BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỤC UYÊN
THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học : Ts. Lê Huỳnh Tấn Duy
Học viên
: Nguyễn Thục Uyên
Lớp
: Cao học luật, Phú Yên - Khóa 1
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận văn thạc sĩ luật học này là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Huỳnh Tấn Duy.
Nội dung luận văn đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn,
chú thích tài liệu tham khảo theo quy định của Trường.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên
Nguyễn Thục Uyên
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật dân sự
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
ĐDGĐ
: Đại diện gia đình
HĐXX
: Hội đồng xét xử
TAND
: Tịa án nhân dân
UBND
: Ủy ban nhân dân
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI ........................................................................................... 6
1.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự đối với người dưới 18 tuổi ...................................................................... 6
1.1.1. Quy định về thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với
người dưới 18 tuổi ...............................................................................................6
1.1.2. Quy định về Thẩm phán xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới
18 tuổi..................................................................................................................8
1.1.3. Quy định về Hội thẩm nhân dân xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với
người dưới 18 tuổi .............................................................................................10
1.2. Thực tiễn thực hiện quy định của luật tố tụng hình sự về Hội đồng xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi ...................................... 12
1.2.1. Hạn chế trong việc phân công Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân tham gia
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi và nguyên nhân .......12
1.2.2. Hạn chế trong công các đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán chuyên trách xét
xử án hình sự người chưa thành niên ...............................................................15
1.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định của luật tố tụng hình sự về Hội đồng xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi và bảo đảm thực hiện ....
............................................................................................................................... 16
1.3.1. Kiến nghị hồn thiện quy định của luật tố tụng hình sự về Hội đồng xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi .......................................16
1.3.2. Kiến nghị bảo đảm thực hiện quy định của luật tố tụng hình sự về Hội
đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi ........................19
Kết luận Chương 1 .................................................................................................. 20
CHƯƠNG 2. PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI ......................................................................................... 21
2.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự đối với người dưới 18 tuổi .................................................................... 21
2.1.1. Khái quát về phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới
18 tuổi................................................................................................................21
2.1.2. Một số quy định đặc thù về phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối
với người dưới 18 tuổi .......................................................................................22
2.2. Thực tiễn thực hiện quy định của luật tố tụng hình sự về phiên tịa xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi ...................................... 31
2.3. Kiến nghị hoàn thiện và bảo đảm thực hiện quy định của luật tố tụng
hình sự về phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi
............................................................................................................................... 38
2.3.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định của luật tố tụng hình sự về phiên tịa xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi .......................................38
2.3.2. Kiến nghị bảo đảm thực hiện quy định của luật tố tụng hình sự về phiên
tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi ...........................41
Kết luận Chương 2 .................................................................................................. 42
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Người dưới 18 tuổi là những người chưa có sự phát triển đầy đủ về thể chất
và tinh thần. Khả năng nhận thức về các vấn đề xã hội của người dưới 18 tuổi chưa
đầy đủ nên dễ bị tổn thương, dễ bị lơi kéo, tác động dẫn đến có các hành vi vi phạm
pháp luật hình sự. Tình trạng người chưa thành niên phạm tội ở nước ta trong thời
gian gần đây tuy có giảm về số lượng vụ án nhưng lại ngày càng gia tăng cả về mức
độ nguy hiểm lẫn sự trẻ hóa. Có nhiều ngun nhân gây ra tình trạng này, như
người chưa thành niên bị ảnh hưởng bởi các thơng tin trên mạng xã hội, bởi các trị
chơi bạo lực, thậm chí trong mơi trường có nhiều đối tượng xấu gây ảnh hưởng, dụ
dỗ hoặc thuộc trường hợp bất khả kháng hoặc vì lý do tự vệ chính đáng… mà có thể
gây ra các thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức... Đồng thời, tình trạng người bị hại là người dưới 18 tuổi cũng tăng theo vì độ
tuổi này dễ bị dụ dỗ, chưa nhận thức được rõ ràng các hành vi của người phạm tội
và cũng khơng có nhiều biện pháp cụ thể để bảo vệ nhóm người này.
Quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận khá đầy đủ trong Hiến
pháp năm 2013. Thể chế hóa tinh thần của Hiến pháp, thực hiện chủ trương của
Đảng, Quốc Hội đã thơng qua Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 với nhiều quy định
hướng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân trong đó có người
dưới 18 tuổi. Pháp luật tố tụng hình sự của nước ta đã có những quy định nhằm bảo
vệ quyền lợi của người chưa thành niên tham gia các vụ án hình sự. Chương
XXVIII Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thủ tục tố tụng đối với người
dưới 18 tuổi, áp dụng đối với trường hợp người bị buộc tội, người bị hại, người làm
chứng là người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng, trong đó có quy định về thủ tục xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự. Nhìn chung, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và các văn
bản hướng dẫn cũng đã quy định cụ thể việc áp dụng thủ tục tố tụng đối với người
dưới 18 tuổi trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên, khi áp dụng
trên thực tế còn nhiều vướng mắc, bất cập, vi phạm thủ tục tố tụng. Vì vậy, cần có
những quy định cụ thể, rõ ràng về thủ tục xét xử để bảo vệ quyền lợi của người dưới
18 tuổi khi tham gia xét xử vụ án hình sự; để Tịa án có những phán quyết đúng đắn,
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân của người dưới 18 tuổi. Vì
vậy, học viên chọn đề tài “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới
18 tuổi theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” để đi sâu nghiên cứu các quy định của
2
pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi, tìm ra
những vướng mắc và có những giải pháp để bảo vệ nhóm người chưa thành niên và
đồng thời hồn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua tìm hiểu một số tài liệu, học viên đã tiếp cận được những cơng trình
nghiên cứu sau có liên quan đến đề tài luận văn:
Về sách chuyên khảo:
- PGS. TS Trần Quang Thơng, TS. Hồng Minh Đức (2017), Tư pháp hình
sự người chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Cơng an nhân dân.
Dựa vào nhiều cơng trình khoa học đã tiếp cận, nghiên cứu dưới các góc độ
khác nhau, khía cạnh khác nhau của tư pháp hình sự người chưa thành niên, tác giả
cuốn sách này đã biên soạn cuốn sách với mong muốn nghiên cứu đề cập một cách
tồn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về tư pháp hình sự người
chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động tư pháp hình sự người chưa thành niên.
- TS. Lê Huỳnh Tấn Duy (2018), Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam đối với người dưới 18 tuổi trên cơ sở khung pháp lý của Liên hợp quốc, Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Tác giả đã trình bày và phân tích một cách toàn diện, chuyên sâu về khung
pháp lý tư pháp hình sự người chưa thành niên của Liên hợp quốc và Việt Nam,
trong đó tập trung chủ yếu vào quy định của pháp luật tố tụng hình sự điều chỉnh về
người bị buộc tội dưới 18 tuổi; đối với người bị hại, người làm chứng là người dưới
18 tuổi chỉ giới thiệu ngắn gọn một số vấn đề pháp lý có liên quan. Trên cơ sở
nghiên cứu đó, đưa ra những giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm giúp Việt Nam
tiệm cận với các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về bảo vệ người bị buộc tội, người bị
hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi.
Về giáo trình, tài liệu hướng dẫn học tập:
- Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình luật tố
tụng hình sự Việt Nam (Tái bản có sửa đổi, bổ sung), NXB Hồng Đức.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2020), Giáo trình Tư pháp đối với người
chưa thành niên, Nxb Tư pháp;
3
- TS. Lê Huỳnh Tấn Duy (2017), Tài liệu hướng dẫn học tập chuyên đề Thủ
tục giải quyết vụ án hình sự đối với người chưa thành niên, Nxb Đại học quốc gia
TP. Hồ Chí Minh.
Về luận văn thạc sĩ:
- Nghiêm Đình Tháp, Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18
tuổi phạm tội theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hóc Mơn,
Luận văn thạc sĩ, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã
hội, năm 2019.
Luận văn nghiên cứu về việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới
18 tuổi phạm tội từ thực tiễn huyện Hóc Mơn, TP Hồ Chí Minh. Đưa ra các số liệu
thống kê trên thực tế tại địa phương về số lượng người chưa thành niên phạm tội;
thực trạng xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Từ
đó, tìm ra những khó khăn vướng mắc và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Nguyễn Hồng Quân, Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là người dưới
18 tuổi từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ, Viện Hàn lâm khoa học xã
hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, năm 2019.
Luận văn nghiên cứu về thực trạng người dưới 18 tuổi tại tỉnh Quảng Ninh,
nêu một số vướng mắc về sự có mặt của người đại diện cho bị cáo, việc cấp giấy
chứng nhận cho người bào chữa, thành viên hội đồng xét xử… Đồng thời, có các
giải pháp nâng cao hiệu quả quy định của pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án
mà bị cáo là người dưới 18 tuổi.
Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự đối với người chưa thành niên đã được một số tác giả nghiên cứu nhưng chủ yếu
tập trung phần xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi, chưa nghiên cứu
sâu đối với các vụ án có bị hại là người chưa thành niên và đa số cơng trình theo
định hướng nghiên cứu. Vì vậy luận văn của học viên vẫn có tính mới trong nghiên
cứu khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra những vướng mắc trong một số quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người
4
dưới 18 tuổi. Từ đó, đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp
luật vả bảo đảm thực hiện.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể sau đây:
- Phân tích và đánh giá một số quy định của BLTTHS năm 2015 về thủ tục
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi.
- Khảo sát thực tiễn áp dụng quy định của BLTTHS năm 2015 về thủ tục xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi gồm thành phần Hội đồng xét
xử sơ thẩm và phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi.
- Đề xuất giải pháp hồn thiện các quy định có liên quan trong BLTTHS năm
2015 và nâng cao hiệu quả thực hiện.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm một số quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới
18 tuổi, thực tiễn thực hiện và các vướng mắc trên thực tế.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối
với người dưới 18 tuổi theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, cụ thể
là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong đó
luận văn tập trung vào hai nhóm vấn đề gồm Hội đồng xét xử sơ thẩm và phiên tịa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi.
Về không gian và thời gian: Tác giả khảo sát thực tiễn thực hiện thủ tục xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi trên phạm vi toàn quốc trong
khoảng thời gian từ năm 2015 cho đến khi hoàn thành luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, học viên sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ
biến trong khoa học pháp lý như sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết luật học: được sử dụng để phân tích, giải
thích và đánh giá những quy định của pháp luật có liên quan đến đề tài luận văn.
5
- Phương pháp lịch sử: được sử dụng để lý giải cơ sở một số quy định về xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi gắn với từng mốc thời gian sửa
đổi pháp luật.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để đối chiếu, so sánh quy định của các
văn bản pháp luật điều chỉnh cùng một vấn đề với mục đích chỉ ra những điểm khơng
tương thích, mâu thuẫn hoặc chồng chéo; so sánh với pháp luật nước ngồi để tìm ra
những ưu điểm, nhược điểm mà pháp luật Việt Nam có thể học hỏi và áp dụng.
- Phương pháp tình huống: được sử dụng để phân tích, đánh giá những vụ
việc, vụ án minh chứng cho những hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu có ý nghĩa nhất định khi nêu ra những vướng mắc, bất
cập của luật định về Hội đồng xét xử sơ thẩm và phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự đối với người dưới 18 so với thực tế áp dụng, từ đó đề xuất các kiến nghị,
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của luận văn được kết cấu như sau:
Chương 1. Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi
Chương 2. Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi
6
CHƯƠNG 1
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
1.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự đối với người dưới 18 tuổi
1.1.1. Quy định về thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với
người dưới 18 tuổi
Trong tố tụng hình sự, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được coi là giai đoạn
trọng tâm của quá trình tố tụng. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động do Tòa án
thực hiện nhằm xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ, tài liệu của vụ án hình sự
trên cơ sở đó ra bản án, quyết định xác định có hành vi phạm tội hay khơng, người
thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt được áp dụng đối với người đã thực hiện hành
vi phạm tội và giải quyết các vấn đề khác có liên quan trong vụ án hình sự.
Để xét xử sơ thẩm một vụ án hình sự thì cần có Hội đồng xét xử sơ thẩm thực
hiện hoạt động này. Hội đồng xét xử sơ thẩm theo từ điển luật học định nghĩa là
“Hội đồng gồm các Thẩm phán và Hội thẩm do Tịa án có thẩm quyền lập ra để
nhân danh Nhà nước trực tiếp xét xử tại phiên tòa các vụ án và ra bản án hoặc
quyết định đối với các vụ án”1. Khi xét xử sơ thẩm, HĐXX có nhiệm vụ giải quyết
tồn bộ vụ án. Mọi chứng cứ, tài liệu được thu thập ở giai đoạn điều tra hoặc điều
tra bổ sung đều được xem xét, thẩm tra, đánh giá một cách khách quan và công khai
tại phiên tịa. Những người tham gia tố tụng được trình bày ý kiến của mình và
tranh luận bình đẳng tại phiên tịa theo đúng ngun tắc của tố tụng hình sự.
Chương XXVIII trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2021) (gọi tắt là BLTTHS năm 2015) có tên gọi là: “Thủ tục tố tụng đối với
người dưới 18 tuổi” gồm 18 điều (từ Điều 423 đến Điều 430). Việc quy định thủ tục
này thể hiện rõ chính sách hình sự nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, cũng như
yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, ngừa tội phạm liên quan đến người dưới 18 tuổi,
phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Hội đồng
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi gồm có Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân. Hội đồng xét xử là một yếu tố quan trọng trong việc xét xử vụ án
Khổng Quang Trường (2017), Hội đồng xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự, Luận văn thạc sĩ,
Học viện khoa học xã hội Hà Nội, tr.9.
1
7
hình sự, nên BLTTHS 2015 đã quy định tương đối đầy đủ và cụ thể về nhiệm vụ,
quyền hạn của từng chủ thể tiến hành tố tụng.
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
được Chánh án Tòa án nơi thụ lý vụ án phân công tham gia xét xử vụ án (điểm b
khoản 1 Điều 44). Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa phải ra một trong các quyết định sau (khoản 1 Điều 277): (a) Đưa vụ án ra xét xử;
(b) Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung; (c) Tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án.
Trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải nêu rõ họ tên Thẩm phán, Hội
thẩm, Thẩm phán dự khuyết và Hội thẩm dự khuyết nếu có. Như vậy, về mặt pháp
lý thì Hội đồng xét xử sơ thẩm không cố định và không thường trực trong cơ cấu tổ
chức của Tòa án mà là một Hội đồng được thành lập khi có sự phân công, quyết
định của Chánh án và tự giải tán sau khi hết thẩm quyền giải quyết vụ án.
Cụ thể, Điều 254 BLTTHS năm 2015 quy định về thành phần Hội đồng xét
xử gồm:
“1. Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trường
hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể
gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.
Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của
khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai
Thẩm phán và ba Hội thẩm.”
Thành phần Hội đồng xét xử được quy định như trên đã phù hợp với những
nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là: Việc xét xử của Tịa án có Hội thẩm tham
gia; Ngun tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và tuân theo pháp luật;
Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Ngoài những thành viên
Hội đồng xét xử chính thức, cịn có thể có Thẩm phán và Hội thẩm dự khuyết để
thay thế Thẩm phán và Hội thẩm chính thức khi cần thiết.
Việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi tham gia cần có
những điều kiện đặc biệt hơn so với vụ án hình sự thơng thường. Đối với thành viên
HĐXX, ngoài áp dụng quy định chung theo Điều 254 thì nhà làm luật cịn đặt ra một
số tiêu chuẩn chuyên biệt. Xuất phát từ những đặc thù về lứa tuổi của người dưới 18
tuổi và chính sách nhân đạo của Nhà nước, Điều 415 BLTTHS năm 2015 quy định
người tiến hành tố tụng đối với vụ án có người dưới 18 tuổi phải là người đã được
8
đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới
18 tuổi, có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18
tuổi. Đây là một điều kiện bắt buộc. Quy định này được xem là phù hợp với chuẩn
mực pháp lý quốc tế và pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, khi áp
dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong việc xét xử các vụ án hình sự
sơ thẩm có người dưới 18 tuổi tham gia vẫn còn một số vướng mắc.
1.1.2. Quy định về Thẩm phán xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người
dưới 18 tuổi
“Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật này
được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử.”2. Theo khái niệm này thì có
thể hiểu, Thẩm phán là một chức danh tư pháp, thực hiện việc xét xử và là công
chức của Nhà nước. Trong Hội đồng xét xử, Thẩm phán là người có trình độ chun
mơn cao về việc hiểu biết và áp dụng pháp luật. Thẩm phán đóng vai trị chính thực
hiện nhiệm vụ, chức năng xét xử của Tòa án, là sự hiện diện của Nhà nước trong
việc thực hiện chức năng xét xử. Khi được phân công thụ lý, giải quyết, xét xử một
vụ án hình sự sơ thẩm thì Thẩm phán đóng vai trò điều khiển cho các hoạt động của
giai đoạn chuẩn bị xét xử và giai đoạn xét xử được diễn ra một cách trơn tru và
đúng quy định pháp luật.
Thẩm phán có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm theo quy định tại Điều
45 BLTTHS năm 20153. Đối với vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi tham gia thì
Điều 65 Luật tổ chức Tịa án nhân dân năm 2014
Điều 45. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán
1. Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự có những nhiệm vụ, quyền hạn:
a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa;
b) Tiến hành xét xử vụ án;
c) Tiến hành hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử;
d) Tiến hành hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân cơng của Chánh án Tịa án.
2. Thẩm phán chủ tọa phiên tịa có những nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1 Điều này và những
nhiệm vụ, quyền hạn:
a) Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ biện pháp tạm giam;
b) Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án;
d) Điều hành việc xét xử vụ án, tranh tụng tại phiên tòa;
đ) Quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi
hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản;
e) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội;
yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật;
g) Quyết định triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa;
h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tịa án theo sự phân cơng của Chánh
án Tòa án theo quy định của Bộ luật này.
3. Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình.
2
3
9
ngồi quy định tại Điều 45 BLTTHS, Thẩm phán cịn phải có các điều kiện theo
Điều 415 BLTTHS: “… phải là người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều
tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết cần thiết
về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi”. Theo quy định tại
Điều 1 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC của Tòa án nhân dân Tối cao, thẩm
quyền xét xử vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi tham gia thuộc về Tịa gia đình
và người chưa thành niên - là Tòa chuyên trách xét xử các vụ án hình sự đối với
người chưa thành niên4. Tuy nhiên, đối với các Tịa án chưa có điều kiện tổ chức
Tịa gia đình và người chưa thành niên như các Tịa án nhân dân cấp huyện thì
việc xét xử sẽ do Thẩm phán có đủ điều kiện thực hiện, cụ thể: “Thẩm phán là
người có kinh nghiệm xét xử các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi hoặc đã
được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có
người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi hoặc đã được đào tạo, tập huấn, bồi
dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi”5.
Bên cạnh đó, Điều 5 Thơng tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTCTANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH (gọi tắt là Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT)6
quy định rõ hơn về việc phân cơng người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Theo đó,
Thẩm phán khi được phân cơng tiến hành tố tụng đối với vụ án có người tham gia tố
tụng là người dưới 18 tuổi phải có ít nhất một trong các điều kiện: “a) Có kinh
nghiệm xét xử các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi; b) Đã được đào tạo, tập
huấn, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có người tham gia tố tụng
là người dưới 18 tuổi; c) Đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý học, khoa
học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi.”
Như vậy, áp dụng theo Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT và Thơng tư số
02/2018/TT-TANDTC thì Thẩm phán chỉ cần có một trong các điều kiện quy định
nêu trên là đã có thể tiến hành tố tụng chứ khơng cần phải có đủ các điều kiện như
quy định tại Điều 415 BLTTHS năm 2015.
Điều 3 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/09/2018 quy định thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự
của Tịa gia đình và NCTN bao gồm: (1) Vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi; (2) Vụ án hình sự có bị
hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do
khơng có mơi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác. Như vậy, đối với những vụ án
thỏa mãn một trong hai điều kiện nêu trên, thì thuộc thẩm quyền của Tịa gia đình và người chưa thành niên.
5
Điều 6 Thơng tư số 02/2018/TT-TANDTC.
6
Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh
và xã hội về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi.
4
10
Tuy nhiên, theo quy định trong BLTTHS năm 2015 và 02 văn bản pháp luật
nói trên, điều kiện “có kinh nghiệm xét xử các vụ án liên quan đến người dưới 18
tuổi” được hiểu là đã tham gia Hội đồng xét xử bao nhiêu vụ án hoặc đã thực hiện
các phần nào khác của hoạt động tố tụng thì luật lại chưa có quy định cụ thể. Những
Thẩm phán vừa được bổ nhiệm, thường chưa được đào tạo các lớp về tâm lý học,
khoa học giáo dục người dưới 18 tuổi vì các lớp này rất hiếm được mở. Các Thẩm
phán sơ cấp trước đây đã từng tham gia phiên tịa xét xử có người dưới 18 tuổi với
vai trị là Thư ký có được xem là có kinh nghiệm hay khơng? Pháp luật tố tụng hình
sự chưa quy định cụ thể về điều kiện này.
1.1.3. Quy định về Hội thẩm nhân dân xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với
người dưới 18 tuổi
Hội thẩm nhân dân được ghi nhận và trở thành một chế định quan trọng trong
hoạt động của Tòa án bằng Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945 và Sắc lệnh số 13/SL
ngày 21/01/1946. Hiến pháp năm 1946 đã chính thức ghi nhận nguyên tắc đại diện
nhân dân tham gia xét xử. “Trong khi xét xử việc hình phải có Phụ thẩm nhân dân để
tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với Thẩm phán nếu là
việc đại hình”. Bước vào những năm 50, nền tư pháp của chế độ mới đã có những cải
cách lớn nhằm đáp ứng đầy đủ hơn nữa yêu cầu của cách mạng, đòi hỏi của nhân dân.
Bằng Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và Luật tố tụng,
phụ thẩm nhân dân được đổi là Hội thẩm nhân dân và đã quy định rõ hơn về địa vị
pháp lí của Hội thẩm. Hiến pháp năm 1959 được ban hành và đã ghi nhận nguyên tắc
Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử “Việc xét xử ở các Toà án nhân dân có Hội thẩm
nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật”7. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959,
Điều 112 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 quy định: “Khi xét xử sơ thẩm,
Toà án nhân dân gồm có một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân”.
Theo pháp luật hiện hành, chế định Hội thẩm nhân dân được quy định tại
Điều 84, 85, 86 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Điều 46 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Hội thẩm
nhân dân khi tham gia xét xử. Theo đó:
“1. Hội thẩm được phân cơng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có những nhiệm
vụ, quyền hạn:
a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa;
7
Điều 59 Hiến pháp 1959.
11
b) Tiến hành xét xử vụ án;
c) Tiến hành hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền
của Hội đồng xét xử.
2. Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định
của mình.”
Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, đồng thời, cũng do Hội đồng nhân dân
cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân cùng
cấp sau khi thống nhất với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Nhiệm kì
của Hội thẩm nhân dân theo nhiệm kì của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Khi Hội đồng
nhân dân hết nhiệm kì, Hội thẩm nhân dân tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Hội
đồng nhân dân khoá mới bầu được Hội thẩm nhân dân mới. Hội thẩm nhân dân làm
nhiệm vụ theo sự phân cơng của Chánh án Tồ án nhân dân nơi mình được bầu, được
bồi dưỡng về nghiệp vụ, được tham gia hội nghị tổng kết công tác xét xử của Toà án,
được cấp trang phục và giấy chứng minh hội thẩm để làm nhiệm vụ xét xử, được
hưởng phụ cấp theo quy định của pháp luật. Hội thẩm nhân dân phải từ chối tham gia
xét xử hoặc bị thay đổi trong các trường hợp do pháp luật tố tụng quy định. Khi tham
gia xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán và độc lập, chỉ tuân theo
pháp luật. Cùng với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chịu trách nhiệm trước pháp luật
về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có nghĩa vụ giữ bí mật Nhà nước, bí
mật cơng tác, nếu gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường, nếu vi phạm pháp luật
thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lí kỉ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của pháp luật. Hội thẩm nhân dân phải tôn trọng nhân dân và
chịu sự giám sát của nhân dân. Hội thẩm nhân dân có thể được miễn nhiệm vì lí do
sức khoẻ hoặc lí do khác và bị bãi nhiệm khi có vi phạm về phẩm chất đạo đức hoặc
có hành vi vi phạm pháp luật khơng cịn xứng đáng làm Hội thẩm nhân dân.
Đối với Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có người
dưới 18 tuổi, ngồi những quy định nêu trên cịn có thêm một số điều kiện cụ thể
riêng. Khoản 1 Điều 307 BLTTHS năm 2003 quy định phải có một Hội thẩm là giáo
viên hoặc là cán bộ Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 423 BLTTHS năm 2015, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án
phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đồn thanh niên hoặc người có kinh
nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi. Diện người cuối cùng mới được bổ sung
12
vào BLTTHS năm 2015 và được giải thích bởi khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch số
06/2018/TTLT như sau: “Người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi”
được hiểu là “người có thâm niên cơng tác trong lĩnh vực tư pháp, quản lý, đào tạo,
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục người dưới 18 tuổi; người được đào tạo về giáo dục
thanh, thiếu niên, nhi đồng hoặc những người khác có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý
người dưới 18 tuổi”8. Việc bổ sung này của nhà làm luật nhằm đáp ứng nhu cầu xét
xử thực tiễn do đã mở rộng phạm vi những người có thể tham gia vào Hội đồng xét
xử với tư cách là Hội thẩm để xét xử những vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi.
Khoản 3 Điều 2 Thơng tư số 02/2018/TT-TANDTC có cách giải về chủ thể
này hồn tồn giống Thơng tư liên tịch số 06/2018/TTLT. Ngồi ra Thơng tư số
02/2018/TT-TANDTC cịn đưa ra ví dụ cụ thể bao gồm: “Thẩm phán chuyên trách
xét xử các vụ án có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi đã nghỉ hưu; giáo
viên đã nghỉ hưu; cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em; cán bộ làm công tác xã hội,
cộng tác viên trẻ em; người đã tham gia công tác tại cơ quan, tổ chức liên quan đến
hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm và giáo dục người dưới 18 tuổi; người
làm công tác bảo vệ trẻ em; đại diện Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội bảo vệ
quyền trẻ em, Hội cựu chiến binh có kinh nghiệm trong quản lý, giáo dục, giúp đỡ
người phạm tội và người vi phạm pháp luật là người dưới 18 tuổi.”
1.2. Thực tiễn thực hiện quy định của luật tố tụng hình sự về Hội đồng
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi
1.2.1. Hạn chế trong việc phân công Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân tham
gia xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi và nguyên nhân
Hiện nay, các vụ án hình sự sơ thẩm có người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng
được giải quyết bởi Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh theo
tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và theo thẩm quyền quy định tại
BLTTHS. Trong đó, một số vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi tham gia thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tịa gia đình và người chưa thành niên.9 Tuy nhiên, Tịa
gia đình và người chưa thành niên chỉ mới được thành lập và thực hiện ở một số
Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp cao, các Tòa án cấp huyện đa số chưa có tịa chun
trách này. Vì vậy, việc phân công Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi chưa phải theo quy định về việc
8
9
Khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT.
Quy định chi tiết tại Điều 3, 4 và 5 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC.
13
Thẩm phán tòa chuyên trách giải quyết mà theo sự phân công của Chánh án cấp
tỉnh/huyện. Hội thẩm nhân dân cũng tham gia khi có giấy mời của Tịa án và khi
Hội thẩm sắp xếp được công việc để tham gia Hội đồng xét xử chứ không cố định.
Đối với Thẩm phán: Ở các Tòa án nhân dân cấp huyện, số lượng Thẩm phán
ít, thường có Thẩm phán sơ cấp vừa bổ nhiệm nên án hình sự có người dưới 18 tuổi
không phân công cho họ giải quyết. Nhưng nếu thời gian dài, Thẩm phán sơ cấp
không được tập huấn, đào tạo về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới
18 tuổi nhưng lại khơng có kinh nghiệm xét xử án này, thì sẽ khó có thể đảm bảo đủ
Thẩm phán có kinh nghiệm giải quyết trong khi hiện nay tình trạng trẻ em vi phạm
pháp luật diễn biến hết sức phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Thẩm phán ở Tòa
án nhân dân cấp tỉnh thuộc Tịa gia đình và người chưa thành niên cũng có số lượng
ít, chủ yếu Thẩm phán có kinh nghiệm trong việc xét xử án hình sự có người dưới
18 tuổi tham gia, nhưng cũng chưa được đào tạo, bồi dưỡng về khoa học, tâm lý
người chưa thành niên. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học hiện đại, sự bùng
nổ của cơng nghệ thơng tin thì tâm lý người dưới 18 tuổi có nhiều thay đổi chứ
khơng giống những năm trước kia. Thẩm phán cần phải nắm bắt kịp thời sự thay đổi
đó để áp dụng vào hoạt động xét xử để có thể bảo vệ quyền lợi của người chưa
thành niên, mần non tương lai của đất nước.
Đối với Hội thẩm: Hội thẩm nhân dân ở cấp huyện và tỉnh có số lượng giới
hạn, Hội thẩm là giáo viên, cán bộ Đồn thanh niên, người có hiểu biết cần thiết về
tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi rất ít. Vì vậy, việc phân
cơng đơi khi gặp khó khăn vì Hội thẩm cịn bận cơng việc chính, khó sắp xếp thời
gian. Càng khó hơn cho Tịa án để tìm Hội thẩm dự khuyết. Dưới đây là bảng số liệu
thống kê về Hội thẩm nhân dân ở tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ năm 2016 đến năm 2021:
STT
Tòa tỉnh/
huyện
Tổng số
Hội thẩm
Số lượng Hội thẩm
nhân dân là giáo viên
Số lượng Hội thẩm
nhân dân thuộc
Đoàn thanh niên
1
Phú n
21
4
1
2
Tây Hịa
20
1
1
3
Đơng Hịa
17
3
1
4
Tuy Hịa
24
3
1
5
Phú Hịa
19
3
1
14
6
Tuy An
23
2
2
7
Sơng Cầu
23
2
3
8
Đồng Xn
14
1
1
9
Sơng Hinh
17
2
2
10
Sơn Hịa
17
3
1
(Nguồn: Phịng Tổ chức cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên)
Qua nghiên cứu bảng số liệu trên cho thấy số lượng Hội thẩm nhân dân thuộc
Đồn thanh niên và giáo viên là chính, số lượng Hội thẩm có hiểu biết cần thiết về
tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi thì chưa xác định rõ.
Những Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử người dưới 18 tuổi khoảng 3-4 vụ
án/năm có được coi là người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi
không? Vậy nếu trong vụ án có 02 Hội thẩm nhân dân đều là cán bộ hưu trí, nhưng
họ đã tham gia nhiều vụ án hình sự có người chưa thành niên thì có sai quy định
pháp luật khơng? Nếu áp dụng như tác giả đã ví dụ thì thuận lợi cho các Tịa án có
số lượng Hội thẩm là giáo viên hay cán bộ đồn ít.
Trên thực tế những hội thẩm tham gia Đồn thanh niên thường là Bí thư, Phó
Bí thư các huyện đồn; Hiệu trưởng các trường; Trưởng phịng, Phó Trưởng phịng
Phịng giáo dục… Những hội thẩm này thường có lịch làm việc dày đặc, hội nghị,
họp… Nên thời gian tham gia phiên tịa đơi khi khó sắp xếp, đặc biệt đối với
khoảng thời gian cuối năm khi các cơ quan, đồn thể tiến hành các cơng việc để
tổng kết năm.
Nhiều vụ án có Hội đồng xét xử gồm 05 người, việc sắp xếp công việc để 03
Hội thẩm tham gia phiên tịa đơi khi gặp khó khăn vì nếu 01 người bận mà khơng có
Hội thẩm dự khuyết thì phải hỗn phiên tịa. Có phiên tịa hỗn nhiều lần vì thiếu
thành viên Hội đồng xét xử gây ảnh hưởng đến thời hạn xét xử, tâm lý của người
dưới 18 tuổi.
Lấy điển hình, vụ án hình sự sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Anh Tài tại TAND
tỉnh Phú Yên10. Bị cáo là người dưới 18 tuổi bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh truy tố về
tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”, đề xuất khung hình phạt từ 12 đến 20 năm theo
khoản 2 Điều 142 BLHS. Theo nội dung vụ án thì vụ án cũng khơng có nhiều tình tiết
phức tạp, bị cáo khai nhận hồn tồn hành vi phạm tội. Vậy, theo Điều 254 thì thành
10
Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2020/HSST ngày 17/9/2020 của Tịa án nhân dân tỉnh Phú Yên.
15
phần Hội đồng xét xử vụ án này gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm, nhưng lại
phân công Hội đồng xét xử gồm 05 thành viên (trong đó khơng có Hội thẩm và Thẩm
phán dự khuyết). Việc thành lập Hội đồng xét xử dư so với quy định gây ảnh hưởng
trong việc sắp xếp thời gian xét xử để vừa có đủ 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm.
Ngồi ra, trong trường hợp Hội đồng xét xử đã tiến hành nghị án, nhưng sau
đó có một Hội thẩm hoặc Thẩm phán khơng thể tham gia tun án thì giải quyết
như thế nào? BLTTHS chưa có quy định về sự vắng mặt của HĐXX khi tuyên án.
1.2.2. Hạn chế trong công các đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán chuyên trách
xét xử án hình sự người chưa thành niên
Pháp luật yêu cầu người tiến hành tố tụng các vụ án liên quan đến người chưa
thành niên phải có các kiến thức cần thiết về sự phát triển của người chưa thành
niên, tâm lý học, khoa học sư phạm cũng như kinh nghiệm và kỹ năng cần thiết để
có thể làm việc hiệu quả với người chưa thành niên. Tuy nhiên, không phải người
tiến hành tố tụng nào tham gia xử lý các vụ án có người chưa thành niên tham gia
cũng có đủ các kiến thức và kỹ năng cần thiết. Nhiều Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân cho biết đã được tham gia một số đợt tập huấn chung về tư pháp với người chưa
thành niên tuy nhiên chưa chuyên sâu về kỹ năng tố tụng thân thiện với người chưa
thành niên và nhạy cảm giới.
Hiện nay có một số hội thảo, tập huấn chủ yếu về Tịa gia đình và người chưa
thành niên. Các lớp này thường chỉ tập trung ở các Tòa án nhân dân cấp tỉnh và một
số Tịa án nhân dân cấp huyện đã có Tịa gia đình và người chưa thành niên, cịn đa
số Tịa án nhân dân các huyện khơng có tịa chun trách này thì lại khơng có cơ hội
tiếp cận các buổi tập huấn. Việc phổ biến lại cho các Thẩm phán sơ cấp ở huyện
chưa kịp thời, không thường xuyên hoặc không đầy đủ. Năm 2020, Tịa án nhân dân
Tối cao có tổ chức tập huấn trực tuyến với tồn bộ Tịa án các cấp trên cả nước với
nội dung “Trao đổi kinh nghiệm hoạt động và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm
quyền Tịa gia đình và người chưa thành niên”. Năm 2022, Tòa án nhân dân tối cao
đã tổ chức tập huấn trực tuyến cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký về “Xét xử
các vụ án xâm hại tình dục đối với người dưới 18 tuổi”. Có thể thấy các buổi tập
huấn cịn ít, nội dung cũng chưa đầy đủ để phục vụ cho công tác xét xử án hình sự
có người dưới 18 tuổi tham gia. Những đợt tập huấn này thời gian thường kéo dài
01 buổi hoặc 01 ngày nên nội dung được truyền tải còn vắn tắt. Tài liệu thường
được cung cấp trong quá trình tập huấn hoặc sau khi tập huấn nên trước đó Thẩm
16
phán chưa có văn bản để nghiên cứu trước, cũng như chưa đưa ra được nhiều ý kiến
thảo luận tại buổi tập huấn.
Lớp bồi dưỡng kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có người tham gia tố
tụng là người dưới 18 tuổi và lớp đào tạo về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với
người dưới 18 tuổi cũng chưa thấy được mở số lượng lớn để Thẩm phán, Hội Thẩm
và các chức danh tư pháp khác có cơ hội tiếp cận, học tập.
Trên thực tế, việc đào tạo cho Thẩm phán để có kỹ năng, kinh nghiệm trong
việc xét xử, giải quyết các vụ án hình sự còn chưa nhiều. Các lớp tập huấn gần đây
được mở chủ yếu quan tâm vào việc tổ chức mô hình của Tịa gia đình và người chưa
thành niên chứ chưa chú trọng đến việc bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho Thẩm phán
ở các cấp. Do đó, dễ dẫn đến hiện tượng án hình sự sơ thẩm có người dưới 18 tuổi
tham gia nhưng Thẩm phán vẫn đưa ra xét xử giống như vụ án hình sự thơng thường.
1.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định của luật tố tụng hình sự về Hội đồng
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi và bảo đảm thực hiện
1.3.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định của luật tố tụng hình sự về Hội đồng xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi
Thứ nhất, Điều 415 BLTTHS năm 2015 quy định: “Người tiến hành tố tụng
đối với vụ án có người dưới 18 tuổi phải là người đã được đào tạo hoặc có kinh
nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết
cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi.” Nhưng theo
khoản 1 Điều 6 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC và khoản 1 Điều 5 Thông tư liên
tịch số 06/2018/TTLT thì người tiến hành tố tụng chỉ cần thỏa mãn một trong các
điều kiện nêu tại Điều 415 BLTTHS. Vì vậy, tác giải đề xuất sửa Điều 415 như sau:
“Người tiến hành tố tụng đối với vụ án có người dưới 18 tuổi phải có ít nhất
một trong các điều kiện sau đây:
a) Là người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ
án liên quan đến người dưới 18 tuổi;
b) Có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới
18 tuổi”
Thứ hai, đối với BLTTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn cần có quy
định cụ thể về Thẩm phán “có kinh nghiệm” trong việc xét xử vụ án hình sự có
người dưới 18 tuổi.
17
Như đã phân tích, Điều 415 BLTTHS năm 2015 chỉ ghi “có kinh nghiệm”
nhưng khơng nói rõ kinh nghiệm được hiểu như thế nào. Trường hợp khi Thư ký,
Thẩm tra viên tham gia các phiên tòa xét xử các vụ án liên quan đến người dưới 18
tuổi với vai trò Thư ký phiên tịa thì họ cũng đã đúc kết được một số kinh nghiệm
cho bản thân. Vậy, nên chăng quy định về có kinh nghiệm được hiểu là có tham gia
02 vụ án trở lên với vai trò khác. Do đó, tác giả đề xuất sửa Điều 415 như sau:
“Người tiến hành tố tụng đối với vụ án có người dưới 18 tuổi phải là người
đã được đào tạo hoặc đã tham gia điều tra, truy tố, xét xử 02 vụ án trở lên liên
quan đến người dưới 18 t̉i bằng các vai trị khác, có hiểu biết cần thiết về tâm lý
học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi.”
Khoản 1 Điều 6 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC quy định: “1. Thẩm
phán là người có kinh nghiệm xét xử các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi
hoặc đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự
có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi hoặc đã được đào tạo, tập huấn,
bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi”. Tương tự
phân tích nêu trên, tác giả đề xuất sửa khoản 1 Điều 6 Thông tư số 02/2018/TTTANDTC như sau:
“1. Thẩm phán là người đã tham gia xét xử 02 vụ án trở lên liên quan đến
người dưới 18 tuổi bằng các vai trò khác hoặc đã được đào tạo, tập huấn, bồi
dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người
dưới 18 tuổi hoặc đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học
giáo dục đối với người dưới 18 tuổi”.
Khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT quy định: “1. Điều tra
viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán khi được phân công tiến hành tố
tụng đối với vụ án có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi phải có ít nhất
một trong các điều kiện sau đây:a) Có kinh nghiệm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi; b) Đã được đào tạo, tập huấn, bồi
dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người
dưới 18 tuổi; c) Đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo
dục đối với người dưới 18 tuổi.”. Mặc dù thông tư 06 đã quy định rõ hơn về điều
kiện của Thẩm phán khi được phân cơng tiến hành tố tụng đối với vụ án có người
dưới 18 tuổi tham gia nhưng vẫn không nêu rõ “có kinh nghiệm” là như thế nào, tác
giả đề xuất sửa khoản 1 Điều 6 Thông tư số 06/2018/TTLT như sau:
18
“...a) Đã tham gia điều tra, truy tố, xét xử 02 vụ án trở lên liên quan đến
người dưới 18 t̉i bằng các vai trị khác”
Thứ ba, theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC và
khoản 2 Điều 5 Thơng tư liên tịch số 06/2018/TTLT thì: “Người có kinh nghiệm, hiểu
biết tâm lý người dưới 18 tuổi là người có thâm niên cơng tác trong lĩnh vực tư pháp,
quản lý, đào tạo, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục người dưới 18 tuổi; người được đào tạo
về giáo dục thanh, thiếu niên, nhi đồng hoặc những người khác có kinh nghiệm, hiểu
biết tâm lý người dưới 18 tuổi.” Để mở rộng số lượng Hội thẩm nhân dân có thể tham
gia HĐXX vụ án hình sự sơ thẩm có người dưới 18 tuổi, nhà làm luật nên quy định
thêm về người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi là Hội thẩm đang
trong nhiệm kỳ đã tham gia xét xử 02 vụ án hình sự trở lên đối với bị cáo dưới 18 tuổi.
Theo ý kiến tác giả, để Hội thẩm tham gia xét xử vụ án hình sự có bị cáo dưới 18 tuổi
thì Hội thẩm cũng phải nghiên cứu các tình tiết trong hồ sơ vụ án, nắm bắt tâm lý người
dưới 18 tuổi để có thể đặt những câu hỏi phù hợp với người chưa thành niên trong quá
trình xét xử tại phiên tòa và đưa ra những quyết định đúng đắn. Nếu có quy định cụ thể
hơn thì thuận tiện cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xét xử.
Do đó, tác giả đề xuất bổ sung như sau: “Thẩm phán chuyên trách xét xử các
vụ án có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi đã nghỉ hưu; Hội thẩm đang
trong nhiệm kỳ đã tham gia xét xử 02 vụ án hình sự trở lên đối với bị cáo dưới 18
tuổi; giáo viên đã nghỉ hưu; cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em,…”
Đồng thời, khoản 3 Điều 2 Thơng tư số 02/2018/TT-TANDTC có quy định
về “người có thâm niên cơng tác”, nhưng khơng quy định thâm niên công tác là bao
lâu, dễ dẫn đến tình trạng mỗi Tịa án hiểu một cách khác nhau. Do đó, tác giả đề
xuất sửa đổi quy định này như sau: “Người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người
dưới 18 tuổi là người có 05 năm cơng tác trong lĩnh vực tư pháp, quản lý, đào tạo,
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục người dưới 18 tuổi…”
Thứ tư, Điều 327 BLTTHS quy định về việc tuyên án: “Chủ tọa phiên tòa
hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc bản án. Trường hợp xét xử kín
thì chỉ đọc phần quyết định trong bản án. Sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về
việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo”. BLTTHS chỉ quy định về cách xử lý
đối với trường hợp vắng mặt thành viên Hội đồng xét xử trong quá trình xét xử
nhưng chưa có quy định về việc vắng mặt thành viên Hội đồng xét xử trong quá
trình tuyên án. Nên tác giả đề xuất sửa đổi quy định này như sau:
19
“Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc bản
án. Trường hợp trên một nửa số lượng thành viên của Hội đồng xét xử vắng mặt
khi tuyên án vì lý do khách quan nhưng đã tham gia nghị án thì các thành viên
cịn lại vẫn tiếp tục tuyên án. Trường hợp xét xử kín thì chỉ đọc phần quyết định
trong bản án. Sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và
quyền kháng cáo.
1.3.2. Kiến nghị bảo đảm thực hiện quy định của luật tố tụng hình sự về Hội
đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi
Thứ nhất, Tòa án nhân dân Tối cao cần tăng cường tổ chức các buổi tập huấn,
hội nghị nhằm đào tạo kinh nghiệm chuyên sâu cho Thẩm phán, Hội thẩm về việc
xét xử án hình sự có người dưới 18 tuổi tham gia.
Thứ hai, Tịa án nhân dân Tối cao nên phối hợp với các cơ quan, tổ chức để
mở các lớp bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi
cho Thẩm phán, Hội thẩm chuyên trách để họ nắm được tâm lý trong việc giải
quyết vụ án. Kết thúc các lớp bồi dưỡng thì học viên theo học sẽ được cấp giấy
chứng nhận để làm minh chứng có đủ điều kiện tham gia Hội đồng xét xử.
Thứ ba, Thẩm phán, Hội thẩm nên cần tự cập nhật xu hướng hiện nay của
giới trẻ, nhất là lứa tuổi dưới 18 và xu thế hội nhập của các nước trên thế giới để
vừa phù hợp trong việc thực thi pháp luật Việt Nam nhưng cũng vừa phù hợp với
các quy chế của các nước mà Việt Nam là thành viên.
Thứ tư, việc tinh giản biên chế cũng ảnh hướng lớn đến công tác xét xử của
Thẩm phán khi số lượng án ngày càng tăng nhưng có những Thẩm phán nghỉ hưu,
nghỉ việc, cũng khiến cho những Thẩm phán có kinh nghiệm tăng số lượng án thụ
lý nên việc giải quyết án cịn chậm, ảnh hưởng đến cơng tác xét xử chung và quyền
lợi của người dân, vì vậy, cần có sự phân bổ biên chế phù hợp để Tịa án có thể giải
quyết các vụ án được thuận lợi, đúng quy định pháp luật.
Thứ năm, việc bổ nhiệm Hội thẩm cũng nên xem xét ưu tiên tăng số lượng
Hội thẩm là giáo viên, người làm cơng tác đồn, người được đào tạo về tâm lý, khoa
học người dưới 18 tuổi để đáp ứng được nhu cầu xét xử các vụ có người chưa thành
niên gia tăng như hiện nay.