Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Phân tích tác phẩm bản tuyên ngôn độc lập của hồ chí minh vndoc com

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.67 KB, 14 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Phân tích tác phẩm Bản tun ngơn độc lập của Hồ Chí Minh Ngữ văn 12
Người đọc bản tuyên ngôn độc lập (cũng là tác giả) cất lời là vào ngay vấn đề,
nhằm thẳng mục tiêu; xác định một chân lý, nghĩa là khẳng định một
chủ quyền.
Nước Việt Nam là của người Việt Nam. Chân lý bao giờ cũng giản dị đối với
người sáng suốt, có thiện chí muốn tiếp thu nó. Cịn đối với những kẻ có tà tâm
bị lợi lộc ích kỷ làm cho mù, cho điếc, khơng cịn muốn thấy sự thật, muốn
nghe lẽ phải thì rất khó tiếp thu. Phải giải thích. Tốt nhất là dựa vào những lý lẽ
có uy thế từ lâu.
Đối tượng được nghe trước hết là một triệu đồng bào trong cuộc biểu tình, là
hai mươi lăm triệu nhân dân cả nước đang hướng về Thủ đô Cách mạng…Tất
nhiên chúng ta hiểu được nước ta là của ta. Ta hiểu từ lâu rồi, từ bốn nghìn năm
dựng nước và giữ nước. Ta đã khẳng định như thế nhiều lần, “Nam quốc sơn
hà Nam đế cư” hoặc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác"
(Bình Ngơ đại cáo)
Nhưng trong hai mươi lăm triệu tất cũng có người cịn ngơ ngác bàng hồng vì
cuộc khởi nghĩa đã thắng lợi quá nhanh, chưa kịp tĩnh tâm để xóa được ngay
những luận điệu xảo trá tung ra liên tục tám chục năm qua. Và, có hiểu rồi,
nhắc lại cũng khơng sao. Có những sự thật nghe hàng nghìn lần vẫn thấy sảng
khoái.
Mặt khác, đối tượng nghe đâu phải chỉ có Việt Nam.
Cịn có “Đồng Minh”, có Mỹ, tên trùm tư bản quốc tế, đã trở thành tên đế quốc
đầu sỏ sau đại chiến. Có Pháp đang hí hửng giơ vuốt, nhe nanh. Hồ Chí Minh
hơm nay, Nguyễn Ái Quốc hơm qua cịn lạ gì bụng dạ chúng. Lấy ngay lời nói
của chính các bậc tiền bối của chúng, những lời tuyên bố trịnh trọng trong


những hoàn cảnh lịch sử vĩ đại mà chúng khơng thể biết. Chúng cố tình qn
thì nhắc lại. Nhắc lại những lời chí lý của những người Mỹ cách đấy chỉ gần
hai trăm năm cũng có hồn cảnh bị áp bức, bị làm nhục như Việt Nam. Câu nói
của tên thủ tướng Anh Uy - Liêm như còn văng vẳng bên tai: “Hễ Mỹ làm ra

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

dù chỉ một sợi len, một miếng sắt móng ngựa là bản chức sẽ cho lính sang đóng
đầy xứ ngay lập tức.”
Mười lăm năm sau bản Tuyên ngôn của Mỹ là bản Tuyên ngôn của Pháp, của
những người Pháp không chịu được cái phải cõng trên lưng, đội trên đầu mấy
chú quý tộc, mấy anh tăng lữ, khơng chịu được câu nói hống hách vơ nghĩa của
mấy tên vua: “Trẫm muốn, ấy là pháp luật”.
Hồ Chủ Tịch khổng chỉ lấy lại lời nói hay của người xưa mà cịn giải thích,
bình luận, khái qt, nâng lên một tầm vóc cao hơn, rộng hơn, mới hơn. Từ
hạnh phúc cá nhân, người nâng lên vấn đề “quyền sống quyền sung sướng và
quyền tự do” của các dân tộc. Không chỉ một cá nhân có quyền bình đẳng về
quyền lợi với một cá nhân khác mà các dân tộc đều sinh ra bình đẳng với nhau
về mọi mặt, nghĩa là một dân tộc dù nhỏ bé, dù thuộc chủng tộc da đen, da
vàng cũng có quyền bình đẳng với một dân tộc lớn thuộc chủng tộc da trắng
của nước tiên tiến nhất Âu, Mĩ. Cuộc tranh đấu ấy cũng là mục tiêu lớn, nội
dung lớn của thời đại chúng ta, thời đại mở cửa đầu của Cách mạng tháng
Mười, thời đại mà tính chất sẽ được khẳng định trong hội nghị 81 họp năm
1960 tại Ma-xcơ-va. Thực tế cách mạng đã xác định tính thiên tài trong cách
nhìn, cách nghĩ của vị lãnh tụ đã từng là đại biểu của các dân tộc thuộc địa và
bênh vực họ không biết mệt mỏi trong các hội nghị quốc tế.
Đoạn văn mở đầu hết sức gọn, súc tích. Hai câu trích bổ sung cho nhau.

Một lời bình luận, một câu kết thúc, gói lại thật chặt, thật vững.
“Thế mà…”
Chỉ một lớp chuyển tiếp là đủ mở ra hết nội dung của đoạn sau. Nó như một
tiếng thở dài uất hận, một lời phê phán nghiêm khắc những kẻ muối mặt, cố
tình làm bậy. Và thế là Bản án chế độ thực dân Pháp đã từng được đưa ra trước
tòa án lịch sử cách đấy hai mươi năm lại được tóm tắt đưa ra lần nữa trước
công luận Việt Nam và thế giới.
Vẫn là lập trường dân tộc rộng rãi của người viết, vẫn là lòng căm giận quân
cướp nước thể hiện bằng những lời lẽ súc tích, đanh thép. Những động từ, tính
từ, trạng từ đều hết sức nặng để miêu tả bản chất bọn chúng (thẳng tay chém
giết, ràng buộc dư luận, cướp không ruộng đất, hàng trăm thứ thuế vô lý…)
Vẫn lịng xót xa đối với đất nước lầm than ở tính trữ tình và câu văn giàu hình
ảnh (khiến dân ta nghèo nàn thiếu thốn, nước ta xơ xác tiêu điều, chúng tắm
các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu). Vẫn cái giọng châm biếm, đả kích
sắc sảo, trí tuệ (thế là chẳng những chúng khơng “bảo hộ” được ta, trái lại trong
năm năm, chúng bán nước ta hai lần cho Nhật).

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Bản tun ngơn này chỉ khái qt hai loại tội ác về chính trị và kinh tế, đủ nhắc
nhở đồng bào tăng cường cảnh giác và để dùng làm một luận cứ cho lí lẽ của
bản Tuyên ngơn: Pháp khơng có quyền nói đến chuyện “bảo hộ” Việt Nam.
Hết tội xa đến tội gần.
Bọn thực dân Pháp cũng như mọi kẻ áp bức, lúc còn quyền hành thì hống hách,
hung bạo, lúc thất thế thì đê hèn, mất hết, mất hết liêm sỉ, giẫm lên nhân phẩm
để bám lấy chút sống thừa. Quỳ gối đầu hàng Nhật, chúng gây bao nhiêu tội ác.
Đối với nhân dân Việt Nam mà chúng vẫn rêu rao được chúng “bảo hộ”, “khai

hóa”, chúng quàng thêm một ách lên đầu. Kết quả thảm hại, cụ thể mà lịch sử
Việt Nam và nhân loại ghi bằng chữ máu không thể phai mờ với thời gian là
hai triệu người đã chết đói “chỉ riêng từ Quảng Trị đến Bắc Kì”.
Đối với Đồng minh là phe của chúng, chúng phản bội, chúng biến Việt Minh là
những người đứng về phe Đồng Minh thành kẻ thù chính, và “thẳng tay khủng
bố”.
Nhiều động từ miêu tả được dùng để vẽ lên hình ảnh thảm bại của chúng: quỳ
gối đầu hàng, mở cửa rước Nhật, bỏ chạy…Trong sự việc nêu ở câu cuối của
đoạn văn mỗi chữ dùng, mỗi nét phác họa đều có ý nghĩa (thậm chí, nhẫn tâm,
giết nốt số đơng tù chính trị…).
Đối lập với cái ti tiện, cái dã man của chúng là lượng hải hà, là những hành
động văn minh của nhân dân ta. Cũng chỉ là những hiện tượng lịch sử. Nhưng
đặt vào đây nó có tác dụng như một thủ pháp nghệ thuật làm nổi bật lên cái
khác nhau về bản chất giữa ta và địch, khẳng định thêm về chất nhân đạo của
dân ta. Đối với kẻ tay còn đẫm máu Việt Nam, nhân dân và cách mạng Việt
Nam vẫn giúp họ, cứu họ, bảo vệ họ. Ba động từ biểu hiện ba hình thái tương
quan với kẻ thù, ba trạng thái cụ thể của lòng nhân đạo Việt Nam. Giúp là đối
với kẻ còn chủ động, muốn vượt biên giới tránh cái họa của chủ nghĩa phát xít
Nhật. Ta thêm cho họ một cái đẩy tay giúp họ vượt được ranh giới giữa mong
muốn và hiện thực. Cứu là đối với những kẻ bất lực, trong một tình thế nguy
nan tuyệt vọng, những kẻ bị giam trong nhà tù Nhật, chỉ chờ ngày tận số…Ta
phá cũi sổ lồng, cứu những con mồi của thần chết. Bảo vệ là đối với những con
người đang còn bị đe dọa. Ta cứu họ rồi lại cịn tiếp tục bảo vệ, khơng chỉ tính
mạng mà cịn cả tài sản nữa. Cái chu đáo của lịng nhân đạo Việt Nam là như
thế.
Vậy thì giữa những người Việt Nam như thế và những người Pháp như trên, ai
bảo hộ ai? Và người Pháp có quyền gì đối với Việt Nam nữa khơng?
Việc tính sổ trên đã có thể giải đáp rõ ràng.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Thêm vào đó là một sự thực rành rành: từ tháng 9 - 1940 khi Nhật tràn qua
Lạng Sơn vào Việt Nam, Pháp đã đầu hàng Nhật, đã bán chủ quyền nước ta
cho Nhật. Về mặt pháp lý, một vật đã bán cho người khác tất thuộc quyền sở
hữu của người đó. Và ta đã lấy lại vật ta đã mất từ tay Nhật. Như thế là về mọi
mặt, dứt khốt Pháp khơng cịn quan hệ gì với Việt Nam nữa. Bản tun ngơn
có thể dõng dạc tuyên bố "thoát li hẳn quan hệ với Pháp".
Những từ, những ý lập lại (Sự thật là mùa thu... Sự thật là dân ta...) những ý
phủ định thèm vào song song tạ các vế để nhấn mạnh (của Nhật, chứ không
phải của Pháp) như chồng chất thêm những tầng lớp cản, ngăn cách dứt khoát
mọi thứ bắt mối ảo tưởng về chủ quyền của người Pháp trên đất Việt Nam.
Những trạng từ dùng trong quan hệ với Pháp: thoát li hẳn, xóa bỏ hết, xóa bỏ
tất cả, như những nhát gươm sắc chém ngọt vào sợi dây dợ cịn dính díu.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ra đời khơng phải là một sự thật ngẫu nhiên.
Đó là bước phát triển của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam vĩ đại. Chủ nghĩa anh
hùng đó đã "đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ" bằng vô vàn những
cuộc khởi nghĩa quật đổ những ngai vàng mà cuối cùng là của vương triều nhà
Nguyễn mục nát. Bảo Đại buộc phải thối vị để làm một người nơng dân.
Chủ nghĩa anh hùng đó đã "đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm
nay "bằng gươm súng, bằng máu xương của những Trương Định, Phan Đình
Phùng, Hồng Hoa Thám và của những chiến sỹ vô sản bất khuất kiên cường.
"Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị". Một câu trong những câu hiếm
của văn chương, cô đúc bao sự kiện lịch sử.
Cảnh về chiều của các tầng lớp thống trị thật buồn, mà những động tác gợi ra ở
những điên viên lịch sử trên sân khấu Việt Nam thì thật ngoạn mục. Một kẻ
chạy thục mạng đâm đầu xuống hố diệt vong. Một kẻ giơ tay nhận lấy phận đầu
hàng. Một kẻ tụt từ trên ngai xuống, hai tay run rẩy nộp ấn, kiếm.

Động từ từ nhanh đến chậm. Nhịp câu văn từ nhanh, chậm lại, rồi ngừng như
một chuyến tàu vét lịch sử lao từ xa tới, chậm lại để ngừng vĩnh viễn.
Ách thực dân, họa phát xít, tệ quân quyền, những rác rưởi ấy bị quét sạch, dọn
chỗ đón một quốc gia mới, một chế độ mới. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời.
Những lẽ phải không ai chống cãi được, những lẽ phải mà Đồng minh đã công
nhận trong các văn kiện còn chưa ráo mực ở hội nghị quốc tế Tê-hê-ran và Cự
Kim Sơn, những hành động gan góc mấy năm qua cũng nhằm mục tiêu như

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Đồng minh: tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, củng cố cái quyền tồn tại của nước
Việt Nam mới.
Nhưng trên hết và cơ bản nhất là quyết tâm vững như bàn thạch của cả một dân
tộc có bốn nghìn năm bất khuất nói lên qua tiếng nói của vị Chủ tịch đâu tiên
của mình: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập".
Ba đoạn cuối của bản tuyên ngôn độc lập là những đoạn văn thép: chất thép của
ý chí Hồ Chí Minh, của ý chí Việt Nam.
Chất thép trong lập luận buộc Đồng minh phải công nhận quyền độc lập của
dân Việt Nam, lấy lời của họ để ràng buộc họ. "Chúng tôi tin rằng...". Tin có ý
nghĩa tu từ. Mềm đấy, mà rắn đấy. Tin là tỏ vẻ tôn trọng họ, giá định phẩm chất
tốt đẹp của họ. Đó là cách buộc họ phải tự trọng, nghĩa là buộc họ khơng được
có sự bất nhất giữa lời nói và việc làm, "Khơng thể khơng cơng nhận" quyền
độc lập của dân tộc Việt Nam. "Không thể không" hai phủ định nghe vẫn chắc
chắn hơn một khẳng định.
Chất thép trong câu tiếp ở cái kết luận tất yếu của một thứ tam đoạn luận độc
đáo vì có một vế ẩn mà lại rất rõ. Một dân tộc không chịu khuất phục, đã liên

tục chiến đấu chống mọi ách nơ lệ Pháp cũng như Nhật, dân tộc đó phải được
độc lập. Phe Đồng minh gồm toàn những nước tự do. Một nước đứng về phe
Đồng minh, cùng lí tưởng, cùng chiến đấu. Nước đó phải được tự do. Dân tộc
đó là dân tộc Việt Nam. Vậy dân tộc Việt Nam phải được độc lập, nước Việt
Nam phải được tự do.
Dân tộc, tự do, độc lập. Những từ thiêng liêng đó trở lại cùng với những tính từ
gan góc, những trạng ngữ: 80 năm nay, mấy năm nay, những khẳng định: phải
được nhưng hùng dũng gõ nhịp trong một điệp khúc của một bài hùng ca đòi
quyền sống.
Chất thép trong đoạn cuối cùng là ở tính chất trịnh trọng của bản tuyên bố về
một sự thực, về quyết tâm bảo vệ bằng bất cứ giá nào sự thực đó. "Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập... Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem
tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do,
độc lập ấy". Mỗi từ, mỗi từ đều có sức nặng và sau đó những lời thề thiêng
liêng thét lên từ cửa miệng của một triệu người, trên cái âm vang của làn sóng
bốn nghìn năm bất khuất càng thêm vững chắc. Bản tuyên ngôn kết thúc dứt
khoát ngoan cường như một lời thách thức. Những kẻ thù của Việt nam mù
qng vì lịng tham, khơng đủ khôn ngoan sáng suốt lần lượt lao đầu vào chất
thép Việt Nam và sẽ nghiệm thấy thấm thía cái ghê gớm trong lời cảnh báo của
một Hồ Chí Minh, của một Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Bài làm 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng vĩ đại mà còn là một
cây bút nghệ thuật đầy tài hoa của dân tộc. Thơ văn Bác vừa mang sắc thái cổ
điển vừa mang sắc thái hiện đại lại đầy sáng tạo lại mang những giá trị tư tưởng

cao. Nếu trong thơ trữ tình, ta bắt gặp những lời thơ tràn ngập niềm lạc quan và
tinh thần đầy tự do, phóng khống thì trong văn học chính luận là những áng
văn đầy khúc chiết, chặt chẽ, có sức lay động mạnh mẽ tới tâm hồn người đọc,
người nghe. Tuyên ngôn độc lập mà một tác phẩm chính luận đầy mẫu mực của
Bác, nó chứa đựng những tình cảm thiết tha, những tư tưởng mang tầm thời đại
và những kết tinh những vẻ đẹp tinh túy của dân tộc Việt Nam.
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đất nước bước vào kỉ
nguyên mới, kỉ nguyên của độc lập, tự do nhưng vẫn phải đứng trước những
thách thức của cảnh "ngàn cân treo sợi tóc" khi bọn đế quốc và thực lợi dụng
danh nghĩa quân Đồng minh âm mưu cướp nước ta một lần nữa. Chính trong
thời điểm ấy, ngày 2-9-1945 trên Quảng Trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ
Chí Minh độc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
Cộng hịa. Đây là bản tun ngơn viết cho nhân dân Việt Nam, nhân dân thế
giới và công luận Quốc tế.
"Hỡi đồng bào cả nước, Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo
hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền
ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". "...Người
ta sinh ra ra đều tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải ln ln bình đẳng
về quyền lợi". Hai bản tuyên ngôn độc lập của Mĩ năm 1976 và bản tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền của pháp năm 1971 đã được Bác trích dẫn một cách
hợp lí. Đây là hai văn kiện quan trọng của thế giới, khi mà thực tế lịch sử đã
chứng minh quyền con người là vơ cùng quan trọng. Đó là những chân lí mang
giá trị vô cùng to lớn.
Bác đã dùng nghệ thuật tâm lí "gậy ơng đập lưng ơng". Âm mưu của Mĩ và
Pháp bị ngăn chặn bởi chính những tun ngơn, lời răn dạy của tổ tiên chúng.
Nếu chúng xâm phạm quyền tự do của dân tộc ta thì chính là đi ngược lại với
đạo lí của chúng. "Đó là một lời lẽ khơng ai có thể chối cãi được", Bác đã
khẳng định đinh ninh và chắc chắn , kiên quyết về lập trường chính nghĩa của
dân tộc ta. Đồng thời khi trích dẫn hai bản tun ngơn này, tác giả đã cho thấy
sự khéo léo khi tỏ ra rất trân trọng những tun ngơn bất hủ đồng thời dùng lí

lẽ của chúng để khóa miệng âm mưu xâm lược của Đế quốc. Đặt ba bản tuyên
ngôn cũng như ba cuộc cách mạng ngang hang nhau, mang tầm vóc lớn lao của
thế giới. Như một sức mạnh lớn lao cổ vũ cuộc chiến của các nước thuộc địa
chống lại thực dân trên thế giới bằng cảm quan đầy tỉnh táo và sáng suốt, tác

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

giả đã đưa ra những lí lẽ sắc bén, tinh nhạy và chứa đựng tình cảm lớn lao đối
vớ nhân dân.
Sau cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn, Bác đã đưa ra cơ sở thực tế , những sự
thật lịch sử những bằng chứng sống qua mấy mươi năm đấu tranh của nhân dân
cả nước. Đó là những lí lẽ thuyết phục hơn cả vì nó được thực tế chứng minh,
được nhân dân chứng kến và tham gia, bởi vậy lay động hàng triệu trái tim con
người trên thế giới. Lời lẽ tố cáo đầy căm phẫn và xót xa: "Thế mà hơn 80 năm
nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất
nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và
chính nghĩa."
Đời sống nhân dân khổ cực, đất nước lầm than, bao nhiêu chồng mất vợ, mẹ
mất con, con mất cha,.....đều có dấu rang của bọn đế quốc thực dân. "Về chính
trị, chúng tuyệt đối khơng cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng
thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung,
Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta
đoàn kết. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém
giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa
của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu
dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược. Về
kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu

thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên
liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng
trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần
cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột cơng
nhân ta một cách vơ cùng tàn nhẫn." Bác đã bóc trần bản chất nịnh bợ, tỏ ra
lương thiện, nhân đạo của thực dân mà thực chất là lăm le đô hộ nước ta, đồng
hóa dân tộc ta. Từng câu chữ thốt ra như thấm vào tâm can người đọc, từng con
chữ thấm đẫm máu và nước mắt của nhân dân. Bao nhiêu căm phẫn, bao nhiêu
xót xa, thương tiếc như gói gọn vào những luận điệu, những bản án được nêu
ra.
Bằng lời lẽ ngắn gọn, những câu văn như sóng trào cảm xúc, chứa chất nỗi căm
hờn vạn lần đau đớn và những hình ảnh giàu sức gợi, Bác đã dựng lên trước
mắt thế gới một thời kì lịch sử đầy đau thương của con dân nước Việt. Tố cáo
tội ác " trời không dung, đất không tha" của Pháp, những hành động của chúng
là xảo trá, là bịp bợm, là tàn nhẫn'. Nhân dân ta đã đứng lên đấu tranh bất khuất
và kiên cường trái ngược với một Pháp đề hèn, đốn mạt. "Sự thật là từ mùa thu
năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của
Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự thật là dân ta lấy
lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp."
Cách mạng tháng Tám thành công đã giải quyết đồng thời hai nhiệm vụ lớn lao
là độc lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Từ sự đứng lên đấu tranh của
nhân dân, Bác tiến tới khẳng định những thành quả đạt được. Đó là lời tuyên bố
thốt li, khơng liên quan đến Pháp, xóa bỏ những hiệp ước mà đã kí với Pháp.

Đồng thời khẳng định rõ quyền tự do và dân tộc của đất nước Việt Nam. "Một
dân tộc đã gan góc chống ách nơ lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã
gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải
được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập! Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập."
Bằng trí tuệ sâu rộng và cảm quan của một nhà cách mạng đầy sáng suốt, Bác
đã vạch mặt bản chất dối trá của kẻ thù. Bằng lí luận chặt chẽ, Bác đã đưa ra cơ
sở pháp lí đầy sức thuyết phục. Bằng tình cảm yêu thương thiết tha với nhân
dân, lòng yêu nước sâu sắc Bác đã khơi dậy niềm tự hào, ý chí chiến đấu và
khẳng định quyền lợi chính đáng của con người trên khắp thế giới. Tuyên ngôn
độc lập xứng đáng là một tác phẩm bất hủ của một con người lớn, một tâm hồn
lớn, một nhân cách lớn. Như Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận định:
"Tài nghệ ở đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những
luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi được và đằng sau những lí lẽ
ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản
ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc
lập, tự do, vìnhân quyền của dân tộc và của nhân loại".
Tuyên ngôn độc lập là tác phẩm nổi tiếng của Hồ Chí Minh, bên cạnh bài làm
văn Phân tích Tun ngơn độc lập của Hồ Chí Minh, thầy cơ và các bạn học
sinh có thể tìm hiểu thêm nhiều hơn nữa những bài văn mẫu khác như Giá trị
lịch sử và chất chính luận trong Tun ngơn độc lập, Sức hấp dẫn và thuyết
phục trong bản Tuyên ngôn độc lập, Phân tích giá trị lịch sử và giá trị văn
chương của bản Tuyên ngôn độc lập, Giáo án bài Tuyên ngôn độc lập hay cả
các phần Soạn bài Tuyên Ngôn Độc Lập.
Bài làm 3
Tuyên ngôn Độc lập là một trong những áng văn bất hủ của chủ tịch Hồ Chí
Minh. Tác phẩm có giọng văn hùng hồn thống thiết, có lí luận chặt chẽ sắc bén,
có sức thuyết phục cao đối với người đọc và người nghe. Bản Tuyên ngôn Độc
lập là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh của
những con người anh hùng Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung trong

những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản Tuyên ngôn Độc

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

lập là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi
triệu nhân dân Việt Nam (Trần Dân Tiên).
Phần mở đầu của bản tun ngơn, chủ tịch Hồ Chí Minh nêu những căn cứ
pháp lý, “những lẽ phải không ai chối cãi được”. Đó là những câu tuyên bố nổi
tiếng được Bác rút ra từ hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ. Cách
nêu dẫn chứng như thế vừa khéo léo vừa kiên quyết. Khéo léo vì tỏ ra tôn trọng
chân lý chung dù chân lý ấy của các nước đang là kẻ thù gây ra. Cách nêu dẫn
chứng ấy cũng hàm chứa một sự phê phán. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ những kẻ xâm lược đã chà đạp lên chân lý, chà đạp lên lương tâm và lý tưởng
của cha ơng chúng. Đó là cách dùng lí lẽ của kẻ thù để chống lại kẻ thù, dùng
gậy ông đập lưng ông. Hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đều nhấn mạnh
quyền con người, từ đó Bác nói mở rộng thêm về quyền dân tộc. Câu nói của
Người mở đầu cho trào lưu giải phóng dân tộc trên khắp thế giới. Đồng thời,
đặt Bản tuyên ngôn của nước ta ngang hàng với hai bản tuyên ngôn đã nêu.
Bác lập luận như vậy là để kết tội thực dân Pháp. Những lời bất hủ trong hai
bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đã trở thành cơ sở pháp lý để Bác kết tội thực
dân Pháp. “Thế mà đã hơn 80 năm nay… nhân đạo và chính nghĩa” Sau khi kết
thúc một cách khai quát tội ác của thực dân Pháp, bản tuyên ngôn nêu lên
những dẫn chứng cụ thể để lật tẩy sự “bảo hộ” của thực dân Pháp trước tồn
thể nhân loại: “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho… dân chủ nào”. Lời kể
tội của tác giả hùng hồn và đanh thép. Cách lập luận trùng điệp như: “Chúng
thi hành…”, “Chúng lập ra…”. “Chúng thẳng tay chém giết…” thể hiện được
tội ác chồng chất của thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Cách dùng hình ảnh
của tác giả làm nổi bật sự tàn bạo của thực dân Pháp: “Chúng thẳng tay chém

giết những người yêu nước… chúng tắm các cuộc… bể máu”.
Về kinh tế, Bác cũng kết tội thực dân Pháp từ khái quát đến cụ thể “Chúng bóc
lột dân ta đến… tiêu điều”. Bác quan tâm đến những hạng người như: “dân cày
và dân buôn trở nên bần cùng”, “chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu
lên”. Lập luận như vậy là Bác muốn tranh thủ sự ủng hộ của khối đại đồn kết
tồn dân trong cơng cuộc bảo vệ nền Độc lập. Cả đoạn văn tác giả chỉ dùng
một chủ ngữ “chúng” để chỉ thực dân Pháp, nhưng vị ngữ thì ln thay đổi:
“thi hành”, “lập ra”, “thẳng tay chém giết”, “tắm”… chỉ một kẻ thù là thực dân
Pháp nhưng tội ác của chúng gây ra trên đất nước ta vô cùng nhiều. Cách lập
luận đanh thép cùng với những dẫn chứng cụ thể khiến kẻ thù hết đường lẩn
tránh tội ác. Tội ác lớn nhất của thực dân Pháp gây ra là nạn đói khủng khiếp
năm 1945: “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đơng Dương để
mở thêm căn cứ đánh đồng minh thì thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa
nước ta rước Nhật. Từ đó, nhân dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật.
Từ đó, nhân dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang
đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói”. Tác
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

giả cũng khơng bỏ sót những tội ác khác của bọn thực dân Pháp như “trong
năm năm chung bán… cho Nhật”, tội thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa,
tội “giết nốt số đơng tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.” Người kết tội thực
dân Pháp một cách hùng hồn và đanh thép như vậy nhằm phơi bày bản chất tàn
bạo, dã man của thực dân Pháp, lột mặt nạ “khai hoá", “bảo hộ” của chúng
trước nhân dân thế giới, khơi lòng căm thù của nhân dân ta với thực dân Pháp.
Tác giả biểu dương sức mạnh dân tộc trong công cuộc chống thực dân phong
kiến và giành lấy nền Độc lập “Pháp chạy, Nhật hàng…chế độ dân chủ cộng
hoà”. Đoạn văn này diễn tả đầy hào khí. Chỉ có 9 chữ “Pháp chạy, Nhật hàng,

vua Bảo Đại thoái vị”, Bác dựng lại cả một giai đoạn lịch sử đầy biến động và
cực kì oanh liệt của dân tộc ta. Biểu dương truyền thống bất khuất của dân tộc,
tác giả nhằm kích thích tinh thần tự hào dân tộc, kích thích ý chí chiến đấu để
nhân dân ta quyết tâm chống lại âm mưu của thực dân Pháp.
Tiếp theo, Người nêu cơ sở chính nghĩa của việc thành lập nước Việt Nam mới.
Việt Minh là tổ chức cách mạng của toàn bộ dân tộc Việt Nam. Việt Minh đã
đứng về phe đồng minh, đã chống lại thực dân Pháp và phát xít Nhật và đã
giành chính quyền từ tay Nhật. Hai lần Người nhấn mạnh nền Độc lập của đất
nước bằng những câu văn điệp ngữ mạnh mẽ: “Sự thật là…”. Trên cơ sở ấy,
Người tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hồ, tun bố thốt ly
hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xoá bỏ trên đất nước Việt Nam…”
Cuối cùng thay mặt cho cả một dân tộc vừa giành được tự do độc lập, Người
nêu lời thề “Quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Tuyên ngôn Độc lập là kiệt tác của Hồ Chí
Minh. Bằng tâm huyết và tài hoa, Người đã thể hiện được khí phách của một
dân tộc đang vùng dậy chống đế quốc, thực dân phong kiến, giành Độc lập tự
do cho nước nhà. Với Tuyên ngôn Độc lập, lần đầu tiên Việt Nam hiện diện
trên trường quốc tế với tư cách là một nước tự do và độc lập.
Tuyên ngôn Độc lập vừa là văn kiện lịch sử, vừa là áng văn chính luận mẫu
mực. Nó chấm dứt giai đoạn mất nước, giai đoạn nhân dân ta sống kiếp ngựa
trâu, nô lệ của dân tộc, nó mở đầu một kỉ nguyên mới: kỷ nguyên Độc lập tự
do.
Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, thống thiết,
Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng sánh ngang với các bản tuyên ngôn trên thế
giới và các thiên cổ hùng văn của các dân tộc khác như Hịch tướng sĩ, Bình
Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi.
Bài làm 4

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Hồ Chí Minh là một nhà chính trị cách mạng đồng thời cũng là một nhà văn
nhà thơ của dân tộc Việt Nam. Mỗi tác phẩm của người đều thể hiện một thái
độ sống quan điểm chính trị rõ ràng, thể hiện tinh thần yêu nước thương dân
sâu sắc. Tuyên ngôn độc lập được chủ tịch Hồ Chí Minh viết năm 1945 sau khi
cách mạng tháng 8 của chúng ta thành công giành quyền làm chủ về tay nhân
dân lao động, đánh đuổi phát xít Nhật ra khỏi bờ cõi nước nhà.Tuyên ngôn độc
lập là kết quả của nhiều thành tựu to lớn, khi ông cha ta đã hy sinh rất nhiều
tính mạng, xương máu để giành quyền làm chủ đất nước. Trong Bản Tuyên
ngôn độc lập mở đầu bài viết tác giả đã đi thẳng vào vấn đề nêu ra những căn
cứ luận điểm pháp lý những lập luận chặt chẽ khơng ai có thể chối cãi được.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy dẫn chứng từ hai
câu nói tun ngôn của Pháp và Mỹ. Tác giả muốn nhắc khéo hai đế quốc này
rằng tại sao những gì họ ghi trong hiến pháp, tun ngơn của nước mình lại
khơng thực hiện ở nước khác. Họ lại làm ngược lại với những gì họ viết đem sự
áp bức bóc lột sang nước khác đàn áp.Hồ Chí Minh đã dùng lý lẽ của kẻ thù.
Hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đều nhấn mạnh quyền con người. Bác đã
nói thêm về quyền dân tộc, mở đầu cho một phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc. Người đã khơn khéo vạch trần tội ác của giặc, khi chúng sang nước ta
đàn áp dân ta, bóc lột của cải vật chất của nước ta.
Những hành động mà chúng đã làm với nước ta khơng có cái gì gọi là văn
minh, dân chủ ở đây. Nên tác giả đã kêu gọi nhân dân đứng dậy đấu tranh.
Chúng thi hành chế độ sưu cao, thuế nặng, bóc lột dân ta tới tận xương tủy.
Chúng thẳng tay chém giết dân ta, giết hại đồng bào yêu nước của ta. Tác giả
đã làm nổi bật lên tội ác của thực dân Pháp, làm tăng thêm tính dân tộc trong
mỗi người dân, khích động lịng u nước.
Chính thực dân Pháp là nguyên nhân dẫn tới nạn đói khủng khiếp năm 1945
làm chết hai triệu đồng bào ta. Chúng con dâng nước ta cho Nhật, khiến cho

dân ta chịu cảnh một cổ hai tròng đã nghèo nàn lạc hậu nay lại còn nghèo nàn
lạc hậu hơn.Thực dân Pháp còn thẳng tay đàn áp các phong trào yêu nước của
dân ta, giết hại đồng bào ta, đặc biệt là các tù chính trị tại Yên Bái, Cao Bằng…
Với những lời lẽ hùng hồn đanh thép tác giả đã tố cáo, phơi bày những tội ác
dã man của thực dân Pháp đã làm với nhân dân ta. Lột trần bộ mặt khai hóa văn
minh của chúng thực chất chỉ là bóc lột mà thơi. Hồ Chí Minh đã khơi dậy lịng
căm thù giặc, yêu nước sâu sắc của những người dân Việt Nam.Thông qua
Tuyên ngôn độc lập tác giả cũng biểu dương phong trào chống thực dân và
phong kiến giành độc lập của nhân dân trong cách mạng tháng 8/1945 đã làm
cho phát xít Nhật phải đầu hàng.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Qua bản Tun ngơn độc lập chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nêu ra nhiệm vụ,
phương hướng của nhân dân ta trong giai đoạn tiếp theo, khi mà thực dân Pháp
sẽ chưa từ bỏ âm mưu đô hộ, xâm lược nước ta. Nhân dân ta phải đoàn kết để
tiếp tục đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi kiếp nơ lệ này.Trên cơ sở những gì
đã có, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đọc bản khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, tuyên bố Việt Nam là nước độc lập thốt ly hồn tồn với thực dân
Pháp. Thực dân Pháp khơng có quyền hạn gì với đất nước ta.Kết thúc bản
Tuyên ngôn độc lập người nêu lời thề quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do Độc lập ấy”.
Với bản Tuyên ngôn độc lập nước Việt Nam đã bước lên vũ đài chính trị quốc
tế là nước độc lập tự do. Bản Tuyên ngôn độc lập này được nhân dân tiến bộ
trên thế giới công nhận và coi trọng.Với những từ ngữ chặt chẽ, lý luận đanh
thép chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bản Tuyên ngôn độc lập với những ngôn
ngữ sâu sắc nhất, thể hiện rõ ràng thái độ, lập trường quan điểm của dân tộc

Việt Nam trong chặng đường sắp tới, thể hiện tầm nhìn chiến lược vĩ đại của
Hồ Chí Minh.
Bài làm 5
“Tun ngơn độc lập” của Hồ Chí Minh là một văn bản lịch sử chính trị to lớn
tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nước ra, mở ra một kỉ nguyên
mới, độc lập tự do cho dân tộc. Có thể coi đây là “bài thơ thần” của thời đại
mới.
Hồ Chủ tịch đã xây dựng bố cục của bản tun ngơn với ba phần chính: cơ sở
thực tế, cơ sở pháp lý và lời tuyên bố độc lập. Mà trước hết là cơ sở pháp lý của
bản Tuyên ngôn. Không giống như ông cha ta ở quá khứ thường xuyên ôn lại
các trang sử vẻ vang của dân tộc, Bác đã trích dẫn những lời bất hủ trong bản
Tuyên ngôn của Mỹ năm 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
của Pháp năm 1791. Hồ Chí Minh quả thật đã rất sắc sảo và trí tuệ trong cuộc
đối thoại lịch sử này. Bởi hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ ở thế kỉ
XVIII là di sản tư tưởng của nhân loại, đánh dấu buổi bình của cuộc Cách
mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, đã có cơng lao nêu thành nguyên tắc,
pháp lý quyền cơ bản của con người vì vậy có sức thuyết phục người đọc,
người nghe. Việc trích dẫn hai bản tun ngơn nổi tiếng của nhân loại làm cơ
sở pháp lý cho bản tuyên ngôn của mình, Hồ Chí Minh khơng chỉ thể hiện vốn
hiểu biết văn hóa sâu rộng mà cịn thể hiện sự khơn khéo và kiên quyết. Cái
khôn khéo của Người là tỏ ra trân trọng bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ
nhưng cương quyết cũng bởi đây cũng chính là hình thức “gậy ơng đập lưng
ơng”. Khơng có gì thuyết phục hơn khi lấy chính luận điệu của kẻ thù để vạch
mặt chúng. Người đã nhắc họ đừng làm vấy bẩn lên ngọn cờ chính nghĩa mà tổ
tiên họ đã phải trải qua bao nhiêu năm đấu tranh mới có thể dành được. Với
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


cách trích dẫn này, Bác đã đặt ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau, đặt ba nền
độc lập đăng đối gợi được niềm tự hào dân tộc. Đặc biệt là ba chữ “suy rộng
ra” mang tầm nhân văn cao đẹp. Từ quyền con người nói chung của hai bản
Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, Người đã nâng lên thành quyền dân tộc. “Suy
rộng ra…tất cả các dân tộc trên thế giới… quyền sung sướng và quyền tự do”.
Điều đó có nghĩa là khơng chỉ có cá nhân bình đẳng về quyền lợi mà các dân
tộc trên thế giới cũng có quyền bình đẳng, quyền tự chủ, tự quyết. Chính ý kiến
“Suy rộng ra” của Bác có ý nghĩa lớn lao đối với phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc trên thế giới. Người đã phát triển quyền lợi con người thành
quyền lợi dân tộc. Kết lại cơ sở pháp lý là lời khẳng định đanh thép: “Đó là
những lẽ phải không ai chối cãi được” đã làm nổi bật lên luân lí chính trị sâu
sắc: quyền được sống, quyền được tự do dân tộc Việt Nam.
Kế tiếp là cơ sở thực tế, Hồ Chí Minh đã nêu ra những lí lẽ, dẫn chứng vơ cùng
thuyết phục. Trước lời rêu rao kể cơng khai hóa thuộc địa của Pháp, Người đã
chứng minh đó khơng phải là cơng mà là tội. Về mặt lí lẽ, Bác viết “Thế mà
hơn 80 năm nay bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến
cướp nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo
và chính nghĩa”. Lí lẽ ngắn gọn, lập luận theo lối phản đề được tạo bởi thủ
pháp tương phản đối lập và kết hợp với sử dụng động từ mạnh “cướp”, “áp
bức”. Người đã đưa ra một tương phản đủ để lột mặt nạ kẻ thù. Đó là tương
phản giữa khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” mà chúng rêu rao và thực tế
“cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”. Bản chất của thực dân Pháp đã bộc lộ
rõ lời nói đối nghịch với việc làm, khẩu hiệu thì đẹp đẽ nhưng hành động lại
tham tàn. Trong tám mươi năm thống trị nước ta chúng đã gây ra bao tội ác tày
trời làm đau khổ người Việt Nam. Một loạt những dẫn chứng vô cùng thuyết
phục. Người kể ra năm tộc ác về chính trị: tước đoạt quyền tự do dân chủ, luật
pháp dã man chia để trị, chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta, ràng buộc
dư luận và thi hành chính sách ngu dân, đầu độc dân ta bằng rượu cồn và thuốc
phiện. Năm tội ác về kinh tế: bóc lột tước đoạt độc quyền in giấy bạc, sưu thuế
nặng, đè nén khống chế các nhà tư sản… hậu quả của sự bóc lột là hơn hai triệu

người dân Việt Nam chết đói năm 1945. Về văn hóa - giáo dục: chúng lập ra
nhà tù nhiều hơn trường học. Thực dân Pháp không chỉ gây ra tội ác trên mọi
mặt đời sống mà còn gây ra đối với mọi tầng lớp: “dân cày và dân buôn trở nên
bần cùng, không cho các nhà tư sản của ta ngóc đầu lên, chúng bóc lột cơng
nhân ra một cách tàn nhẫn”. Thực dân Pháp đã rêu rao cơng lao bảo hộ Đơng
Dương thì nhân danh nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tố cáo sự đớn hèn,
bạc nhược và vô liêm sỉ của của thực dân Pháp và tội ác bán nước ta hai lần
cho Nhật qua những hành động rước Nhật, quỳ gối đầu hàng hoặc bỏ chạy,
trong vòng năm năm, bán nước ta hai lần cho Nhất. Khi thua chạy, chúng cịn
tán tận lương tâm giết nốt một số đơng tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Như vậy, chúng khơng có quyền nói đến chuyện bảo hộ Việt Nam.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Ngược lại với tội ác của thực dân Pháp là tinh thần đấu tranh anh dũng của dân
tộc ta. Hồ Chí Minh đã chứng minh truyền thống của dân tộc Việt Nam là lòng
nhân đạo. Với kẻ thù, Việt Minh đã “giúp người Pháp chạy qua biên thủy, cứu
cho người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ”.
Qua ba động từ “cứu, giúp, bảo vệ” ta thấy được tinh thần nhân đạo to lớn của
dân tộc Việt Nam:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo
(Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi)
Câu văn “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thối vị” thật đặc biệt. Chỉ chín
chữ thơi nhưng đã tái hiện lại tồn bộ những sự kiện lịch sử trọng đại của Việt
Nam, đó là khơng khí của cuộc Cách mạng tháng Tám giúp cho ách thực dân,
họa phát xít đã được quét sạch, thù trong giặc ngồi đã được dẹp n. Hồ Chí

Minh cịn tranh thủ sự ủng hộ của các nước Đồng minh: “Chúng tôi tin rằng
các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các
Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận
quyền độc lập của dân Việt Nam”. Lí lẽ Người đưa ra nhằm thuyết phục các
nước Đồng minh vừa công nhận nền độc lập, quyền bình đẳng dân tộc của các
nước trên thế giới ở hai cuộc Hội nghị, nay nếu khơng cơng nhận quyền độc lập
của Việt Nam thì sẽ trở thành kẻ phản bội chính mình. Cùng với đó là lí lẽ sâu
sắc: “Một nước Việt Nam đã gan góc đứng về phía đồng minh để chống lại
phát xít Nhật, còn thực dân Pháp lại phản bội Đồng minh. Đồng minh phải
công nhận nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Một dân tộc đã gan góc chống
phát xít, dân tộc đó phải được tự do, độc lập”.
Kết thúc của bản tuyên ngôn là lời tuyên bố độc lập. Hồ Chí Minh khẳng định
với thế giới. Độc lập tự do vừa là quyền lợi, vừa là chân lý bất khả xâm phạm,
yêu cầu quốc tế phải thừa nhận: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc
lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Bác cổ vũ khích lệ tinh thần
nhân dân: “Tồn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Lời tuyên bố hùng
hồn giống thể hiện tinh thần tự hào dân tộc sâu sắc.
Với bản “Tun ngơn độc lập”, Hồ Chí Minh đã để lại một văn kiện lịch sử đầy
giá trị. Bản Tuyên ngôn đã nêu cao truyền thống yêu nước, ý chí chống qn
xâm lược, lịng tự hào dân tộc; đánh dấu mốc son trong lịch sử dân tộc ta.
Xem thêm các bài tiếp theo tại: />
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



×