Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự vận dụng của Đảng ta ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.71 KB, 23 trang )

1
Tiểu luận triết học

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU……………………………………………..……………………………2
NỘI DUNG……………………………………………………………………...…3
I.

HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI………………...
…....3
1. Khái quát chung về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội…………….3
2. Những vấn đề cơ bản trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội…….4
2.1. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất………………………………………….………4
2.1.1. Lực lượng sản xuất…………………………………………5
2.1.2. Quan hệ sản xuất……………………………………………8
2.1.3. Sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất…………………………………………….6
2.2. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng…………………………………………………..……8
2.3. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên……………………………………...……12

II.

SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY…………………….16
1. Vấn đề bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam……………...…17
2. Vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa……………………………….……………...18


3. Vấn đề củng cố và hoàn thiện kiến trúc thượng tầng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay…………………………….………...20

KẾT LUẬN…………………….……….…………….……………….……….....22
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………..23

Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


2
Tiểu luận triết học

PHẦN MỞ ĐẦU
-------Lý luận hình thái kinh tế - xã hội do Mác - Ăngghen phát hiện ra vào những
năm 40 của thế kỷ 19, được V.I.Lênin kế thừa và phát triển, vận dụng lý luận này
vào Cách mạng Tháng 10 Nga. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội được xây dựng
nên nhằm mục đích tìm hiểu quy luật chung nhất về sự vận động và phát triển của
lồi người. Nhờ có lý luận hình thái kinh tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử loài
người, C.Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã
hội, bản chất của từng chế độ xã hội, nghiên cứu về cấu trúc cơ bản của xã hội, cho
phép phân tích đời sống hết sức phức tạp của xã hội để chỉ ra các mối quan hệ biện
chứng giữa các lĩnh vực cơ bản của nó, chỉ ra quy luật vận động và phát triển của
nó như một q trình lịch sử - tự nhiên.
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở thế giới quan và là căn
cứ khoa học cho cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới nói chung và ở nước ta
nói riêng. Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là
sự phát triển của nền kinh tế tri thức và sự sụp đổ của thành trì xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xơ và Đông Âu làm cho các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh tấn công vào
chủ nghĩa Mác. Trước những khó khăn trên, nước ta vẫn kiên trì khẳng định con
đường phát triển đất nước là xây dựng chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở bám sát tư tưởng

Mác- Lênin và đặc biệt là việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội nói trên.
Chính vì những lý do trên em chọn đề tài: “Học thuyết hình thái kinh tế xã hội và sự vận dụng của Đảng ta ở Việt Nam hiện nay" làm tiểu luận giữa kỳ
môn Triết học Mác-Lênin. Đây là một đề tài hay, có nội dung rộng và phức tạp. Do
trình độ có hạn nên khơng thể tránh được những hạn chế, thiếu sót, kính mong được
sự đóng góp ý kiến của thầy và các bạn để bài viết của em được hoàn thiện hơn.

Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


3
Tiểu luận triết học

PHẦN NỘI DUNG
-------CHƯƠNG I: HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Khái quát chung về hình thái kinh tế - xã hội
Chúng ta đều biết, trong lịch sử tư tưởng nhân loại trước Mác đã có khơng
ít cách tiếp cận khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội. Xuất phát từ những
nhận thức khác nhau, với những ý tưởng khác nhau mà có sự phân chia lịch sử tiến
hóa của xã hội theo những cách khác nhau. Có thể kể đến các khái niệm như thời
đại đồ đá, thời đại đồ đồng, thời đại cối xay gió, thời đại máy hơi nước… và gần
đây là các nền văn minh: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh
hậu công nghiệp…
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch sử,
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật để nghiên
cứu lịch sử xã hội, đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và đã hình thành nên học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Theo đó, hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với một
kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với lực lượng sản xuất ở
một trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng lên trên

những quan hệ sản xuất đó. Như vậy, kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội theo
khái niệm trên bao gồm: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng. Những bộ phận này biến đổi, tác động lẫn nhau một cách khách quan chứ
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Chúng ta đã trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội theo trật tự từ thấp đến
cao, mỗi hình thái đặc trưng cho một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử lồi
người. Đó là: hình thái kinh tế - xã hội cộng đồng nguyên thủy, hình thái kinh tế -

Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


4
Tiểu luận triết học

xã hội chiếm hữu nơ lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, hình thái kinh tế - xã
hội tư bản chủ nghĩa và hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
2. Những vấn đề cơ bản trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
2.1. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Xã hội loài người tồn tại và phát triển được là nhờ có sản xuất vật chất.
Lịch sử loài người truớc hết là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất, là lịch sử của
các phương thức sản xuất kế tiếp nhau trong các giai đoạn phát triển của xã hội.
Nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp chúng ta hiểu được quy luật chung nhất của sự phát
triển lịch sử.
Bắt đầu từ việc nghiên cứu con người trong đời sống xã hội, C.Mác và
Ph.Ăngghen nhận thấy “... con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, trước khi có thể
lo đến việc làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tơn giáo...” Muốn có cái ăn, cái
mặc, cái ở thì con người buộc phải tiến hành lao động, đặc biệt là lao động sản xuất
ra của cải vật chất. Cách thức con người thực hiện quá trình ấy ở mỗi giai đoạn lịch
sử nhất định được gọi là phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất gồm hai mặt: lực lượng sản xuất và quan hệ sản

xuất. Muốn sản xuất ra của cải vật chất, một mặt, con người phải kết hợp với tư liệu
sản xuất, dùng công cụ lao động, bằng sức lực của mình tác động vào đối tượng sản
xuất (đối tượng lao động) nhằm cải tạo, biến đổi giới tự nhiên phục vụ cuộc sống
của con người; sự kết hợp đó tạo nên lực lượng sản xuất. Mặt khác, con người phải
kết hợp với nhau, bởi lẽ, riêng lẻ từng cá nhân thì khơng thể sản xuất được, khơng
chinh phục, cải tạo được giới tự nhiên; và sự kết hợp thứ hai này hình thành nên
quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nằm trong mối liên hệ mật thiết,
khăng khít với nhau, khơng tách rời nhau và thống nhất với nhau trong phương thức
sản xuất.
2.1.1. Lực lượng sản xuất

Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


5
Tiểu luận triết học

Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất
để tạo ra sức sản xuất vật chất nhất định. Lực lượng sản xuất biểu thị mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên, là thước đo năng lực thực tiễn của con người trong quá
trình sản xuất ra của cải vật chất, đồng thời cũng là nội dung của phương thức sản
xuất.
Trong lực lượng sản xuất, yếu tố cơ bản, quan trọng nhất chính là con
người – người lao động – với trình độ, tri thức; kinh nghiệm sản xuất; và kĩ năng
lao động. Người lao động là chủ thể đóng vai trị quyết định trong q trình sản
xuất, họ tạo ra của cải vật chất cho xã hội (bao gồm chất lượng lao động và số
lượng lao động). V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn
thể nhân loại là người cơng nhân, là người lao động”. Tuy nhiên, người lao động
khơng phải là cái gì đó nhất thành bất biến mà trong mỗi thời đại kinh tế, với tư

cách là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất nó cũng ln thay đổi.
Chẳng hạn, trong thời kỳ công trường thủ công, lao động chân tay là đặc trưng cơ
bản của người lao động; trong thời kỳ sản xuất dựa trên công cụ cơ khí thì khía
cạnh năng lực, kỹ năng, kinh nghiệm điều hành máy móc lại nổi trội hơn (lao động
chân tay kết hợp với lao động trí óc); cịn trong thời đại cách mạng công nghiệp lần
thứ Tư (4.0) hiện nay hàm lượng tri thức, công nghệ trong sản phẩm chiếm phần đa
thì khía cạnh tri thức lại nổi trội. Như vậy, cái quan trọng có tính chất quyết định
trong lực lượng sản xuất hiện nay không phải là lao động cơ bắp, không phải là kỹ
năng, kinh nghiệm sử dụng, vận hành máy móc, mà là tri thức của người sản xuất
(lao động trí óc).
Một yếu tố nữa của lực lượng sản xuất là tư liệu sản xuất, bao gồm tư liệu
lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động và
phương tiện lao động. Trong lực lượng sản xuất, nếu con người là yếu tố quan trọng
nhất thì cơng cụ lao động là yếu tố động nhất. Cùng với q trình tích lũy kinh
nghiệm, những phát minh và sáng chế kĩ thuật, cơng cụ lao động khơng ngừng
được cải tiến, hồn thiện và sự phát triển này đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản
Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


6
Tiểu luận triết học

xuất, quá trình sản xuất. Đây là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình
độ phát triển của cơng cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục giới tự nhiên của
con người, là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại đã tạo ra bước nhảy
vọt lớn trong lực lượng sản xuất. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Khoa học chính là điểm xuất phát cho những biến đổi to lớn trong kĩ thuật sản xuất;
rút ngắn khoảng cách từ phát minh, sáng chế đến ứng dụng vào sản xuất, làm cho
năng suất lao động, của cải xã hội tăng nhanh; kịp thời giải quyết những mâu thuẫn,

yêu cầu mà sản xuất đặt ra; thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất, trở
thành mắt khâu bên trong của q trình sản xuất; kích thích sự phát triển năng lực
làm chủ sản xuất của con người… Theo dự báo, với sự phát triển của công nghệ
đáng mong chờ trong tương lai như trí tuệ nhân tạo AI, thực tế ảo (VR) và tương
tác ảo (AR), thiết bị bay khơng người lái, sự hồn thiện của rơ – bốt… lực lượng
sản xuất sẽ có những phát triển mạnh mẽ, vượt lên trên trí tưởng tượng của con
người.
2.1.2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là khái niệm dùng để chỉ quan hệ giữa con người với con
người trong q trình sản xuất vật chất; nó là hình thức của phương thức sản xuất,
là cơ sở kinh tế, cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần.
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm. Ba yếu tố đó liên hệ
khăng khít với nhau, thống nhất với nhau tạo nên một hệ thống mang tính ổn định
tương đối so với lực lượng sản xuất, trong đó yếu tố thứ nhất đóng vai trị quyết
định, nó quy định hai yếu tố sau. Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách
quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội.
2.1.3. Sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với
nhau, không tách rời nhau thể hiện ở chỗ: mọi lực lượng sản xuất đều nằm trong
Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


7
Tiểu luận triết học

những quan hệ nhất định nào đó của quan hệ sản xuất; ngược lại, mọi quan hệ sản
xuất đều là những quan hệ nhất định của một lực lượng sản xuất nào đó, nó phải
chứa đựng một nội dung nào đó.
Vai trị quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất

Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, lực lượng sản xuất thay đổi, sớm muộn cũng kéo theo sự thay đổi
của quan hệ sản xuất, vì lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất là hình
thức, nội dung quyết định hình thức. Phân tích sâu thêm ta thấy, mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên, tức lực lượng sản xuất, xét đến cùng, quy định mối quan hệ
giữa con người với con người, tức quan hệ sản xuất. Nói cách khác, thời đại kinh tế
khác nhau thì quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất vật chất cũng
khác nhau.
Thứ hai, tư liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động, quy định cách thức
tổ chức quản lý sản xuất.
Thứ ba, trình độ khoa học kỹ thuật khác nhau cũng sẽ đưa lại cách thức tổ
chức quản lý sản xuất khác nhau.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Cụ thể như sau:
Thứ nhất, vì quan hệ sản xuất là hình thức cịn lực lượng sản xuất là nội
dung của quá trình, mà theo phép biện chứng duy vật thì hình thức có tính tương
đối tác động trở lại nội dung, do đó quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và
tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Thứ hai, tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ nó có
đời sống riêng của nó; nó có thể thay đổi nhanh, chậm hoặc đi song hành với sự
phát triển của lực lượng sản xuất; nhưng nhìn chung, nó thường thay đổi chậm so
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Thứ ba, sự tác động trở có thể xảy ra theo hai chiều hướng

Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


8
Tiểu luận triết học


Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất thì sẽ là động lực cho lực lượng sản xuất phát triển.
Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một
cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì sẽ cản trở lực
lượng sản xuất phát triển.
Thứ tư, quan hệ sản xuất quy định trực tiếp mục đích xã hội của nền sản
xuất; quy mô, tốc độ, hiệu quả, xu hướng, nhịp điệu của sản xuất; quy định khuynh
hướng phát triển của công nghệ. Chẳng hạn, ai, giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư
liệu sản xuất thì họ đề ra mục tiêu, quy mô, tốc độ sản xuất có lợi cho người đó,
giai cấp đó.
Từ mối quan hệ biện chứng trên có thể rút ra quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Một mặt, ta phải thấy rằng, trong lịch sử không phải lúc nào quan hệ sản
xuất cũng phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng muốn sản
xuất phát triển thì quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Mặt khác, lực lượng sản xuất lại luôn biến đổi, phát triển, đặc biệt là công
cụ lao động, bởi vậy, đến một giai đoạn nào đó, trình độ của nó chuyển sang giai
đoạn mới cao hơn, lúc đó tình trạng phù hợp sẽ bị phá vỡ. Mâu thuẫn này ngày
càng trở nên gay gắt và đến một lúc nào đó, quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Yêu cầu khách quan của sự phát triển
lực lượng sản xuất đòi hỏi xã hội bằng cách này hay cách khác phải xóa bỏ quan hệ
sản xuất cũ và thay bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ mới của lực
lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất mới phát triển. Giai cấp mới đại
diện cho lực lượng sản xuất mới tiến hành phá bỏ quan hệ sản xuất cũ bằng cách
làm cuộc cách mạng xã hội. Điều đỏ cũng có nghĩa là dẫn đến sự diệt vong của
phương thức sản xuất lỗi thời và ra đời một phương thức sản xuất mới.
2.2. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1



9
Tiểu luận triết học

Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
của một xã hội nhất định. Nó bao gồm quan hệ sản xuất thống trị đặc trưng cho
phương thức sản xuất, các quan hệ sản xuất đan xen cũng như các quan hệ sản xuất
tàn dư và các quan hệ sản xuất tương lai dưới dạng mầm mống đang tồn tại trong
xã hội đó.
Ở các quốc gia đã phát triển ở độ trưởng thành, quan hệ sản xuất thống trị
giữ vị trí chi phối trong cơ sở hạ tầng. Cịn ở những quốc gia đang trong giai đoạn
chuyển đổi mô hình xã hội thì quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm
mống lại giữ vai trò quan trọng. Cơ sở hạ tầng ở các nước phương Đơng rất phức
tạp, nó bao gồm nhiều dấu vết, tàn tích của các xã hội trước đó, tạo nên những lớp
ngói chồng chéo lên nhau, nhưng lớp sau khơng hề che khuất lớp trước.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,... cùng với những thiết chế tương ứng như
nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội,... được hình thành trên một cơ
sở hạ tầng nhất định. Nó khác ý thức xã hội ở các thiết chế tương ứng. Trong xã hội
có giai cấp, kiến trúc thượng tầng cũng mang tính giai cấp, trong đó, nhà nước là
công cụ quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng liên hệ mật thiết với nhau, không
tách rời nhau, bởi lẽ cơ sở hạ tầng bao giờ cũng là cơ sở hạ tầng của một kiến trúc
thượng tầng nhất định; ngược lại, kiến trúc thượng tầng bao giờ cũng là kiến trúc
thượng tầng được xây dựng trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Cơ sở hạ tầng suy cho cùng quyết định kiến trúc thượng tầng. Điều này
được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, cơ sở hạ tầng “sản sinh” ra kiến trúc thượng tầng. Quan hệ sản
xuất, quan hệ kinh tế suy cho cùng quyết định quan hệ vể chính trị, pháp quyền, tư
tưởng; mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quy định mâu thuẫn trong

lĩnh vực tư tưởng.

Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


10
Tiểu luận triết học

Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thể hiện ở chỗ sự xuất
hiện của nhà nước, pháp luật đều gắn liền với sự xuất hiện của chế độ tư hữu và sự
phân chia thành giai cấp đối kháng. Pháp luật ra đời là công cụ của giai cấp thống
trị để bảo vệ cơ sở kinh tế và trật tự xã hội do giai cấp đó đặt ra. Sự tiêu vong của
nhà nước, pháp luật cũng gắn liền với sự tiêu vong của chế độ tư hữu và của giai
cấp. Sự biến đổi cùa những quan điểm chính trị, tư tưởng cũng vậy. Mọi quan điểm
chính trị, tư tưởng đều có nguồn gốc từ nguyên nhân của sự thay đổi chế độ kinh tế.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng quy định tính chất của kiến trúc thượng tầng. Giai
cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì giai cấp đó cũng chiếm địa vị thống trị
về mặt chính tri và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét
đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu
tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện cho những đối kháng trong đời sống
kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết
học, tôn giáo… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ
tầng quyết định.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm muộn sẽ dẫn đến sự thay đổi về kiến
trúc thượng tầng. C.Mác viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì tồn bộ cái kiến trúc
thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”. Q trình đó diễn ra
ngay trong từng hình thái kinh tế - xã hội cũng như khi chuyển từ hình thái này
sang hình thái khác.
Nguyên nhân sự biến đổi ấy xét đến cùng là do sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Tuy nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất không trực tiếp dẫn đến sự

biến đổi của kiến trúc thượng tầng, mà nó chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sờ
hạ tầng và đến lượt nó, sự biến đổi của cơ sở hạ tầng lại làm cho kiến trúc thượng
tầng biến đổi.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự biến đổi của cơ sở hạ tầng vả kiến
trúc thượng tầng diễn ra thông qua cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa giai cấp
thống trị và giai cấp bị trị. Trong cuộc đấu tranh ấy, không phải cử cơ sở hạ tầng
Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


11
Tiểu luận triết học

mới xuất hiện thì tồn bộ kiến trúc thượng tầng cũ mất đi ngay tức khắc. Trong
cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, những tàn dư của cái cũ còn tồn tại khá lâu
dài. Mặt khác, có một số yếu tổ của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ được
giai cấp mới duy trì, cải tạo phục vụ cho cơng cuộc xây dựng xã hội mới. Chẳng
hạn ở nhiều quốc gia, sau khi giai cấp tư sản lật đổ giai cấp phong kiến, giai cấp tư
sản đã khơng đập tan tồn bộ nhà nước phong kiến mà cải tạo nó phục vụ cho lợi
ích của giai cấp tư sản, hình thành Nhà nước quân chủ lập hiến. Điều đó cho thấy,
giai cấp cơng nhân trong q trình xây dựng xã hội mới cũng cần nghiên cứu kế
thừa, tiếp thu những nhân tố hợp lý của kiến trúc thượng tầng cũ phục vụ cho cơng
cuộc xây dựng xã hội mới. V.I.Lênin khi cịn sống đã có những chỉ giáo cho chúng
ta về vấn đề này.
Kiến trúc thượng tầng cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
cơ sở hạ tầng. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, tính độc lập tương đổi của kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ
nó có đời sống riêng, có quy luật vận động riêng; nó có thể thay đổi nhanh, chậm,
hoặc đi song hành với cơ sở hạ tầng, nhung nhìn chung nó thường thay đổi chậm
hơn so với cơ sở hạ tầng.
Thứ hai, các yếu tố của kiến trúc thượng tang đều có khả năng gây ra những

biến động không nhỏ đối với cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức, theo những cơ
chế, khuynh hướng (tích cực, tiêu cực) khác nhau. Ph.Ăngghen cho rằng, một nhân
tố lịch sử một khi được những nhân tố khác, xét đến cùng là nguyên nhân kinh tế,
làm nảy sinh ra thì nhân tố lịch sử đó cũng có thể tác động trở lại đến mơi trường
của nó, và thậm chí đến những nguyên nhân đã tạo ra nó. Ơng cịn cho rằng, trong
khi phản bác lại những người chống lại chúng tôi, chúng tôi đã phải nhấn mạnh
nguyên lý chủ yếu mà họ bác bỏ, và không phải lúc nào cùng tìm được thời gian,
địa điểm và khả năng đánh giá đúng những nhân tố còn lại tham gia vào sự tác
động qua lại.

Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


12
Tiểu luận triết học

Thứ ba, các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không phải lúc nào cũng đồng
bộ theo một hướng, nhưng với chức năng bảo vệ, phát triển cơ sở hạ tầng hiện có,
thì nhà nước giữ vai trị đặc biệt quan trọng; nó chi phối và trong nhiều trường hợp,
quyết định khả năng tác động của các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng đến
toàn bộ đời sống xã hội và đến cơ sở hạ tầng.
Trong kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò quan trọng như vậy, cho
nên bất kỳ giai cấp nào muốn thống trị xã hội cũng phải chiếm lấy chính quyền nhà
nước. V.I.Lênin nói: “Vấn đề chính quyền nhất định là vấn đề quan trọng nhất của
mọi cuộc cách mạng”.
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản chưa tiêu vong, mà còn tiếp tục tồn tại, phát
triển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh lên chủ nghĩa tư bản độc quyền và hiện
nay là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước do nhiều nguyên nhân, trong đó có một
nguyên nhân quan trọng là vai trò điều tiết của nhà nước tư sản. Nhà nước tư bản
chủ nghĩa hiện nay đang tiếp tục tìm cách “điều chỉnh” xã hội bằng một loạt chính

sách kinh tế, nhằm làm dịu những mâu thuẫn xã hội, thích nghi với điều kiện mới.
Song, những điều chỉnh đó chưa thể vượt qua được khn khổ của chủ nghĩa tư
bản. Nó khơng thể xóa bỏ được những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản. So
với trước, nhiều mâu thuẫn dịu đi, nhưng nhiều mâu thuẫn mới lại trở nên hết sức
gay gắt, như mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với nhau, sự cạnh tranh
giữa những tổ chức độc quyền,... Điều đó chứng minh cho tính đúng đắn của quan
điểm Mác về vai trò to lớn, về sức mạnh của nhà nước đối với cơ sở kinh tế.
Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý rằng, nếu quá nhấn mạnh sự tác động của
kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng mà không thấy chiều quyết định của cơ
sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thì dễ rơi vào duy tâm chủ quan, bệnh chủ
quan duy ý chí giống như thời kỳ trước đổi mới ở Việt Nam.
2.3. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên

Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


13
Tiểu luận triết học

Trước khi có chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa duy tâm đã giữ vị trí thống trị trong
việc giải thích lịch sử. Khơng những các nhà triết học duy tâm mà ngay cả những
nhà tư tưởng tiên tiến trước Mác cũng đứng trên lập trường duy tâm để giải thích
các hiện tượng lịch sử xã hội.
Người ta xuất phát từ một sự thật là trong giới tự nhiên, thì lực lượng tự
nhiên hoạt động tự động, khơng có ý thức; còn trong xã hội hoạt động của con
người có lý tính, có ý thức và ý trí. Căn cứ vào sự thật ấy người ta đi đến kết luận
sai lầm rằng: Trong giới tự nhiên, thì tính quy luật, tính tất nhiên thống trị, sự thay
đổi của ngày đêm, sự thay đổi của bốn mùa, sự biến hóa của khí hậu và những hiện
tượng khơng phụ thuộc vào ý và chí và ý thức của người ta, cịn những sự kiện lịch

sử thì do hoạt động tự giác và ý chí của người ta, trước hết là của những nhân vật
lịch sử, những lãnh tụ, anh hùng quyết định; ý chí của người ta có thể thay đổi tiến
trình lịch sử.
Chính vì vậy đáng lẽ phải lấy sự phát triển của các điều kiện vật chất của xã
hội để giải thích lịch sự, động lực lịch sử, bản chất của con người; giải thích tự
nhiên xã hội, quân điểm chính trị, chế độ chính trị... người ta lại đi từ ý thức con
người, từ những tư tưởng lý luận về chính trị, về triết học, pháp luật... để giải thích
tồn bộ lịch sử xã hội. Ngun nhân giải thích của sự duy tâm về lịch sử chính là ở
chỗ các nhà triết học trước kia đã coi ý thức xã hội để ra và quyết định tồn tại xã
hội.
Quan điểm này có những thiếu sót căn bản như sau: Không vạch ra được
bản chất của các hiện tượng xã hội, nguyên nhân vật chất của những hiện tượng ấy.
Khơng tìm ra những quy luật phổ biến chi phối sự vận động và phát triển
của xã hội.
Không thấy vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Khác với các nhà triết học trước đây, khi nghiên cứu xã hội C.Mác đã lấy
con người làm xuất phát điểm cho học thuyết của mình. Con người mà Mác nghiên
cứu không phải con người trừu tượng, con người biệt lập, cố định mà là con người
Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


14
Tiểu luận triết học

hiện thực đang sống và hoạt động, trước hết là hoạt động sản xuất, tái sản xuất ra
đời sống hiện thực của mình. Đó là con người cụ thể, con người của tự nhiên và xã
hội.
Xã hội loài người là một hệ thống phức tạp về bản chất và cấu trúc. Việc
nghiên cứu vấn đề này chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở một hệ thống những
phạm trù mà triết học duy vật về lịch sử vạch ra để giải thích xã hội: Hình thái kinh

tế-xã hội, sản xuất vật chất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng, giai cấp và quan hệ giai cấp, dân tộc và quan hệ dân tộc, nhà nước và pháp
luật, hình thái ý thức xã hội, văn hoá, cá nhân và xã hội... Từ khi chủ nghĩa duy vật
lịch sử ra đời, loài người mới có một lý luận thực sự khoa học để nhận thức được
đúng bản chất của xã hội, phân tích được những quy luật khách quan chi phối sự
vận động và phát triển của xã hội loài người.
Xã hội lồi người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối
tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của
xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Vậy thế nào là một quá trình lịch sử - tự nhiên? Trong tự nhiên thì rõ ràng,
các quá trình phát triển đều diễn ra một cách tự nó, tuân theo những quy luật khách
quan vốn có, khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người; cịn các q
trình phát triển trong xã hội đều có sự tham gia tích cực của con người. Con người
khơng chỉ tham gia mà cịn sáng tạo ra lịch sử, nhưng khơng phải sáng tạo một cách
tùy tiện, chủ quan, mà sáng tạo trong những điều kiện, hoàn cảnh, tiền đề vật chất
nhất định, phù hợp với quy luật khách quan.
Xã hội là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người, là tổng
hòa những mối liên hệ, quan hệ của các cá nhân. Nhưng những cá nhân này luôn có
những lợi ích, ý chí, nguyện vọng, mong muốn chủ quan khơng giống nhau, thậm
chí trái ngược nhau; điều mà người này muốn lại bị người kia cản trở; và xu hướng
phát triển của xã hội, cuối cùng xuất hiện ra như là một cái mà khơng có ai mong
Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


15
Tiểu luận triết học

muốn cả, không theo ý muốn chủ quan của người này người nọ; bởi vậy, cho đến
nay, lịch sử đã phát triển theo kiểu một quá trình tự nhiên, và về căn bản, cũng bị

chi phối bởi những quy luật vận động như tự nhiên. Đó là quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở
hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác. Chính sự tác
động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động
phát triển từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn…
Trong những quy luật này thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quan trọng nhất. Bởi nguồn gốc sâu
xa của sự vận động phát triển của xã hội chính là ở sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi quan
hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng
tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng
hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra một cách
khách quan chứ khơng phải theo ý muốn chủ quan của con người. V.I.Lênin viết:
“Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy
những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta
mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái
xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã
hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao - đó là con đường phát triển chung của
nhân loại. Song, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các
quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về
truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế, ... Chính vì vậy, lịch sử phát triển của
nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong
lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế
- xã hội từ thấp đến cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình

Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


16

Tiểu luận triết học

thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một q
trình lịch sử - tự nhiên chứ khơng phải theo ý muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những
diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong
những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH
TẾ- XÃ HỘI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Vấn đề bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
Quy luật chung của sự phát triển xã hội là tuần tự từ hình thái kinh tế - xã
hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội cao: Hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy
lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nơ lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến,
hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa mà giai đoạn thấp nhất là chủ nghĩa xã hội. Động lực thúc đẩy tiến trình phát
triển đó là sự xuất hiện của phương thức sản xuất vật chất mới mà ở đó, năng suất
lao động của xã hội mới cao hơn hẳn năng suất lao động của xã hội cũ. Tuy nhiên,
do những điều kiện lịch sử cụ thể quy định nên sự phát triển xã hội khơng nhất thiết
“tuần tự” mà có những “bước nhảy” - “bỏ qua” nấc thang này hay nấc thang khác
lên nấc thang cao hơn cũng khơng trái tiến trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử.
Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, lồi người nhất định sẽ tiến tới chủ
nghĩa xã hội”. Trong xu thế vận động chung đó của thế giới, Đảng ta đã chọn lựa
con đường phát triển rút ngắn - hay nói theo cách của Lênin đó là phát triển khơng
phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Cương lĩnh năm 2011, Đảng ta
xác định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu
thế phát triển của lịch sử”
Tuy nhiên do trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, nhận thức của Đảng
và Nhà nước ta về q trình “phát triển rút ngắn” chưa đầy đủ, tồn diện cộng với
bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội nên việc vận dụng “bỏ qua giai đoạn phát triển

Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


17
Tiểu luận triết học

tư bản chủ nghĩa” đã có nhiều sai lầm, muốn rút ngắn thật nhanh quá trình đi lên
chủ nghĩa xã hội nên đã “bỏ qua” quá giới hạn, vi phạm các quy luật khách quan
khi muốn tạo ra những bước nhảy vọt về kinh tế trong khi điều kiện chưa cho phép.
Văn kiện ĐH Đảng lần VI đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều
chặng đường và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước
đi cần thiết…”.
Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đã tự phê phán nghiêm túc về những sai lầm
mắc phải, nhận thức lại quan niệm bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa một cách đúng
đắn, đầy đủ hơn. Quan điểm đó đã được Đại hội VII, Đại hội VIII và Đại hội IX bổ
sung hoàn thiện hơn. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “Quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại”, đồng thời nhấn mạnh: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả
lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp cho nên phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có
tính chất quá độ”.
Như vậy, rõ ràng nhận thức lý luận của Đảng về quá trình quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội đã xác định đây là một quá trình lâu dài để tạo ra sự biến đổi về chất
(đối với quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng), nó phải trải
qua nhiều chặng đường, bước đi thích hợp và nhiều hình thức trung gian về tổ chức

kinh tế - xã hội.Trong q trình ấy, có cái khơng bỏ qua, có cái phải tiếp thu, kế
thừa, có cái phải phát triển rút ngắn; chứ chúng ta không thể bỏ qua tồn bộ, khơng
thể phù định sạch trơn những tiến bộ của nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư
bản.
Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


18
Tiểu luận triết học

2. Vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa
Trước hết ta hãy phân tích tại sao (hay căn cứ vào đâu) mà Đảng ta lại chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa? Điều này cũng có nghĩa là phân tích sự vận dụng quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của Đảng ta hiện nay.
Trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, nhìn chung rất đa
dạng, khơng đồng đều, nhiều trình độ. Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, công cụ sản xuất, công cụ lao động hiện nay ở nước ta cũng rất
đa dạng, không đồng đều. Theo thống kê, công cụ lao động thủ cơng chiếm phần
lớn trong nơng nghiệp, cịn trong cơng nghiệp chiếm đến 60% lao động giản đơn.
Nhung bên cạnh đó, ta cũng đã có cơng cụ lao động ở trình độ cơ khí hóa, hiện đại
hóa, tự động hóa. Những cơng cụ lao động này thậm chí đan xen nhau trong một cơ
sở sản xuất, trong một nhà máy. Nếu như phương Tây, nhìn một cách đại thể, phát
triển tuần tự từ lao động thủ cơng lên máy móc cơ khí, rồi lên tự động hóa, thì ở
Việt Nam hiện nay có lĩnh vực phát triển tuần tự, lại có lĩnh vực phát triển theo kiểu
đi tắt, đón đầu, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư
(4.0) đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu. Điều này nói lên tính chất đa dạng, nhiều
trình độ của công cụ lao động ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, thích ứng với sự đa dạng của cơng cụ lao động sản xuất như vậy,

kinh nghiệm vả kỹ năng lao động của con người Việt Nam hiện nay cũng rất khác
nhau. Từ đó, trình độ tổ chức và phân cơng lao động, trình độ ứng dụng khoa học
kỹ thuật vào sản xuất ở Việt Nam hiện nay ở những cơ sở sản xuất khác nhau cũng
rất khác nhau.
Thứ ba, khoa học kỹ thuật ở nước ta hiện nay, nhìn chung ở trình độ thấp,
chậm phát triển, nhưng cũng có những yếu tố hiện đại, đi trước, đón đầu. Từ đó ta
thấy, trình độ khoa học kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay cũng rất đa dạng.

Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


19
Tiểu luận triết học

Như vậy, trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay khá đa dạng,
không đồng đều, nhiều trình độ. Theo quy luật, muốn sản xuất phát triển thì quan
hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất ở
Việt Nam hiện nay đa dạng, không đồng đều, nhiều trình độ như vậy, do đó, logic
tất yếu đối với quan hệ sản xuất, hay trong quan hệ sản xuất chúng ta cũng phải đa
dạng. Tính đa dạng của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ:
Một là, đa dạng trong thành phần kinh tế, tức là chúng ta phải xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy,
chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần không phải là một chủ trương
xuất phát từ ý muốn chủ quan, mà nó dựa trên quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cụ thể hiện nay, chúng ta có các
thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn
đầu tư nưóc ngồi. Trong đó, theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII,
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân hợp thành nền tảng của
nền kinh tế độc lập tự chủ, kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng
của sự phát triển kinh tế đất nước.

Hai là, đa dạng trong hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức quản lý,
nhiều hình thức phân phối. Khác với trước kia (hai hình thửc sở hữu là tồn dân và
tập thể), ngày nay chúng ta có ba hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể và tư nhân.
Ba là, đa dạng trong phân phối. Nếu như trưóc kia, chúng ta phân phối theo
chủ nghĩa bình quân, cào bằng thì ngày nay phân phối theo nhiều cách khác nhau
như theo lao động (tức theo khả năng, năng lực, trí tuệ), theo hiệu quả kinh tế, theo
mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác, theo phúc lợi xã hội, an sinh xã hội.
Từ phân tích quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triền của
lực lượng sản xuất trên đây, muốn phát triển sản xuất ở Việt Nam hiện nay chúng ta
cần phải:
Như Nghị quyết Đại hội XII đã chỉ ra, chúng ta phải phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất với trình độ khoa học cơng nghệ ngày càng cao, hoàn thiện quan hệ
Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1


20
Tiểu luận triết học

sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phải xây dựng
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp.
Phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay là phải phát triển khoa
học kỹ thuật, khoa học công nghệ, cải tiến công cụ lao động, mở rộng đối tượng lao
động, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao thơng
qua sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chấn hưng nền giáo dục
nước nhà. Muốn phát triển sản xuất ở Việt Nam hiện nay, chúng ta không chỉ phát
triển lực lượng sản xuất; mà còn phải xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản
xuất; tức phải từng bước xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, điều đó có nghĩa là, chúng ta phải hồn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Muốn hoàn thiện thế chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

chúng ta cần phải tiến hành đồng bộ những công việc là: giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường. Phát triển các hình thức sở hữu, các
thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Đồng bộ các yếu tố thị trường và
các loại thị trường. Nâng cao vai trò lãnh đạo cùa Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý
của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Qua đó ta thấy, mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ là mối quan hệ
biện chứng, liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau.
3. Vấn đề củng cố và hoàn thiện kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng quan hệ biện chứng với nhau, ảnh
hưởng lẫn nhau. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa là tiền đề, điều kiện
để củng cố, kiện toàn kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng kiến
trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa xét đến cùng là nhằm phục vụ cho quá trình hình
thành và phát triển cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa trong suốt thời kỳ quá độ. Cơ sở
kinh tế xã hội chủ nghĩa có vững mạnh thì kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa
Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1



×