Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Biện pháp chống bán phá giá trong hoạt động thương mại quốc tế Thực tiễn áp dụng thông qua vụ việc chống bán phá giá đối với mặt hàng thép không gỉ cán nguội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.31 KB, 30 trang )

TIỂU LUẬN

BIỆN PHÁP CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ THỰC TIỄN ÁP DỤNG THÔNG QUA VỤ
VIỆC CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ ĐỐI VỚI MẶT
HÀNG THÉP KHÔNG GỈ CÁN NGUỘI

Ngành: NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

NĂM 2022


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
PHẦN II: NỘI DUNG............................................................................................ 2
1. Một số vấn đề lý luận về biện pháp chống bán phá giá trong hoạt động thương
mại quốc tế .............................................................................................................. 2
1.1. Khái niệm bán phá giá và chống bán phá giá .............................................. 2
1.2. Điều kiện và trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp chống bán phá giá ....... 3
1.3. Áp dụng biện pháp chống bán phá giá và điều kiện miễn trừ áp dụng biện
pháp chống bán phá giá ......................................................................................... 5
2. Thực tiễn áp dụng biện pháp chống bán phá giá ở nước ta thông qua vụ việc
chống bán phá giá đối với mặt hàng thép không gỉ cán nguội .......................... 7
2.1. Quy trình, thủ tục pháp lý mà Bộ Cơng thương, Chính phủ Việt Nam đã
tiến hành và nội dung giải quyết các đề nghị, kiến nghị của Công ty CP thang
máy Thiên Nam trong thời gian tiến hành rà soát chống bán phá giá đối với thép
không gỉ lần 1 và lần 2 trong vụ việc .................................................................... 7
2.2. Xác định các ý kiến, quan điểm của Hiệp hội thép Việt Nam (VSA) và các
công ty sản xuất thép không gỉ tại Việt Nam đối với BCT và các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền liên quan trong việc đề nghị miễn trừ biện pháp chống bán
phá giá đối với sản phẩm thép không gỉ cán nguội thuộc phạm vi áp dụng của


Quyết định số 3162/QĐ-BCT ngày 21/10/2019 về kết quả rà soát cuối kỳ việc áp
dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép khơng gỉ cán
nguội có xuất xứ từ Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và Đài Loan (Trung Quốc)
.................................................................................................................................. 17
2.3. Biện pháp trả đũa thương mại theo quy định của pháp luật thương mại quốc
tế và những vấn đề pháp lý cần lưu ý đối với biện pháp trả đũa thương mại trong
thực tiễn thương mại quốc tế của Việt Nam; các hoạt động cụ thể cần tiến hành
của Chính phủ, Hiệp hội thép Việt Nam (VSA) cùng với các cơng ty sản xuất
hoặc có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thép khi có hành động trả đũa thương
mại của các đối tác thương mại quốc tế ............................................................... 19


PHẦN III: KẾT LUẬN.......................................................................................... 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

CHỮ ĐƯỢC VIẾT TẮT

BCT

Bộ Công thương

CBPG

Chống bán phá giá



1

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Đối với Việt Nam, việc tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và hội
nhập quốc tế đã góp phần đổi mới tư duy chính sách, hoàn thiện chuẩn mực quản lý
nhà nước, quản trị doanh nghiệp, định hình khung khổ pháp lý và các chuẩn mực phát
triển các thể chế kinh tế - thương mại, tạo cơ sở pháp lý vững chắc làm cầu nối và
xung lực tích cực để đất nước từng bước mở cửa, mở rộng quy mơ thị trường hàng
hóa và dịch vụ, cải thiên cơ cấu và nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế
theo các thỏa thuận đa phương và song phương đã cam kết. Theo đó, việc mở cửa thị
trường cho hàng hóa nước ngồi cũng đồng thời xuất hiện những hiện tượng cạnh
tranh không lành mạnh của hàng hóa nước ngồi trên thị trường Việt Nam, đặc biệt
là việc giá bán quá thấp gây thiệt hại rất lớn cho các doanh nghiệp trong nước.
Ngày nay, đứng trước thách thức về cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị
trường nội địa, các quốc gia đã tăng cường sử dụng các công cụ bảo hộ ngày càng
tinh vi thông qua các biện pháp bảo đảm thương mại công bằng của WTO, trong đó
có biện pháp CBPG. Trong thương mại quốc tế, biện pháp CBPG được xem là một
trong ba cột trụ của hệ thống các biện pháp phòng vệ thương mại và được áp dụng để
bảo vệ thị trường nội địa trước sự thâm nhập của hàng hoá nước khác. Trong khi đó
ở Việt Nam bởi nhiều lý do, việc sử dụng các cơng cụ phịng vệ thương mại, đặc biệt
là biện pháp CBPG còn rất hạn chế. Bởi vậy, việc nhận thức, nắm vững và tăng cường
sử dụng công cụ CBPG hàng nhập khẩu là vô cùng quan trọng trong tình hình hiện
nay, đặc biệt đối với các doanh nghiệp trong nước. Trên cơ sở nghiên cứu các quy
định trong văn bản pháp luật cần áp dụng bao gồm các văn bản pháp luật của WTO
và các văn bản pháp luật của Việt Nam về các biện pháp phòng vệ thương mại trong
hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam, Công ty chúng tôi sẽ tư vấn một số vấn
đề pháp lý và thực tiễn về biện pháp CBPG để Q Khách hàng có cái nhìn toàn diện
và chi tiết về biện pháp này, đồng thời, giúp Quý Khách hàng có những xử sự phù
hợp khi khi biện pháp CBPG được áp dụng đối với hàng hoá mà Quý Khách hàng
thực hiện nhập khẩu.



2

PHẦN II: NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về biện pháp chống bán phá giá trong hoạt động
thương mại quốc tế
1.1. Khái niệm bán phá giá và chống bán phá giá
Bán phá giá trong thương mại quốc tế có thể hiểu là hiện tượng xảy ra khi một
loại hàng hoá được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với mức giá thấp hơn giá
bán của hàng hoá đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu. Cụ thể, theo Hiệp định
chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), bán phá giá nghĩa là “các sản phẩm
của nước đưa vào kinh doanh trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá
trị thông thường của sản phẩm”1; đồng thời, Hiệp định về Chống bán phá giá (ADA)
cũng định nghĩa “Một sản phẩm bị coi là bán phá giá nếu như giá xuất khẩu của sản
phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể
so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều
kiện thương mại thông thường”2. Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đây
được xem là “hành vi cạnh tranh không lành mạnh” của các nhà sản xuất, xuất khẩu
nước ngoài đối với ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu. Để ngăn ngừa bán phá
giá, Hiệp định GATT 1994 cũng nêu rõ “thành viên ký kết có thể áp thuế CBPG lên
sản phẩm bị bán phá giá nếu việc bán phá giá gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại
vật chất cho ngành công nghiệp đã hình thành hoặc ảnh hưởng vật chất đến sự hình
thành một ngành cơng nghiệp mới,…”3. Theo đó, CBPG là một trong các biện pháp
phòng vệ thương mại được nhà nước áp dụng nhằm đối phó với những ảnh hưởng
xấu của các sản phẩm được bán phá giá trong thị trường, thường được áp dụng nhất
là đánh thuế nhằm phá bỏ lợi thế về giá “không công bằng” của những sản phẩm này.
Như vậy, CBPG là một biện pháp phòng vệ thương mại được WTO cho phép các
thành viên áp dụng trong trường hợp hàng hóa nhập khẩu từ nước ngồi bán phá giá
gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước. Tại Luật Quản lý ngoại thương

1

Điều VI.1 Hiệp định GATT 1994.
Điều 2.1 Hiệp định ADA.
3
Điều VI.2 Hiệp định GATT 1947.
2


3

năm 2017 quy định biện pháp CBPG là “biện pháp được áp dụng trong trường hợp
hàng hóa được xác định bị bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam gây ra thiệt hại
đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất trong nước hoặc
ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước”4.
Trong WTO, các nguyên tắc về CBPG được quy định tại Điều VI Hiệp định
GATT, Hiệp định ADA chi tiết hoá Điều VI của Hiệp định GATT quy định về các
quy tắc, điều kiện, trình tự thủ tục kiện - điều tra và áp dụng biện pháp CBPG cụ thể.
Song song đó, mỗi nước lại có quy định riêng về vấn đề CBPG được xây dựng trên
cơ sở các nguyên tắc chung liên quan của WTO. Đối với doanh nghiệp, để có hiểu
biết chung về những vấn đề cơ bản nhất về CBPG trong thương mại quốc tế, doanh
nghiệp chỉ cần tiếp cận các quy định của WTO về vấn đề này là đủ. Tuy nhiên, để
biết chi tiết về trình tự, thủ tục, cơ quan có thẩm quyền,... trong các vụ kiện GBPG
cụ thể ở mỗi thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp cần tìm hiểu các quy định pháp luật
về CBPG của nước đó. Ở Việt Nam, việc tiếp nhận hồ sơ, quy trình thẩm định, tiến
hành điều tra cũng như áp dụng biện pháp CBPG tuân thủ chặt chẽ các quy định của
Hiệp định ADA và Pháp lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH11 ngày 29/04/2004 được
thay thế bằng Luật Quản lý ngoại thương năm 2017 , Nghị định số 90/2005/NĐ-CP
ngày 11/07/2005 của Chính phủ được thay thế bằng Nghị đính số 10/2018/NĐ-CP
ngày 15/01/2018,… Việt Nam đã ban hành các văn bản quy định pháp luật về các

biện pháp CBPG này nhằm tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và
bảo vệ lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp trong nước,.
1.2. Điều kiện và trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp chống bán phá giá
Theo quy định của WTO, việc áp dụng các biện pháp CBPG chỉ có thể thực
hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu, sau khi đã tiến hành điều tra
CBPG, ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả 03 điều kiện sau: có trình
trạng hàng hố nhập khẩu đang được bán phá giá; có thiệt hại về vật chất do hành
động bán phá giá gây ra hoặc đe doạ gây ra đối với các doanh nghiệp nội địa đang
sản xuất các sản phẩm tương tự với sản phẩm bán phá giá, hoặc gây ra sự trì truệ đối
4

Khoản 1 Điều 77 Luật Quản lý ngoại thương năm 2017.


4

với q trình thành lập của một ngành cơng nghiệp trong nước và có mối quan hệ
nhân quả trình trạng sản phẩm đang được bán phá giá và thiệt hại về vật chất. Đồng
nhất với các quy định của WTO, Luật Quản lý ngoại thương năm 2017 quy định việc
áp dụng biện pháp CBPG đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam khi có đủ các
điều kiện cụ thể như sau5: Thứ nhất, hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam bị bán phá
giá với biên độ bán phá giá được xác định cụ thể nhưng phải lớn hơn 2%. Thứ hai,
ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe dọa gây ra thiệt hại đáng
kể hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước, việc xác định thiệt
hại đáng kể hoặc bị đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản sự hình thành của
ngành sản xuất trong nước được quy định cụ thể tại Nghị định số 10/2018/NĐ-CP
ngày 15/1/2018 của Chính phủ6. Thứ ba, tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa việc nhập
khẩu hàng hóa bị bán phá giá với thiệt hại của ngành sản xuất trong nước theo quy
định trên.
Một “vụ kiện” CBPG theo cách gọi ở Việt Nam thực chất là một quy trình

Kiện - Điều tra - Kết luận - Áp dụng biện pháp CBPG (nếu có) mà nước nhập khẩu
tiến hành đối với một loại hàng hoá nhập khẩu từ một nước nhất định khi có những
nghi ngờ rằng loại hàng hố đó bị bán phá giá vào nước nhập khẩu gây thiệt hại đáng
kể cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu. Đây không phải là thủ
tục tố tụng tại Tồ án mà là một thủ tục hành chính và do cơ quan hành chính nước
nhập khẩu thực hiện. Thủ tục này nhằm giải quyết một tranh chấp thương mại giữa
một bên là ngành sản xuất nội địa và một bên là các nhà sản xuất, xuất khẩu nước
ngoài; nó khơng liên quan đến quan hệ cấp chính phủ giữa hai nước xuất khẩu và
nhập khẩu. Các bước trong thủ tục điều tra áp dụng thuế CBPG cụ thể như sau: (i)
Bước 1: Tổ chức, cá nhân đại diện cho ngành sản xuất trong nước có hồ sơ yêu cầu
áp dụng biện pháp CBPG7; (ii) Bước 2: Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi
xướng điều tra (hoặc từ chối đơn kiện, không điều tra); (iii) Bước 3: Điều tra sơ bộ:

5

Điều 78 Luật Quản lý ngoại thương năm 2017.
Điều 23, 24, 25 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP.
7
Khoản 1 Điều 79 Luật Quản lý ngoại thương năm 2017.
6


5

Cơ quan có thẩm quyền điều tra sơ bộ về việc bán phá giá và về thiệt hại (qua bảng
câu hỏi gửi cho các bên liên quan, thu thập, xác minh thông tin, thông tin do các bên
tự cung cấp); (iv) Bước 4: Kết luận sơ bộ (có thể kèm theo quyết định áp dụng biện
pháp tạm thời như buộc đặt cọc, ký quỹ...); (v) Bước 5: Tiếp tục điều tra về việc bán
phá giá và về thiệt hại (có thể bao gồm điều tra thực địa tại nước xuất khẩu); (vi)
Bước 6: Kết luận cuối cùng: Quyết định áp dụng/khơng áp dụng biện pháp CBPG;

(vii) Bước 7: Rà sốt lại biện pháp CBPG (được thực hiện sau 01 năm kể từ ngày có
quyết định áp dụng biện pháp CBPG theo quyết định của Bộ trưởng BCT); (viii)
Bước 8: Rà soát cuối kỳ (được thực hiện 01 năm trước khi kết thúc thời hạn áp dụng
biện pháp CBPG theo quyết định của Bộ trưởng BCT)8.
Như vậy, khơng phải cứ có hiện tượng hàng hóa nước ngồi bán phá giá là
nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp CBPG đối với hàng hóa đó mà theo
quy định thì việc áp dụng biện pháp CBPG chỉ có thể thực hiện nếu cơ quan có thẩm
quyền của nước nhập khẩu sau khi đã tiến hành điều tra CBPG, ra kết luận khẳng
định sự tồn tại đồng thời của cả 3 điều kiện nêu trên và ra quyết định áp dụng biện
pháp CBPG.
1.3. Áp dụng biện pháp chống bán phá giá và điều kiện miễn trừ áp dụng biện
pháp chống bán phá giá
Theo quy định của Luật Quản lý ngoại thương năm 2017, các biện pháp CBPG
bao gồm áp dụng thuế CBPG và cam kết về các biện pháp loại trừ bán phá giá của tổ
chức, cá nhân sản xuất, xuất khẩu hàng hóa bị yêu cầu áp dụng biện pháp CBPG với
Cơ quan điều tra của Việt Nam hoặc với các nhà sản xuất trong nước nếu được Cơ
quan điều tra chấp thuận9, cụ thể:
Đối với biện pháp áp dụng thuế CBPG, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
năm 2016 quy định thuế CBPG là thuế nhập khẩu bổ sung được đánh vào hàng hóa
bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất

8
9

Khoản 2 Điều 82 Luật Quản lý ngoại thương năm 2017.
Khoản 2 Điều 77 Luật Quản lý ngoại thương năm 2017.


6


trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước10. Thời hạn
áp dụng thuế CBPG là không được kéo dài quá 5 năm kể từ ngày có Quyết định áp
thuế và có thể được gia hạn trong trường hợp Bộ trưởng BCT ra quyết định rà sốt
việc áp dụng thuế chống phá giá11. Theo đó, quyết định áp dụng thuế CBPG chỉ có
hiệu lực đối với tất cả hàng hoá liên quan nhập khẩu từ nước bị kiện sau thời điểm
ban hành quyết định, việc áp dụng thuế CBPG có hiệu lực trở về trước chỉ được thực
hiện nếu thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất nội địa là thiệt hại thực tế và được thực
hiện theo Điều 4 Luật Quản lý ngoại thương năm 2017. Cơ quan điều tra CBPG sẽ
quyết định mức thuế CBPG trên cơ sở biên độ phá giá, theo nguyên tắc mức thuế này
có thể tương đương hoặc nhỏ hơn biên độ phá giá. CBPG không phải là biện pháp
bảo hộ mà nhằm đảm bảo điều kiện thương mại công bằng giữa hàng hóa nhập khẩu
và hàng hóa sản xuất trong nước, do đó, Cơ quan điều tra sẽ xác định biên độ phá giá
và mức thuế CBPG riêng cho từng nhà sản xuất, xuất khẩu; trường hợp số nhà sản
xuất, xuất khẩu q lớn khơng thể tính riêng biên độ phá giá được, thì cơ quan chức
năng sẽ xem xét giới hạn ở một số nhà sản xuất, xuất khẩu nhất định, trên cơ sở trao
đổi với các nhà sản xuất, xuất khẩu liên quan và mức thuế đối với hàng nhập khẩu từ
các nhà sản xuất, xuất khẩu không được điều tra không vượt quá mức thuế của các
nhà sản xuất, xuất khẩu có điều tra.
Đối với biện pháp cam kết về các biện pháp loại trừ bán phá giá của tổ chức,
cá nhân sản xuất, xuất khẩu hàng hóa bị yêu cầu áp dụng biện pháp CBPG với Cơ
quan điều tra của Việt Nam hoặc với các nhà sản xuất trong nước nếu được Cơ quan
điều tra chấp thuận, cụ thể thì việc điều tra có thể ngừng hoặc kết thúc mà không cần
áp dụng biện pháp tạm thời hoặc thuế CBPG, nếu như nhà xuất khẩu tự nguyện cam
kết tăng giá hoặc ngừng xuất khẩu phá giá vào thị trường đang điều tra và được cơ
quan điều tra nhất trí rằng biện pháp này sẽ khắc phục được thiệt hại. Mức tăng giá
không nhất thiết phải lớn hơn mà thường là nhỏ hơn biên độ phá giá nếu như đã đủ

10

Khoản 5 Điều 4 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016.

Điểm d khoản 3 Điều 81 Luật Quản lý ngoại thương năm 2017 được thay thế cho khoản 3, 4 Điều 22 Pháp
lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH11.

11


7

khắc phục thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Cơ quan điều tra sẽ không chấp
nhận cho các nhà sản xuất, xuất khẩu cam kết giá nếu thấy việc cam kết không khả
thi, chẳng hạn số lượng nhà xuất khẩu quá lớn. Cơ quan điều tra có thể đề nghị nhà
xuất khẩu cam kết giá nhưng không bắt buộc phải cam kết, các cơ quan hữu quan của
nước nhập khẩu có thể yêu cầu bất kỳ nhà xuất khẩu nào chấp nhận cam kết giá cung
cấp thông tin định kỳ về việc thực hiện cam kết giá.
Theo quy định tại Luật Quản lý ngoại thương năm 2017, không phải mọi
trường hợp hiện tượng hàng hố nước ngồi bán phá giá với biên độ xác định thì có
thể áp dụng các biện pháp CBPG đối với hàng hố đó, mà cụ thể vẫn có trường hợp
loại trừ. Thứ nhất, trường hợp hàng hóa nhập khẩu có biên độ bán phá giá khơng vượt
q 2% giá xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam thì khơng áp dụng biện pháp CBPG
đối với hàng hóa nhập khẩu đó12. Thứ hai, trường hợp hàng hóa nhập khẩu có xuất
xứ từ một nước có khối lượng hoặc số lượng không vượt quá 3% tổng khối lượng
hoặc số lượng hàng hóa tương tự nhập khẩu vào Việt Nam và tổng khối lượng hoặc
số lượng hàng hóa có xuất xứ từ các nước đáp ứng điều kiện trên không vượt quá 7%
tổng khối lượng hoặc số lượng hàng hóa tương tự nhập khẩu vào Việt Nam thì các
nước này được loại khỏi phạm vi áp dụng biện pháp CBPG13.
2. Thực tiễn áp dụng biện pháp chống bán phá giá ở nước ta thông qua
vụ việc chống bán phá giá đối với mặt hàng thép không gỉ cán nguội
2.1. Quy trình, thủ tục pháp lý mà Bộ Cơng thương, Chính phủ Việt Nam đã
tiến hành và nội dung giải quyết các đề nghị, kiến nghị của Công ty CP thang máy
Thiên Nam trong thời gian tiến hành rà sốt chống bán phá giá đối với thép khơng

gỉ lần 1 và lần 2 trong vụ việc
Nhận định của Luật sư về quy trình, thủ tục pháp lý mà BCT, Chính phủ
Việt Nam đã tiến hành:

12
13

Khoản 2 Điều 78 Luật Quản lý ngoại thương năm 2017.
Khoản 3 Điều 78 Luật Quản lý ngoại thương năm 2017.


8

BCT nêu rõ trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp CBPG được thực hiện theo
pháp luật về CBPG Việt Nam và hướng dẫn thu nộp thuế CBPG của Bộ Tài chính,
căn cứ theo quy định pháp luật về quản lý thuế và các quy định pháp lý liên quan
khác, cụ thể trình tự, thủ tục thực hiện của BCT cụ thể như sau:
Ngày 06/5/2013, BCT nhận được hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp CBPG đối
với mặt hàng thép không gỉ cán nguội nhập khẩu vào Việt Nam, có mã HS
7219.32.00;

7219.33.00;

7219.34.00;

7219.35.00;

7219.90.00;

7220.20.10;


7220.20.90; 7220.90.10; 7220.90.90 của bên yêu cầu là Công ty TNHH POSCO VST
và Công ty cổ phần Inox Hịa Bình - đại diện cho ngành sản xuất trong nước (nhận
hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp CBPG). Sau khi thẩm tra hồ sơ, nhận thấy bên
nguyên đơn có đủ tư cách khởi kiện vì hai cơng ty này đủ thị phần để đại diện ngành
sản xuất trong nước theo khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH11, cụ
thể, tại thời điểm này, trong ngành sản xuất thép tại Việt Nam, Cơng ty Posco VST
và Hịa Bình Inox đang chiếm khoảng 81,1% thị phần thép không gỉ tại Việt Nam.
Do đó, ngày 02/7/2013, Bộ trưởng BCT đã ban hành Quyết định số 4460/QĐ-BCT
về việc tiến hành điều tra vụ việc căn cứ vào đơn kiện nhận được ngày 06/05/2013
trước đó (quyết định điều tra sơ bộ) theo quy định tại khoản 4 Điều 10 Pháp lệnh số
20/2004/PL-UBTVQH11: “Trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày nhận được hồ
sơ có đầy đủ nội dung quy định tại Điều 9 của Pháp lệnh này, Bộ trưởng Bộ Thương
mại ra quyết định điều tra”.
Ngay sau quyết định này, Cơ quan điều tra đã gửi Bản câu hỏi điều tra về
lượng và giá trị. Trên cơ sở phản hồi của các doanh nghiệp liên quan và dữ liệu từ
Tổng cục Hải quan Việt Nam, Cơ quan điều tra đã tiến hành chọn mẫu doanh nghiệp.
Giai đoạn điều tra (POI) nhằm xác định biên độ bán phá giá trong vụ việc này là từ
ngày 01/4/2012 đến ngày 31/3/2013 (điều tra sơ bộ). Trong vụ kiện này, sau khi điều
tra, BCT kết luận giai đoạn năm 2011 - 2013, các chỉ số về sản xuất, bán hàng, giá
bán, thị phần, cơng suất, dịng tiền, lao động và tiền lương,… có sụt giảm, cho thấy
ngành sản xuất trong nước đã phải đối mặt với thiệt hại thực tế và đáng kể do thép
nhập khẩu gây ra. Và thực tế ngay trong báo cáo điều tra, cơ quan điều tra đã xét tổng


9

lượng nhập khẩu từ bốn nước bị cáo buộc bán phá giá thép không gỉ vào VN, kết quả
cho thấy trong năm 2010-2011, nhập từ bốn nước trên chiếm từ 72-76% lượng nhập
khẩu (khoảng 69.000 tấn/năm). Trong cùng thời điểm, các nhà sản xuất VN còn nhập

loại thép trên từ một số quốc gia khác chiếm 23-27% (khoảng 20.000 tấn/năm).
Ngày 02/12/2013, Cục Quản lý cạnh tranh (Cơ quan điều tra) công bố Kết luận
điều tra sơ bộ vụ việc điều tra áp dụng biện pháp CBPG đối với mặt hàng thép khơng
gỉ cán nguội, có mã HS: 7219.32.00; 7219.33.00; 7219.34.00; 7219.35.00;
7219.90.00; 7220.20.10; 7220.20.90; 7220.90.10; 7220.90.90 nhập khẩu vào Việt
Nam từ các nước/vùng lãnh thổ: Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Indonesia, Malaysia
và Lãnh thổ Đài Loan (mã số vụ việc 13-KN-BPG-01), phù hợp với quy định tại Điều
17 Pháp lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH11: “Trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ
ngày có quyết định điều tra, cơ quan điều tra cơng bố kết luận sơ bộ về các nội dung
liên quan đến quá trình điều tra” (kết luận điều tra sơ bộ).
Trên cơ sở nghiên cứu, xem xét tồn bộ thơng tin do các bên liên quan cung
cấp, ngày 25/12/2013, BCT đã ban hành Quyết định số 9990/QĐ-BCT về áp dụng
biện pháp CBPG tạm thời trong thời gian 120 ngày (quyết định áp dụng biện pháp
tạm thời), mức thuế CBPG tạm thời sẽ được áp dụng cho hàng hóa của các doanh
nghiệp sản xuất/xuất khẩu nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam được quy định cụ thể
theo theo Quyết định và Thông báo gửi kèm. Căn cứ Khoản 3, Điều 22, Nghị định
90/2005/NĐ-CP, từ ngày 16/01 đến ngày 18/4/2014, Cơ quan điều tra đã tiến hành
thẩm tra tại chỗ các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu nước ngoài, các doanh nghiệp
nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng điều tra và các doanh nghiệp sản xuất thép không
gỉ cán nguội trong nước. Ngày 06/6/2014, Cơ quan điều tra đã tổ chức phiên tham
vấn nhằm tạo cơ hội cho các bên liên quan được trình bày quan điểm về vụ việc trước
khi Cơ quan điều tra ra kết luận cuối cùng. Tất cả các ý kiến, bình luận của các bên
liên quan trong tồn bộ quá trình điều tra đã được Cơ quan điều tra phân tích, phản
ánh trong Báo cáo cuối cùng.
Từ đó, Hội đồng xử lý vụ việc CBPG đã họp biểu quyết và nhất trí về các nội
dung liên quan đến vụ việc vào ngày 13/8/2014, cụ thể: (i) Có tình trạng bán phá giá


10


hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; (ii) Có trình trạng ngành sản xuất trong nước bị
thiệt hại đáng kế hoặc bị đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể; (iii) Có mối quan hệ nhân
quả giữa việc bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam với thiệt hại đáng kể
hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước. Vì vậy, trong
trường hợp này, đối với hàng hóa bán phá giá vào Việt Nam có đủ điều kiện áp dụng
biện pháp CBPG theo Điều 6 Pháp lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH11.
Ngày 05/9/2014, Bộ trưởng BCT đã ban hành Quyết định số 7896/QĐ-BCT
áp dụng biện pháp CBPG đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội, ở dạng
cuộn hoặc tấm với độ dày nhỏ hơn hoặc bằng 3,5mm, được ủ hoặc được xử lý nhiệt
bằng phương pháp khác và ngâm hoặc được cạo gỉ để loại bỏ tạp chất dư thừa trên
bề mặt của thép không gỉ, thuộc các mã HS: 7219.32.00; 7219.33.00; 7219.34.00;
7219.35.00; 7219.90.00; 7220.20.10; 7220.20.90; 7220.90.10; 7220.90.90 được nhập
khẩu vào Việt Nam từ các nước/vùng lãnh thổ: Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng
hòa Indonesia, Malaysia và lãnh thổ Đài Loan (mã số vụ việc 13-KN-BPG-01) (Quyết
định áp thuế CBPG chính thức). Theo đó, mức thuế CBPG sẽ được áp dụng cho
hàng hóa của các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu nước ngoài nhập khẩu vào Việt
Nam được quy định cụ thể theo Thông báo kèm theo Quyết định.
Căn cứ theo quy định tại Điều 24 của Pháp lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH1
thì sau một năm kể từ ngày có quyết định áp dụng biện pháp CBPG, một hoặc nhiều
bên liên quan đến vụ việc có quyền đề nghị Bộ trưởng BCT ra quyết định tiến hành
rà soát trên cơ sở Bên đề nghị cung cấp các bằng chứng chứng minh sự cần thiết phải
thực hiện rà soát. Ngày 15/9/2015, Cục Quản lý cạnh tranh đã tiếp nhận Hồ sơ hợp
lệ của đại diện ngành sản xuất trong nước là Công ty TNHH POSCO VST và Cơng
ty cổ phần Inox Hịa Bình đề nghị rà soát việc áp dụng thuế CBPG đối với sản phẩm
thép không gỉ cán nguội nhập khẩu vào Việt Nam. Sau khi xem xét hồ sơ, ngày
21/10/2015, BCT đã ban hành Quyết định số 11353/QĐ-BCT tiến hành rà soát đối
với vụ việc nêu trên (rà soát lần thứ nhất). Bản câu hỏi điều tra về lượng và giá trị
đã được gửi đến các nhà sản xuất/xuất khẩu của các nước được yêu cầu rà soát. Căn
cứ nội dung bản trả lời câu hỏi về lượng và giá trị, Cơ quan điều tra xem xét việc tiến



11

hành chọn mẫu các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu để tiến hành cuộc điều tra rà
soát. Đến ngày 29/4/2016, BCT ban hành Quyết định số 1656/QĐ-BCT về kết quả rà
soát lần thứ nhất của vụ việc, áp mức thuế CBPG mới cao hơn rất nhiều lần so với
trước. Theo đó, ngoại trừ thép không gỉ nhập khẩu từ Malaysia điều chỉnh giảm nhẹ,
thì nhóm sản phẩm nhập khẩu từ 2 thị trường nhập khẩu chính, bao gồm Trung Quốc,
Indonesia bị điều chỉnh áp thuế suất thuế CBPG tăng, dao động từ 3,07% lên mức
cao nhất 25,35%, với thời hạn áp dụng đến tháng 10/2019.
Cục Quản lý cạnh tranh đã thông báo về việc tiếp nhận Hồ sơ yêu cầu rà soát
lần thứ hai việc áp dụng thuế CBPG đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội
nhập khẩu vào Việt Nam vào ngày 19/02/2017. Đến ngày 15/4/2017, Cục Quản lý
cạnh tranh đã tiếp nhận Hồ sơ yêu cầu rà soát của một số doanh nghiệp nhập khẩu
thép và cơng ty nước ngồi xuất khẩu vào Việt Nam. Đến ngày 23/5/2017, BCT đã
ban hành Quyết định số 1849/QĐ-BCT tiến hành rà soát lần thứ hai đối với vụ việc
nêu trên (rà soát lần thứ hai). Ngày 04/07/2018, BCT ban hành Quyết định số
2398/QĐ-BCT về kết quả rà soát lần thứ hai việc áp dụng biện pháp chống bán phá
đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội, mức thuế CBPG mới áp dụng từ
ngày 20/7/2018 đến ngày 6/10/2019 giữ nguyên so với mức thuế này áp dụng tại đợt
rà soát trước, áp dụng từ 14/5/2016 đến 19/7/2018, cho nhiều quốc gia, nhà cung cấp.
BCT cũng loại trừ áp dụng biện pháp CBPG đối với một số sản phẩm thép không gỉ
mà hiện tại ngành sản xuất trong nước chưa sản xuất được, hoặc sản xuất được nhưng
không đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật.
Ngày 02/10/2018, Bộ trưởng BCT đã ban hành Quyết định số 3551/QĐ-BCT
về việc tiến hành rà soát cuối kỳ việc áp dụng biện pháp CBPG đối với một số mặt
hàng thép không gỉ cán nguội (rà soát cuối kỳ). Ngày 21/10/2019, BCT ban hành
Quyết định số 3162/QĐ-BCT về kết quả rà soát cuối kỳ việc áp dụng thuế CBPG đối
với một số sản phẩm thép khơng gỉ cán nguội có xuất xứ từ Cộng hịa Nhân dân Trung
Hoa, Cộng hịa In-đơ-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a và Vùng lãnh thổ Đài Loan. Theo đó, biện

pháp CBPG được gia hạn thêm 05 năm với mức thuế cụ thể được quy định trong


12

Quyết định 3162/QĐ-BCT. Đến nay, ngày 05/04/2022, BCT ban hành Quyết định
625/QĐ-BCT giữ nguyên việc áp dụng biện pháp CBPG.
Như vậy, quá trình điều tra và áp dụng biện pháp CBPG của BCT được thực
hiện theo đúng quy định của WTO, tuân thủ theo trình tự, thủ tục được quy định tại
Pháp lệnh số 20/2004/PL-UBTVQH11, Luật Quản lý ngoại thương và các văn bản
pháp luật có liên quan. Trên cơ sở thông tin thu thập được từ các bên liên quan, BCT
đã xem xét và đánh giá kỹ lưỡng mức độ bán phá giá của sản phẩm thép không gỉ cán
nguội nhập khẩu từ các nước/vùng lãnh thổ (Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,
Indonesia, Malaysia và Lãnh thổ Đài Loan), thiệt hại của ngành sản xuất trong nước
cũng như đánh giá tác động kinh tế - xã hội, gồm cả tác động tới các ngành sản xuất
hạ nguồn và người tiêu dùng. Trong quá trình điều tra và trước khi ban hành quyết
định cuối cùng của vụ việc, kể cả các quyết định rà soát sau này, BCT đều lấy ý kiến
của các bên liên quan trong vụ việc; kết luận điều tra bản công khai đã được BCT gửi
đến tất cả các bên liên quan nhằm đảm bảo tính minh bạch. Sau khi cân nhắc tác động
kinh tế - xã hội và tình hình cung - cầu hiện nay, BCT đã quyết định áp thuế CBPG
chính thức đối với sản phẩm thép không gỉ cán nguội nhập khẩu. Đồng thời, quyết
định áp thuế CBPG này có thể được rà soát, điều chỉnh định kỳ theo đúng quy định
pháp luật. Theo ý kiến của chúng tôi, đây là lần đầu tiên Việt Nam áp dụng biện pháp
tự vệ CBPG đối với sản phẩm nhập khẩu vào thị trường nội địa, nhằm tạo lập mơi
trường kinh doanh bình đẳng và phù hợp với chuẩn mực quốc tế đối với tất cả các
doanh nghiệp. Quyết định áp thuế CBPG của BCT được xem là động lực để các doanh
nghiệp trong nước vốn cam chịu xưa nay sẽ xem xét yêu cầu điều tra, áp dụng biện
pháp CBPG đối với các mặt hàng khác được nhập khẩu vào Việt Nam có dấu hiệu
cạnh tranh không công bằng với hàng nội. Trong thời gian tới, BCT cần tiếp tục phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan theo dõi tác động của biện pháp CBPG, tình hình

sản xuất, cung - cầu, giá cả,… để triển khai biện pháp ổn định thị trường thép theo
đúng quy định, bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành sản xuất và người tiêu dùng.


13

Nhận định của Luật sư về nội dung giải quyết các đề nghị, kiến nghị của
Công ty Cổ phần Thang máy Thiên Nam trong thời gian tiến hành rà soát CBPG
đối với thép không gỉ lần 1 và lần 2:
Thứ nhất, Công ty Thiên Nam khiếu nại 02/09 mã hàng (HS: 7219.33.00 và
HS: 7219.34.00) áp thuế CBPG nêu trong Quyết định số 1656/QĐ-BCT của BCT vì
chủng loại mặt hàng này trong nước chưa sản xuất được và bản thân bên yêu cầu áp
thuế CBPG là Posco VST cũng nhập khẩu rồi phân phối lại. Do thời hạn áp dụng của
quyết định quá gấp (15 ngày sau ngày ký) đã khiến doanh nghiệp trở tay không kịp,
bởi chu kỳ thực hiện hợp đồng nhập khẩu thép để sản xuất thường ký trên 90 ngày.
Chỉ tính riêng 2 hợp đồng nhập khẩu thép không gỉ từ Zhejang Baohong Stainless
Steel (Trung Quốc), mở L/C vào tháng 4/2016, Thiên Nam đã chịu thiệt hại 1,13 tỷ
đồng do chênh lệch giữa 2 mức thuế. Thiên Nam kiến nghị BCT không áp thuế CBPG
thép không gỉ đối với 2 hợp đồng ký với Zhejang Baohong Stainless Steel.
BCT cho rằng, theo quy trình, Cục Quản lý cạnh tranh đã thông báo công khai
quyết định về việc rà soát thuế CBPG và đã khuyến cáo các bên liên quan về mức
thuế sau khi rà sốt có thể sẽ được điều chỉnh. Việc Thiên Nam không lưu ý tới
khuyến cáo, cũng như khơng gửi bất kỳ ý kiến bình luận hoặc kiến nghị nào trong
thời gian rà soát là điều đáng tiếc. Vì lý do đó, BCT khơng thể giải quyết miễn thuế
CBPG cho 2 hợp đồng Thiên Nam kiến nghị. Về kiến nghị tạm thời không áp dụng
biện pháp áp thuế CBPG với các chủng loại thép không gỉ trong nước chưa gia công
hoặc gia công chưa đạt yêu cầu chất lượng, BCT cho rằng, khả năng cung cấp sản
phẩm thép không gỉ trong nước đã được cơ quan điều tra xác minh, làm rõ trong Báo
cáo kết luận điều tra để áp thuế CBPG lần đầu. BCT khẳng định, các sản phẩm mà
Thiên Nam kiến nghị, trong nước đều đã sản xuất được.

Theo chúng tôi, trong quá trình điều tra và trước khi ban hành quyết định cuối
cùng của vụ việc (kể cả các quyết định rà soát), BCT đều lấy ý kiến của các bên liên
quan trong vụ việc; kết luận điều tra bản công khai đã được BCT gửi đến tất cả các
bên liên quan nhằm đảm bảo tính minh bạch. Mặt khác, việc điều tra và áp dụng biện
pháp CBPG của BCT tuân thủ đầy đủ các quy định của WTO, Luật quản lý Ngoại


14

thương và các văn bản pháp luật khác có liên quan, theo đó, đến hiện tại, chưa có ý
kiến nào từ các nhà xuất khẩu bị điều tra CBPG ở nước ngồi cho rằng việc tính tốn
và áp dụng biện pháp CBPG của Việt Nam vi phạm các quy định của Việt Nam cũng
như của WTO. Do đó, nhận định của BCT cho rằng đã thông báo công khai quyết
định về việc rà soát thuế CBPG và đã khuyến cáo các bên liên quan về mức thuế sau
khi rà soát có thể sẽ được điều chỉnh, việc Cơng ty Thiên Nam không lưu ý tới khuyến
cáo, cũng như không gửi bất kỳ ý kiến bình luận hoặc kiến nghị nào nên khơng được
chấp nhận là có cơ sở. Đồng thời, trong quá trình điều tra, áp dụng biện pháp BCT đã
cân nhắc, xem xét miễn trừ áp dụng biện pháp CBPG đối với các sản phẩm thép
không gỉ cán nguội làm nguyên liệu đầu vào mà trong nước chưa sản xuất được hoặc
chưa đáp ứng nhu cầu nhằm đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng. BCT hiện đang
trong quá trình rà sốt cuối kỳ áp dụng biện pháp CBPG nêu trên, trong đó, một trong
những nội dung quan trọng là xác định liệu rằng còn tồn tại hành vi bán phá giá của
các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nước ngồi hay khơng để làm cơ sở xem xét
quyết định về việc có hay khơng tiếp tục duy trì biện pháp CBPG. Ngoài ra, theo Báo
cáo kết luận điều tra để áp thuế CBPG lần đầu, BCT khẳng định, các sản phẩm mà
Thiên Nam kiến nghị, trong nước đều đã sản xuất được; do đó, nhận định của Cơng
ty Thiên Nam về 02/09 mã hàng (HS: 7219.33.00 và HS: 7219.34.00) áp thuế CBPG
nêu trong Quyết định số 1656/QĐ-BCT của BCT vì chủng loại mặt hàng này trong
nước chưa sản xuất được là chưa phù hợp.
Thứ hai, trong đơn kiến nghị gửi cơ quan có thẩm quyền, Cơng ty Thiên Nam

nêu cụ thể vấn đề chịu bất lợi kép cụ thể là: Thép khơng gỉ chiếm 10% giá thành chi
phí đầu vào ngành sản xuất thang máy. Với việc thuế chống bán phá tăng từ trung
bình mức 5,5% lên 25,35%, khiến Công ty Thiên Nam thiệt hại vài tỷ đồng/năm. Chi
phí sản xuất tăng lên đáng kể, trong bối cảnh các doanh nghiệp Việt Nam đang nỗ
lực tiết giảm chi phí để cạnh tranh với các hãng thang máy ngoại. Cơng ty Thiên Nam
nêu quan điểm khơng đồng tình với ý kiến của cơ quan điều tra nhận định về sự khác
biệt chất lượng sản phẩm giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa sản xuất trong nước
là “do trong q trình điều tra, các doanh nghiệp đều khơng cung cấp được hồ sơ, tài


15

liệu chứng minh nên cơ quan điều tra xác định rằng, vấn đề chất lượng sản phẩm
không thể là lý do để loại trừ” trong dự thảo kết luận.
Theo chúng tơi, trong q trình điều tra và áp dụng biện pháp CBPG, q trình
tính tốn mức thuế được điều chỉnh bởi các quy định chặt chẽ của pháp luật Việt Nam
cũng như Hiệp định CBPG của WTO, cụ thể, mức thuế CBPG của từng nhà sản xuất
nước ngoài được xác định theo phương pháp tính tốn quy định bởi WTO, căn cứ
trên số liệu thực tiễn của nhà sản xuất/xuất khẩu nước ngồi đệ trình và được Cơ quan
điều tra thẩm tra, xác minh. Đồng thời, mức thuế này không phải là mức thuế áp dụng
theo đề xuất của ngành sản xuất trong nước hay theo ý kiến chủ quan của Cơ quan
điều tra. Do đó, mức thuế của BCT ban hành là có cơ sở và phù hợp với quy định của
pháp luật Việt Nam lẫn pháp luật WTO. Đồng thời, việc áp thuế CBPG sẽ không gây
ảnh hưởng nhiều đến các doanh nghiệp nhập khẩu sản phẩm thép khơng gỉ, bơit vì,
theo Cơng văn số 8300/BTC-CST ngày 23/6/2014 của Bộ Tài chính về áp dụng thuế
tự vệ, CBPG, chống trợ cấp, sẽ áp dụng thuế CBPG như thuế nhập khẩu. Tức là khi
doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa này gia cơng chế xuất để xuất đi nước ngồi thì sẽ
được miễn thuế CBPG hoặc được hồn lại trong trường hợp nếu đã phải nộp thuế
CBPG. Như vậy, có thể nói kết quả vụ kiện này khơng tác động đến doanh nghiệp
nhập khẩu của Việt Nam sử dụng sản xuất để xuất khẩu đi nước ngồi. Cịn đối với

các doanh nghiệp sử dụng để sản xuất cho hàng hóa trong nước, hiện xuất khẩu thép
vào Việt Nam có nhiều nước, do đó, các nhà sản xuất trong nước có thể nhập khẩu từ
các nguồn khác mà không bị đánh thuế CBPG. Hơn nữa vì sản phẩm nhập khẩu thì
chỉ chiếm phần nhỏ nên sẽ không tác động quá nhiều đến thị trường và người tiêu
dùng. Do đó, khơng có cơ sở chứng minh công ty Thiên Minh bắt buộc phải sử dụng
hàng hố nhập khẩu mà khơng thể sử dụng hàng hoá sản xuất trong nước dẫn đến
thiệt hại trực tiếp và đáng kể cho Công ty.
Thứ ba, về ý kiến về việc thị trường thép không gỉ cán nguội tại Việt Nam
đang có dấu hiệu độc quyền, bị thao túng về giá, chất lượng với nguyên nhân là do
BCT áp thuế CBPG một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội nhập khẩu. BCT cũng
đã phản hồi ý kiến của các doanh nghiệp và công luận về CBPG với thép không gỉ


16

cán nguội nhập khẩu, với nội dung khẳng định không có cơ sở để nhận định ngành
sản xuất trong nước hay một doanh nghiệp sản xuất nào đó độc quyền về nhóm sản
phẩm thép khơng gỉ sau khi áp dụng biện pháp tự vệ với hàng hóa nhập khẩu từ một
số thị trường.
Hiện nay, thuế CBPG chỉ áp dụng với thép không gỉ cán nguội của Trung
Quốc, Indonesia, Malaysia và Đài Loan; các sản phẩm từ các nước khác vẫn có thể
nhập khẩu vào Việt Nam mà khơng bị áp thuế CBPG (theo Cục Phòng vệ Thương
mại). Cụ thể, theo số liệu của Tổng cục Hải quan, sau khi biện pháp CBPG được áp
dụng đến nay, thép inox vẫn tiếp tục được nhập khẩu từ 4 nước/vùng lãnh thổ bị áp
thuế cũng như từ các nước khác. Tổng lượng nhập khẩu thép không gỉ cán nguội từ
tất cả các nguồn sau khi có biện pháp CBPG vẫn tăng so với giai đoạn trước khi áp
thuế CBPG, ví dụ như thép inox đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan... Như vậy,
người sử dụng thép inox tại Việt Nam có nhiều sự lựa chọn khác nhau ngoài nguồn
sản xuất trong nước. Ngoài ra, trong giai đoạn điều tra gần nhất (từ ngày 01 tháng 7
năm 2017 tới ngày 30 tháng 6 năm 2018), nhập khẩu thép inox vẫn chiếm tới 57,2%

tổng tiêu thụ trong nước (trong đó nhập khẩu từ các nước không bị áp thuế CBPG
chiếm 68,5% tổng nhập khẩu), sản xuất trong nước chỉ chiếm 42,8% tiêu thụ trong
nước; cùng với việc sản lượng của doanh nghiệp lớn nhất chiếm dưới 50% sản lượng
trong nước thì khơng có cơ sở để nhận định ngành sản xuất trong nước hay một doanh
nghiệp sản xuất nào đó “độc quyền” về nhóm sản phẩm này. Hơn nữa, thị trường thép
không gỉ cán nguội của Việt Nam trước đây chỉ có sự tham gia của công ty Posco
cùng một số công ty quy mơ nhỏ khác, nay đã bắt đầu có sự tham gia của các doanh
nghiệp lớn trong nước.14 Do đó, khơng có cơ sở để nhận định ngành sản xuất trong
nước hay một doanh nghiệp sản xuất nào đó độc quyền về nhóm sản phẩm thép khơng
gỉ sau khi áp dụng biện pháp tự vệ với hàng hóa nhập khẩu từ một số thị trường.

14

Thế Hải (2019), Thuế chống bán phá không tạo ra độc quyền trên thị trường thép không gỉ cán nguội, Báo
điện tử Đầu tư, Cơ quan của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, truy cập ngày 12/5/2022.



×