Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

BÀI KIỂM TRA HTCTTG anh (chị) hãy phân tích những ưu điểm, hạn chế của hệ thống chính trị việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.95 KB, 15 trang )

BÀI KIỂM TRA
Mơn: Hệ thống chính trị thế giới đương đại
Đề bài: Anh (chị) hãy phân tích những ưu điểm, hạn chế của hệ
thống chính trị Việt Nam.
Qua gần 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, với sự nỗ lực phấn
đấu cao độ của toàn Đảng, toàn dân, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, chúng ta đang đứng trước yêu cầu
mới của sự phát triển ở tầm cao hơn trước. Trong thời kỳ phát triển mới,
bên cạnh những cơ hội, thuận lợi, đất nước ta còn phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức to lớn, trước tình hình đó địi hỏi chúng ta phải nỗ
lực cao độ nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ đưa sự nghiệp cách mạng
tiếp tục vững bước tiến lên.
Để đáp ứng với yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi tồn
bộ hệ thống chính trị ở nước ta phải được kiện toàn, đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động. Nhưng muốn kiện toàn, đổi mới trước hết chúng
ta phải hiểu được thực trạng của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay,
đánh giá đúng những ưu điểm và hạn chế từ đó đề ra những giải pháp
khắc phục và đưa hệ thống chính trị Việt Nam phát triển theo đúng định
hướng XHCN và bắt nhịp cùng thế giới.
1. Khái quát chung về hệ thống chính trị của nước ta hiện nay
Trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay
có thể phân biệt ba loại thiết chế là:


- Tổ chức chính trị (Đảng cộng sản Việt Nam), Nhà nước Cộng
hịa XHCN Việt Nam;
- Tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần
chúng như Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Cơng đồn, Hội nơng
dân, Hội cựu chiến binh; và một số tổ chức chính trị - xã hội - nghề
nghiệp như Liên hiệp các hội khoa học, kĩ thuật Việt Nam, Liên hiệp các
hội hữu nghị Việt Nam, Hội nhà báo Việt Nam...


- Tổ chức xã hội: Các hiệp hội kinh tế, các tổ chức xã hội nghề
nghiệp và các tổ chức xã hội khác...
Các tổ chức chính trị - xã hội thống nhất giữa hai mặt chính trị và
xã hội. Điều này thể hiện sự tập hợp đoàn kết các lực lượng quần chúng
đông đảo để thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.
Phương thức tổ chức và hoạt động của các tổ chức này tuy khác với tổ
chức Đảng và các cơ quan nhà nước nhưng đều gắn chặt với việc thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao phó. Các tổ
chức chính trị - xã hội là hình thức tổ chức động viên, triển khai nguồn
lực con người cho các mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
trong công cuộc do Đảng lãnh đạo, Nhà nước thống nhất quản lí. Cùng
với Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội hợp thành hệ thống
chính trị Việt Nam, trong đó Đảng giữ vai trị và trọng trách là người
lãnh đạo trực tiếp. Trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam, với tính
chất chính trị và tính chất xã hội rộng lớn, các tổ chức chính trị - xã hội


đóng vai trị là người tổ chức, vận động đơng đảo quần chúng nhân dân
thực hiện các nhiệm vụ đặt ra đối với cách mạng Việt Nam thơng qua
những hình thức phù hợp.
Việt Nam nước ta hiện nay là một nước theo chế độ xã hội chủ
nghĩa. Hệ thống chính trị đã thực hiện theo cơ chế chỉ duy nhất một
Đảng chính trị( là Đảng Cộng Sản Việt Nam) lãnh đạo, với tôn chỉ là:
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ thông qua cơ
quan quyền lực là Quốc hội Việt Nam. Trên thực tế hiện cho đến nay
(12/2009) các đại biểu là Đảng viên trong Quốc hội có tỉ lệ từ 90% trở
lên, những người đứng đầu Chính phủ, các Bộ và Quốc hội cũng như các
cơ quan tư pháp đều là Đảng viên kỳ cựu và được Ban chấp hành Trung
ương hoặc Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam đề cử.
Quốc hội, theo hiến pháp là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân

dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã Chủ
Nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp và lập
hiến. Nhiệm vụ của Quốc hội là giám sát, quyết định những chính sách
cơ bản về đối nội và đối ngoại, các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh, những nguyên tắc củ yếu của bộ máy Nhà nước, về quan
hệ xã hội và hoạt động của công dân. Nhiệm kỳ Quốc hội là 5 năm. Chủ
tịch Quốc hội được Quốc hội bầu do đề cử của ban chấp hành Trung
ương. Chủ tịch Quốc hội hiện nay là ông Nguyễn Phú Trọng.


Chủ tịch nước, theo hiến pháp là người đứng đầu Nhà nước được
Quốc hội bầu do Chủ tịch Quốc hội giới thiệu từ đề cử của Ban Chấp
hành Trung Ương. Chủ tịch nước có 12 quyền hạn theo Hiến Pháp trong
đó quan trọng nhất là: cơng bố hiến pháp, luật, pháp lệnh, thống lĩnh các
lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng
và An ninh, đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm Phó Chủ tịch nước,Thủ
tướng, Chánh án Tòa án tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao.
Nhiệm kỳ của chủ tịch nước là 5 năm. Khơng có quy định giới hạn số
nhiệm kỳ được làm Chủ tịch nước. Chủ tịch nước hiện nay là ơng
Nguyễn Minh Triết.
Chính phủ, theo hiến pháp là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ
quan hành chính Nhà nước cao nhất cảu nước Cộng Hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam. Chính phủ sự giám sát và thực hiện chế độ báo cáo
công tác trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Nhiệm kỳ Chính phủ là 5 năm. Chính phủ gồm các Phó Thủ tướng, các
Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Đứng đầu Chính phủ là
Thủ tướng Chính phủ do Chủ tịch nước giới thiệu từ đề cử của Ban
Chấp hành Trung ương để Quốc hội bầu. Khơng có quy định giới hạn
nhiệm kỳ làm Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ hiện nay là
ơng Nguyễn Tấn Dũng.



Các Phó Thủ tướng do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, là
người giúp việc cho Thủ tướng và được Thủ tướng ủy nhiệm khi vắng
mặt. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ do Thủ tướng đề
nghị Quốc hội phê chuẩn, đảm nhiệm chức năng quản lý Nhà nước đối
với ngành hoặc lĩnh vực công tác được giao. Việc tổ chức nhân sự cấp
cao này đều thông qua Bộ Chính trị và các viên chức này đều do Bộ
Chính trị quản lý. Các Thứ trưởng và chức vụ tương đương do Thủ
tướng bổ nhiệm nhưng Ban Bí thư thơng qua và quản lý.
Chính phủ nước ta hiện có 18 Bộ và 4 cơ quan ngang bộ. Chính phủ cịn
quản lý 8 cơ quan truyền thơng trực thuộc như Thơng Tấn xã Việt Nam,
Đài truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam,…
Mỗi loại tổ chức chính trị - xã hội lại có vai trị riêng, chẳng hạn
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị - tổ chức liên hiệp tự
nguyện của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai
cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo; là tổ chức đại diện cho ý
chí đại đồn kết và nguyện vọng chân chính của nhân dân; nơi tập hợp
trí tuệ của con người Việt Nam yêu nước, nơi thống nhất hành động giữa
các tổ chức thành viên, phối hợp với chính quyền thực hiện nền dân chủ,
chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; giám sát,
bảo vệ, tham gia xây dựng nhà nước, quản lí xã hội. Mặt trận Tổ quốc có
chức năng tham chính, tham nghị và giám sát; đồn kết nhân dân, chăm
lo đời sống, lợi ích của các thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã


hội, thực thi quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Tổng Liên đồn lao động Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội
rộng lớn của giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao

động tự nguyện lập ra nhằm mục đích tập hợp, đồn kết lực lượng, xây
dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và
bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động,
phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam có tính chất quần chúng và
tính chất giai cấp cơng nhân, có chức năng: Đại diện và bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của cơng nhân viên chức lao động;
tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra,
giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục,
động viên công nhân viên chức lao động phát huy quyền làm chủ đất
nước, thực hiện nghĩa vụ cơng dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã
hội tập hợp tầng lớp thanh niên, là đoàn thể của các thanh niên ưu tú, đội
hậu bị của Đảng. Tổ chức Đoàn được thành lập trên phạm vi cả nước, có
mặt ở hầu hết các cơ quan, đơn vị, tổ chức từ trung ương đến cơ sở
nhằm thu hút thế hệ trẻ vào những hoạt động xã hội bổ ích, lành mạnh,
qua đó giáo dục ý thức tơn trọng pháp luật cho đồn viên thanh niên.


Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của
giới nữ, có chức năng đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp
pháp và chính đáng của phụ nữ, tham gia quản lý Nhà nước, tham gia
xây dựng Đảng. Hội đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ
thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp
nơng dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hịa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Hội nông dân Việt Nam vận động giáo dục hội

viên, nơng dân phát huy quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao trình
độ, năng lực về mọi mặt; đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng
Đảng và Nhà nước; chăm lo bảo vệ các quyền và lợi ích của nơng dân
Việt Nam.
Hội Cựu chiến binh Việt Nam là đồn thể chính trị - xã hội, thành
viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, một tổ chức trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, hoạt động theo đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Hội. Mục đích
của Hội là tập hợp, đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ cựu chiến


binh giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích
cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng,
xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ, bảo vệ quyền lợi chính
đáng và hợp pháp của cựu chiến binh, chăm lo giúp đỡ nhau về tinh thần
và vật chất trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.
Ngồi các tổ chức trên đây, nhiều tổ chức xã hội khác cũng được
coi là tổ chức chính trị - xã hội như Liên hiệp các hội khoa học kĩ thuật
Việt Nam (VUSTA), Hội Nhà báo Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu
nghị Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam... Đây là điểm có ý nghĩa rất
quan trọng đồng thời cũng là một xu hướng phát triển của các thiết chế
xã hội trong thời kì đổi mới, nhất là ở giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một số hội nghề nghiệp, hội của
các nhà trí thức, các nhà khoa học, khơng chỉ đơn thuần mang tính chất
đồn thể xã hội mà các tổ chức này cũng đóng vai trị to lớn trong việc
thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất nước.
Hơn bao giờ hết, hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang động viên
và phát huy cao độ vai trò của đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, các
doanh nhân trong việc hoạch định và thực thi đường lối, chính sách phát

triển đất nước. Có thể nói rằng đó là xu hướng tất yếu trong quá trình
xây dựng và củng cố nền dân chủ XHCN ở Việt Nam mà một trong
những biểu hiện có tính đặc trưng là sự tác động tương hỗ dẫn đến sự
hài hịa hóa giữa các yếu tố chính trị và kinh tế - xã hội.



Chương 3
Kết luận và
Đánh giá sự thực hiện đường lối
Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta đã có nhiều
đổi mới góp phần xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị được sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Hoạt
động của hệ thống chính trị ngày càng hướng về cơ sở. Quốc hội, Chính
phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp trong các khố đã có
nhiều đổi mới theo hướng phát huy dân chủ, cải cách hành chính, cơng
khai các hoạt động của chính quyền, tăng cường đối thoại, tơn trọng và
lắng nghe ý kiến của nhân dân. Dân chủ trong xã hội có bước phát triển.
Trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng
lên.
Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước được phân định rõ hơn,
phân biệt quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh. Nhà nước
được từng bước kiện toàn, từ cơ cấu tổ chức đến cơ chế hoạt động trên
các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội đã có nhiều đổi mới về tổ
chức, bộ máy; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đa dạng hố
các hình thức để tập hợp ngày càng đơng đảo các tầng lớp nhân dân;



phát huy dân chủ; chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân;
tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tham gia xây dựng và củng cố
chính quyền; hướng mạnh hoạt động về cơ sở, bước đầu thực hiện nhiệm
vụ giám sát và phản biện xã hội.
Đảng đã thường xuyên coi trọng việc đổi mới và tự chỉnh đốn, giữ
vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta trong điều kiện mới. Phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị, phong cách cơng tác có nhiều đổi mới
và tiến bộ; dân chủ trong Đảng được phát huy, quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân được củng cố.
Tóm lại, hơn 20 năm qua, hệ thống chính trị đã thực hiện có kết
quả một số đổi mới quan trọng, đặc biệt là quyền làm chủ của nhân dân
trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hoá được phát
huy.
Các kết quả đạt được đã khẳng định đường lối đổi mới nói chung,
đường lối đổi mới hệ thống chính trị nói riêng là đúng đắn sáng tạo, phù
hợp thực tiễn, bước đầu đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, khắc phục
dần những khuyết, nhược điểm của hệ thống chun chính vơ sản trước
đây. Kết quả đổi mới hệ thống chính trị đã góp phần làm nên những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở nước ta.


Tuy nhiên trong thực tế vận hành hệ thống chính trị nước ta còn
nhiều nhược điểm. Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực
quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa ngang tầm với địi hỏi của
tình hình nhiệm vụ mới.
Trong việc xây dựng chiến lược về cán bộ cho thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước đến năm 2020, Nghị quyết
Trung ương 3 đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ,

công chức có phẩm chất và năng lực, coi đó là yếu tố quyết định đến
chất lượng bộ máy nhà nước. Cán bộ lãnh đạo phải được đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức tồn diện, được bố trí, điều động theo nhu cầu và lợi ích
của đất nước. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Nghị quyết Trung ương
7 (khoá VIII), đã biểu thị một quyết tâm chính trị rất lớn về việc tiếp tục
tiến hành cải cách hành chính, đặt cải cách hành chính trong tổng thể của
đổi mới hệ thống chính trị.
Cải cách hành chính ở Việt Nam là cơng việc mới mẻ, diễn ra
trong điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành chính
nhà nước trong thời kỳ mới, có nhiều vấn đề phải vừa làm, vừa tìm tịi
rút kinh nghiệm.Việc cải cách nền hành chính quốc gia cịn rất hạn chế.
Bộ máy hành chính cịn nhiều tầng nấc làm cho việc quản lý các quá
trình kinh tế - xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có hiệu quả cao. Tình


trạng quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu của một bộ phận công chức nhà
nước chưa được khắc phục; kỷ cương, phép nước bị xem thường ở nhiều
nơi. Vì vậy, việc hình thành quan niệm và những nguyên tắc cơ bản chỉ
đạo cơng cuộc cải cách hành chính cũng như việc đề ra những nội dung,
phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện trong từng giai đoạn là
một quá trình tìm tịi sáng tạo khơng ngừng, là một q trình nhận thức
liên tục, thống nhất trong tiến trình đổi mới được khởi đầu từ Đại hội lần
thứ

VI

của

Đảng


Cộng

sản

Việt

Nam

năm

1986.

Đại hội IX (năm 2001) bên cạnh việc khẳng định mục tiêu xây dựng nền
hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện
đại hoá đã đưa ra một loạt chủ trương, giải pháp có ý nghĩa quan trọng
trong cải cách hành chính thời gian tới như điều chỉnh chức năng và cải
tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa
ngành, đa lĩnh vực, phân công, phân cấp, tách cơ quan hành chính cơng
quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công, tiếp tục cải cách doanh
nghiệp nhà nước, tách rõ chức năng quản lý nhà nước với sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, xây
dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong sạch, có năng lực, thiết lập trật tự
kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng…
Phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận và các
tổ chức chính trị - xã hội vẫn chưa thốt khỏi tình trạng hành chính, xơ
cứng; một số cán bộ bị “viên chức hố”, chưa thật gắn bó với quần


chúng. Nạn tham nhũng trong hệ thống chính trị cịn trầm trọng, bệnh
cục bộ, bản vị, địa phương còn khá phổ biến. Quyền làm chủ của nhân

dân còn bị vi phạm.
Vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội cịn yếu, chưa có cơ chế thật hợp lý để phát huy vai trò
này. Đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị nói chung, của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội nói riêng chất lượng còn hạn chế,
nhất là ở cấp cơ sở.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị cịn chậm đổi mới, có mặt lúng túng.
Những hạn chế nêu trên xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu là, nhận
thức về đổi mới hệ thống chính trị chưa có sự thống nhất cao, trong
hoạch định và thực hiện một số chủ trương, giải pháp cón có sự ngập
ngừng, lung túng, thiếu dứt khốt, khơng triệt để.
Việc đổi mới hệ thống chính trị chưa được quan tâm đúng mức,
còn chậm trễ so với đổi mới kinh tế.
Lý luận về hệ thống chính trị và về đổi mới hệ thống chính trị ở
nước ta cịn nhiều điểm chưa sáng tỏ.




×