hiếu học của ta
bị giảm sút. Ngược lại, chúng ta đã thể hiện tài năng, hiểu biết, kiến thức của mình
trên mọi lĩnh vực trong khu vực và trên thế giới.
- Gắn với truyền thống hiếu học còn có truyền thống tôn sư trọng đạo.
Nước ta có ngày 20/11 hàng năm là ngày nhà giáo Việt Nam để thể hiện lòng biết
ơn đối với các thầy cô giáo đã có công dạy dỗ chúng ta nên người. Cùng với đó, là
các mối quan hệ cộng động như quan hệ gia đình, họ hàng, làng xóm tiếp tục được
phát triển và ngày càng tốt đẹp. Đây là nét đẹp văn hóa của dân tộc ta và là khuynh
hướng chủ đạo chi phối tâm thức và hành vi của người Việt Nam hiện nay.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
15
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
Bên cạnh những giá trị truyền thống đó thì trong điều kiện kinh tế mới hiện
nay, nó đã được kế thừa và phát huy một cách tích cực theo hướng hiện đại hóa phù
hợp và đáp ứng mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh.
1.2. Hạn chế
Cuộc sống theo cơ chế thị trường “có những tác động tiêu cực mâu thuẫn với
bản chất của chủ nghĩa xã hội ” (Đảng cộng sản Việt Nam) làm cho nhiều giá trị

truyền thống cũng được thay đổi theo hướng đó, dần làm mất đi bản sắc dân tộc.
Hiện tượng suy thoái về đạo đức do ham muốn làm giàu bằng mọi giá đã dẫn
tới một số người đến với những hành vi vi phạm lợi ích của cộng đồng như tham
nhũng, làm ăn bất lương (buôn lậu, làm hàng giả…) và sa vào các tệ nạn xã hội
khác (trộm cướp, cờ bạc…) làm thiệt hại lớn cho nhà nước. Những tệ nạn xã hội
trước đây chỉ diễn ra tự phát với quy mô nhỏ thì nay có nguy cơ lan rộng và mang
tính tội phạm có tổ chức cao với hình thức tinh vi hơn và quy mô không chỉ giới
hạn ở một quốc gia mà là xuyên quốc gia.
Bên cạnh đó, các di sản văn hóa dân tộc cũng không được quan tâm đúng
mức. Theo số liệu thống kê những năm gần đây cho thấy: Số người thăm viếng các
công trình văn hóa, di tích lịch sử của quê hương đất nước chiếm tỉ lệ rất nhỏ
(khoảng dưới 10%) và đối với các loại hình nghệ thuật truyền thống, số người ham
thích cũng ở mức hạn chế (chèo khoảng 18,59%, tuồng khoảng 6,8% ). Xã hội
phát triển đi liền với nó là những quan niệm về đạo đức mới cũng ngày càng phát
triển, con người mới nhìn xã hội theo cách riêng của họ mà đôi khi xem nhẹ giá trị
truyền thống.
Nền giáo dục của nước ta hiện nay đang phát triển mạnh. Việc tiến hành phổ
cập tiểu học đã giải quyết được hơn 90% nạn mù chữ ở nước ta. Bên cạnh những
thành tựu mà ta đã đạt được về mặt giáo dục nhưng vẫn còn có những chính sách
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
16
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
giáo dục còn chưa thực sự đúng đắn. Chúng ta coi trọng về mặt tự nhiên nhiều hơn
về mặt xã hội, nên sự hiểu biết về mặt dân tộc, về các giá trị truyền thống khác của
dân tộc của học sinh, sinh viên còn rất hạn hẹp. Một tình trạng khá phổ biến ở đây
là có rất nhiều học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường loại khá giỏi nhưng vấn đề
truyền thống dân tộc, lịch sử dân tộc lại không biết một chút gì. Điển hình, trong kì
thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2006, có một số lượng không nhỏ thí sinh bị
điểm 0 đối với các môn lịch sử, địa lý, có khá nhiều những bài văn được đánh giá
là “văn lạ”.

Những thực trạng trên đây là một thách thức lớn đối với sự nghiệp Đổi mới,
công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
1.3. Nguyên nhân của thực trạng
Con người sống trong nền kinh tế thị trường coi nặng vật chất hơn tinh thần.
Nền kinh tế mới luôn có sự cạnh tranh quyết liệt, để có thể tồn tại và phát triển
được con người đã dần hình thành nên một nét mới, đó là xem nặng giá trị vật chất,
giá trị tinh thần cũng được quy đổi về giá trị vật chất.
Hơn nữa, mặt trái của hội nhập quốc tế đó là: trong khi các nước trên thế giới
đang tăng cường giao lưu trao đổi văn hóa, sự mở rộng quan hệ quốc tế, bên cạnh
những nét đẹp, nét mới đáng học hỏi của các bạn thì còn có những luồng văn hóa
xấu xâm nhập vào nước ta bằng những con đường khác nhau. Nhất là giới trẻ đã
làm cho quan niệm sống của họ thay đổi và hình thành nên quan niệm sống mới.
Mặt khác, sự thờ ơ, thiếu quan tâm của mọi người đến các giá trị truyền
thống làm cho nó dần dần bị mai một đi theo sự phát triển của xã hội.
Như vậy, những giá trị truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta từ trước tới nay
vẫn đang được phát huy. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau mà những
mặt tiêu cực có xu hướng tăng lên.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
17
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
2. Nhân cách con người Việt Nam
Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân.
Nhân cách là sự tổng hợp các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội tạo nên mỗi đặc trưng
riêng của mỗi cá nhân. Nhân cách đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự
khẳng định và tự điều chỉnh mọi hành vi của mình.
2.1. Mặt tích cực
Nhân cách khẳng định lòng yêu nước, ý thức bảo vệ Tổ quốc của con người
Việt Nam hình thành và phát triển trên cơ sở lịch sử vững chắc, được tôi luyện
trong đấu tranh dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm. Từ khi có Đảng lãnh đạo
thì lòng yêu nước và ý thức bảo vệ Tổ quốc ngày càng cao biến thành sức mạnh to

lớn chiến thắng hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ngày
nay nó góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhân cách làm cho con người xác định đúng đắn về lẽ sống, lối sống, nếp
sống nghĩa là biết sống lương thiện, tử tế, có trách nhiệm với chính bản thân mình
và xã hội. Khi đời sống vật chất và các yêu cầu về ăn mặc được nâng cao thì con
người lại nâng cao trình độ học vấn của mình để tăng thêm sự hiểu biết. Con người
bây giờ nhìn nhận một vấn đề cũng khá đầy đủ các tri thức cần thiết, đồng thời hình
thành nên một kiểu nhân cách mới, không phủ nhận quá khứ dân tộc mà nhìn cuộc
sống hiện nay với con mắt riêng của thế hệ mình. Bác Hồ đã viết: “Nước độc lập
mà dân không được hạnh phúc thì độc lập ấy có ý nghĩa gì?”. Vì thế, thế hệ trẻ
hiện nay đang tiếp bước cha ông ta, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Ngoài ra,
họ còn hăng hái học tập, thi đua, tham gia vào quá trình công nghiệp hóa - hiện đại
hóa để phát triển kinh tế đất nước. Sự hình thành nhân cách là hiên tượng tất nhiên,
hợp với quy luật của lịch sử. Chính nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy việc hình
thành nhân cách, đòi hỏi con người phải năng động sáng tạo hơn, tự mình phải làm
chủ được mình, tự quyết định vận mệnh của mình, từ đó góp phần quyết định vận
mệnh của đất nước.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
18
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
2.2. Hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực trong nhân cách con người Việt Nam hiện nay
song vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế. Đó là :
Xu thế của con người Việt Nam hiện nay là động cơ vật chất lấn át nhu cầu
đạo đức và chính trị. Con người ngày nay không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của mình. Vì lòng tham, nhiều người đã đi quá giới hạn cho phép. Vì
địa vị xã hội, vì sự giàu có, đôi khi họ đã đi “đường tắt” mà không tự nâng cao
trình độ của mình. Mối quan hệ giữa người với người bị chi phối bởi đồng tiền và
lợi ích vật chất, làm cho mối quan hệ gia đình, bạn bè … được giải quyết bằng tiền
bạc hay các giá trị vật chất khác. Lối sống thực dụng vừa là nguyên nhân vừa là hậu

quả của sự xung đột giữa các thế hệ, các thành viên trong gia đình và các tầng lớp
trong xã hội.
Nhân cách con người trong giáo dục đạo đức bị buông lỏng, kém hiệu quả.
Tình trạng thanh thiếu niên phạm pháp ngày càng gia tăng và có xu hướng phát
triển mạng mẽ. Sự suy đồi về lối sống tạo nên sự li tán gia đình, con cái có chiều
hướng tăng lên, đó là một trong những tác động làm tăng tỉ lệ phạm tội ở phụ nữ và
trẻ em. Những hành vi lệch chuẩn phổ biến hơn đồng thời những chuẩn mực đạo
đức cũng có những thay đổi nhất định. Chính những thay đổi này trong ý thức, đã
góp phần tác động trực tiếp đến tình hình trật tự an toàn xã hội ở nước ta khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó, tình trạng thi hành pháp luật không nghiêm, thiếu đồng bộ
trong các cơ quan thực thi pháp luật đã góp phần tạo nên tâm lý coi thường pháp
luật của người dân. Tính nghiêm minh của pháp luật không được đảm bảo nên
nhiều kẻ phạm tội vẫn sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, khuyến khích phạm tộ
hoặc lôi kéo người khác phạm tội. Mù quáng trước tiền bạc, không ít người đã mất
đi lý tưởng, ước mơ và nhân cách của chính bản thân mình.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
19
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
2.3. Nguyên nhân của thực trạng
Nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội giữa cái cũ và cái mới
chưa có sự phân chia rõ ràng, con người cũ và con người mới còn tồn tại nhiều mâu
thuẫn, đấu tranh giữa cái cũ và cái mới là cả một quá trình lâu dài. Và đôi khi con
người ta xác định sai lệch những chuẩn mực về lẽ sống, về quan niệm sống dẫn đến
những hành vi lệch lạc, trái với đạo đức của con người.
Mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập mang lại, nếu mỗi người không tự
cố gắng, không biết giữ mình thì sẽ tự đào thải mình ra khỏi cuộc sống. Hiện nay
không ít người đã quá dễ dãi với bản thân mình, không cho mình vào khuôn khổ
cuộc sống, để cho bản thân tiếp xúc với những nếp sống mới, những luồng văn hóa
mới trong đó có cả xấu và tốt mà không có chọn lọc. Những ảnh hưởng của văn

hóa, lối sống thực thực dụng, đồi trụy từ bên ngoài xâm nhập vào nước ta qua nhiều
con đường khác nhau là ô nhiễm đời sống văn hóa, tinh thần của xã hội mà đối
tượng được chú ý ở đây là tầng lớp thanh thiếu niên.
Chạy theo lợi nhuận của cơ chế thị trường, con người đã đánh mất đi chính
mình. Lối sống tiêu dùng đã tạo nên một môi trường xã hội luôn kích thích con
người sống hưởng thụ dẫn đến những tệ nạn xã hội nảy sinh như cờ bạc, nghiện
hút, mại dâm … hay một số người muốn hưởng thụ nhưng vượt quá khả năng của
mình thì con đường ngắn nhất là vi phạm pháp luật.
Đây là những nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa biến chất của một số người
trong xã hội, làm mất đi nhân cách của chính họ trong đời sống hiện nay.
3. Nguồn lực con người
Nguồn lực con người là tổng thể các yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo
đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội … tạo nên năng lực của con người,
của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
20
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
hội của đất nước. Để nhanh chóng trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại, Đảng ta đã “lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho việc
phát triển nhanh và bền vững”, còn việc “nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy
nguồn lực to lớn của người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công
nghiệp hóa - hiện đại hóa” (Văn kiện Đại hội Đảng VIII). Do vậy, khai thác và sử
dụng nguồn nhân lực là vấn đề quan trọng góp phần thực hiện thành công công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
3.1. Mặt tích cực
Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào, số người ở độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ
cao trong xã hội. Con người được coi là nguồn lực cơ bản để tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội. Trong khi các tài nguyên khoáng sản khác trong tự nhiên
đang bị cạn kiệt dần thì trong xã hội loài người lại có một nguồn tài nguyên vô tận,
vô giá, quý báu nhất và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của nền văn

minh nhân loại. Mà đội ngũ lao động của nước ta khá đông nên tạo điều kiện thuận
lợi cho đất nước trong công cuộc đổi mới hiện nay. Con người không những là
động lực mà còn là mục tiêu cho sự phát triển kinh tế.
Giáo dục là mục tiêu mà nhà nước ta phát huy nguồn lực con người. Đảng và
Nhà nước ta đã khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, tạo điều
kiện thuận lợi để “cả nước thành một xã hội học tập”. Trong quá trình giảng dạy,
học tập, đã tìm mọi biện pháp để thực hiện “phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và
sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và
tay nghề”(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX). Trong mấy chục năm
qua chúng ta đã đào tạo được một đội ngũ tri thức đông đảo (hơn 10.000 người có
trình độ trên Đại học,hơn 1 triệu người có trình độ Đại học…) đang công tác trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, ta đã tiếp cận được tiến bộ khoa học kĩ
thuật nhanh, đã có những thành tựu đáng khen ngợi trong lĩnh vực công nghệ thông
tin, phần mềm…
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
21
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nguồn lực con người phát huy được vai trò của
mình. Cố vấn Đỗ Mười đã khẳng định : “Có trình độ có kiến thức mới nắm bắt
được thời cơ, thực hiện được nhiệm vụ khó khăn phức tạp trong hoàn cảnh mới…
không có kiến thức thiếu trìng độ hiểu biết sẽ trở thành lực cản của sự phát triển”.
Phát huy tinh thần đại hội VI và kế tục truyền thống hiếu học từ xưa, lớp trẻ đã có ý
thức rõ được tầm quan trọng của việc nâng cao kiến thức, góp phần thúc đẩy sự
phát triển của công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Sự chuyển đổi từ nền kinh
tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường là một bước ngoặt lớn đánh dấu sự phát triển
mới, đòi hỏi con người phải tăng khả năng thích ứng để phù hợp với sự phát triển
của nền kinh tế đất nước.
Như đã nói, vai trò của con người qua mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau là
khác nhau, nên tính tích cực của con người sẽ thực sư trở thành động lực hùng
mạnh cho sự phát triển của xã hội khi nó hướng theo quỹ đạo phát triển khách quan

của sự vật, khi ý chí nghị lực của quần chúng được kết hợp chặt chẽ với sự hiểu
biết của các quy luật phát triển khách quan.
3.2. Hạn chế
Hạn chế trong việc phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam, trước hết
chúng ta đề quá cao mặt xã hội, xem nhẹ mặt tự nhiên, không quan tâm đúng mức
nhu cầu vật chất, chưa thực sự chú ý đến lợi ích cá nhân người lao động, vai trò cá
nhân bị lu mờ, tài năng cá nhân không được khuyến khích, tính cách riêng của cá
nhân không được thừa nhận.
Có lúc ta coi nhẹ tính nhân loại mà đề cao tính giai cấp, chưa làm theo đúng
tính quy luật của chủ nghĩa Mac-Lênin đã đề ra: “Chủ nghĩa xã hội là sự tiếp nối
quá trình phát triển của nhân loại, phải biết tiếp thu những di sản của quá khứ một
cách chọn lọc, nâng nó lên tầm cao mới” dẫn đến sự thiếu hiểu biết về truyền
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
22
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
thống văn hóa dân tộc gây khó khăn cho quá trình hội nhập quốc tế của nước ta
hiện nay.
Tình trạng quan liêu trong bộ máy nhà nước, một bộ phận cán bộ tham
nhũng cửa quyền, vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân đang làm biến dạng
nhân cách con người, không ít kẻ lợi dụng chui vào tổ chức Đảng, cơ quan Nhà
nước gây ra những tác động xấu đang làm xói mòn lòng tin của quần chúng đối với
Đảng và Nhà nước ta.
Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở vùng sâu vùng xa, đại bộ phận
người lao động bị thất nghiệp ở thành thị gây ra sự lãng phí lớn về nguồn lực con
người ở nước ta hiện nay. Trong khi đó sinh viên ra trường đa số không muốn trở
về quê mà lại ở thành phố,làm cho sự phận bố lao động giữa thành thị và nông thôn
chưa hợp lý.
Năng lực lao động ở nước ta còn hạn chế so với các nước trong khu vực.
Tình trạng thiếu lao động trí thức là phổ biến,nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn
trong việc tuyển dụng lao động, mặc dù hàng năm có hàng nghìn sinh viên ra

trường nhưng vẫn không có việc làm. Trong khi đó trình độ tay nghề và trình độ
văn hóa chưa đồng đều,dẫn đến một tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”. Nước ta đang
chuyển đổi xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thực sự đòi hỏi số
lượng không nhỏ nguồn lao động, lao động nước ta hiện hàng năm vẫn tăng nhưng
nước ta vẫn đứng trước tình trạng báo động là thiếu các chuyên gia công nghệ,
thiếu các cán bộ dẫn đầu trong khoa học. Đây là khó khăn khi thực hiện công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
3.3. Nguyên nhân của thực trạng
Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, thực
sự đó là một nhiệm vụ khó khăn đối với nước ta. Dân số của nhân dân ta còn nhiều
khó khăn, tình trạng nghèo đói còn tồn tại ở đại bộ phận dân cư, do vậy việc tạo
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
23
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
điều kiện phát triển con người còn nhiều hạn chế.
Những ảnh hưởng của phong tục tập quán, thói quen của người sản xuất nhỏ
như: thiếu ý thức kỷ luật, cách nhìn thiển cận, tâm lý tư tưởng, kể cả các phong tục
gia trưởng trong giáo dục và đánh giá mỗi con người…
Sự gia tăng dân số sau chiến tranh tất yếu dẫn đến sự gia tăng của lực lượng
lao động.Ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục và phát huy nguồn lực con người
Tư tưởng chủ quan nóng vội muốn tiến nhanh lên CHỦ NGHĨA XÃ HỘI đã
có những hạn chế nhất định, trong sự quản lý và điều tiết nhà nước.
Sự đầu tư cho giáo dục còn nhiều hạn chế “Công tác quản lý giáo dục –đào
tạo có những mặt yếu kém bất cập” (Văn kiện Đại hội lần thứ hai ban chấp hành
TW khóa VIII). Phương pháp giáo dục còn chưa kích thích được tính sáng tạo của
người học,chưa gắn kết được lý luận với thực tiễn cuộc sống. Tình trạng tiêu cực
còn phổ biến ở nhiều nơi, chất lượng giáo viên còn nhiều hạn chế. Những điều đó
đang ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo và phát huy nguồn nhân lực trong giai đoạn
hiện nay.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc

tế,một mặt cũng tạo tác động tích cực, mặt khác nó cũng tạo ra các mặt tiêu cực
như lối sống thực dụng,vì chức vì quyền không ít người bất chấp đạo lý. Nó đã gây
ra ảnh hưởng xấu trong xã hội. Đây chính là những nguyên nhân hạn chế nguồn lực
con người đòi hỏi nhà nước ta phải có những biện pháp, chính sách để phát huy
được tối đa nguồn lực con người hiện nay.
III. Những giải pháp để phát huy nguồn lực con người
1. Trong lĩnh vực kinh tế
Phải nâng cao vị thế của người lao động trong quá trình sản xuất. Cần nhanh
tróng khắc phục tình trạng tách người lao động ra khỏi tư liệu sản xuất, ở mọi thành
phần kinh tế.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
24
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
Phải phát huy những thành tựu đã đạt được,nâng cao chất lượng, số lượng
đội ngũ trí thức phục vụ cho CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA, mở rộng
quy mô đào tạo đại học và sau đại học, trong mọi lĩnh vực nhất là quản lý kinh
doanh để họ trở thành đội ngũ hùng mạnh đủ trình độ để làm chủ công nghệ tiến tới
khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Nhà nước cần có chính sách bố trí sử dụng trí thức miền núi cho phù hợp
tăng số lượng và chất lượng đội ngũ trí thức thuộc dân tộc thiểu số. Cần giả quyết
tốt việc đào tạo tại chỗ theo phương thức cử tuyển điều chỉnh chế độ học bổng để
tạo điều kiện tốt hơn cho học tập.
Cần tăng số lượng đào tạo trí thức ở nước ngoài tăng cường giao lưu kỹ thuật
khoa học, đưa trí thức đi học ở một số nước có trình độ khoa học công nghệ, phát
triển cao nhất là ở những ngành mũi nhọn. Bên cạnh đó căn cứ vào yêu cầu phát
triển của các ngành, các vùng lãnh thổ tổ chức bố trí lại lực lượng lao động một
cách hợp lý trên phạm vi cả nước theo hướng đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn.
2. Trong lĩnh vực chính trị
Nâng cao trình độ cán bộ,giảng viên và nhân dân về nhận thức chính trị (chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta), về luật pháp, về
nhà nước của dân, do dân, vì dân từ đó nâng cao trách nhiệm và năng lực của họ,
tích cực tham gia vào công việc Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị ở nước ta.
Tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát quần chúng nhân dân trong mọi hoạt
động của bộ máy nhà nước, khắc phục tình trạng trì trệ ,bảo thủ của một số cơ quan
nhà nước.
Giáo dục nâng cao ý thức tự lực tự cường dân tộc, trách nhiệm công dân và
bản lĩnh chính trị của mỗi người dân.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
25
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
3. Trên lĩnh vực xã hội - văn hóa tư tưởng
Từng bước khắc phục những phong tục tập quán lạc hậu,những quan hệ
không bình đẳng,xây dựng quan hệ mới giữa người vói người trên tinh thần tương
trợ giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất cũng như trong đời sống xã hội.
Thực hiện những biện pháp giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa các tầng
lớp dân cư, các vùng lãnh thổ. Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, tập trung
giải quyết những vấn đề cấp bách về lao động việc làm, trên cơ sở đó, người lao
động mới có điều kiện nâng cao trình độ trí thức, tay nghề của mình góp phần cống
hiến cho đất nước, cho xã hội.
Cần phải tăng cường giáo dục pháp luật trong nhà trường và đưa pháp luật
vào trong đời sống để nó trở thành một phần không thể thiếu được trong cuộc sống
của mỗi người.
Trên đây là những biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế đồng thời phát
huy được thế mạnh nguồn lực con người.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
26
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
C – KẾT LUẬN
Nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và

sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nói riêng là một vấn đề rộng lớn, trong
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lân thứ IX của Đảng đã chỉ ra: xây dựng con
người Việt Nam có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự lực tự
cường dân tộc,trách nhiệm cao trong lao động, có lương tâm nghề nghiệp, có tác
phong công nghiệp, có ý thức cộng đồng, tôn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa,
quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Phát huy được nguồn lực con
người phục vụ vào công cuộc xây dựng nền kinh tế mới có ý nghĩa quan trọng. Nó
góp phần đưa đât nước phát triển giàu mạnh hơn, thoát khỏi cảnh đói nghèo, lạc
hậu để có vị thế trên thị trường quốc tế.
Muốn vậy, chúng ta cần phải không ngừng tăng cường phát huy sức mạnh
vốn có của ta,tạo ra môi trường thuận lợi nhất để cho đội ngũ tri thức trẻ học tậo và
ứng dụng. Nói chung, trong xây dựng nền kinh tế mới thì con người là nhân tố
quyết định và chi phối sự phát triển của đất nước.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
27

×