Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Thái Cực Quyền Cổ Lưu Hình pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.88 KB, 80 trang )

MỤC LỤC
Lời giới thiệu 4
PHẦN THỨ NHẤT 6
I. TÍNH ƯU VIỆT VỀ HOẠT ĐỘNG TĂNG CƯỜNG SỨC KHỎE
CỦA THÁI CỰC QUYỀN 6
1. Rèn luyện hệ thần kinh : . 6
2. Hỗ trợ hoạt động của hệ thống tuần ho àn, khí quản, huyết quản và
các hệ mạch : 6
3. Tăng cường sự dẻo dai của c ơ bắp, rèn luyện các khớp xương toàn
cơ thể : 6
4. Hít thở từ từ, “Khí tồn đan điền”: 7
II. NHỮNG ĐIỀU CẦN CHÚ Ý KHI TẬP THÁI CỰC QUYỀN 7
PHẦN THỨ HAI 9
I. NHỮNG YẾU LĨNH CƠ BẢN TRONG LUYỆN THÁI CỰC
QUYỀN 9
II. PHƯƠNG PHÁP LUY ỆN VẬN ĐỘNG THỞ BỤNG SÂU 13
III. NHỮNG YÊU CẦU CỦA THÁI CỰC QUYỀN ĐỐI VỚI T Ư THẾ
CỦA CÁC BỘ PHẬN C Ơ THỂ 18
1. Bộ phận đầu 19
a- Đầu 19
b- Đỉnh 19
c- Gáy 20
2. Chi trên 21
a- Vai 21
b- Khuỷu tay 22
c- Cổ tay 22
d- Tay : 22
e- Nắm tay : 24
f- Câu 24
3. Phần trên của thân người: 25
a- Ngực : 25


b- Xương sống: 25
c- Bụng : 26
d- Eo 27
e- Mông 28
4. Chi dưới : 29
a- Háng : 29
b- Vùng chậu – đùi : 30
c- Đầu gối : 31
d- Chân : 32
5. Khớp : 33
IV. MẤY PHƯƠNG PHÁP LUY ỆN TẬP THEN CHỐT 36
1. Thân pháp (phương pháp luy ện tập thân) 36
2. Bộ pháp (phương pháp luyện bước chân) 38
3. Thủ pháp và nhãn pháp (Phương pháp luyện tay và mắt) 39
4. Lực háng 41
5. Động tác hình cung kiểu xoáy ốc với sự vận động của khí lực b ên
trong. 43
6. Năm quy luật đối xứng hài hòa 45
 Muốn lên trên , trước tiên phải ở dưới 45
 Muốn sang trái , trước tiên cần qua phải 46
 Trong khi đẩy lên là có kéo lại 46
 Trên - dưới, phải - trái cuốn hút lẫn nhau và liên hệ với nhau 46
 Giằng kéo trái ngược, “Khúc trung cầu trực” (trong cái cong t ìm
cái thẳng) 46
7. Sự kết hợp tự nhiên giữa khai hợp – hư thực với hít thở. 47
a- Khai – hợp, hư – thực 47
1) Khai và hợp là từ trong điều khiển ngo ài, từ ngoài đưa vào trong. 47
2) “Khai trung hữu hợp, hợp trung hữu khai” 47
3) “Hư trung hữu thực, thực trung hữu h ư” 48
4) Khai – hợp, hư – thực thay đổi từ từ. 48

b- Sự khai – hợp, hư – thực và hô hấp 49
1) Sự kết hợp tự nhiên giữa khai – hợp, hư – thực và hô hấp 49
2) Hợp - hư , tích là lấy hơi vào; khai, thực, phát là thở ra 50
3) Khi đi và vung tay th ì khai, thở ra và hợp, lấy hơi vào là một 51
4) Toàn bộ bài thái cực quyền với các thế, về phân loại thứ tự th ì hô
hấp và động tác là một 52
V. Các ví dụ về hô hấp trong thế quyền 54
PHẦN THỨ BA 64
Phụ lục 64
I. Thiết thực dạy tốt, học tốt môn “Thái cực quyền giản hóa" 64
II. Những bộ hình cơ bản trong “Thái cực quyền giản hóa” 65
III. Bộ pháp liên hoàn của Thái cực quyền giản hóa 74
Lời giới thiệu
Thái cực quyền là một trong những môn phái v õ thuật cổ truyền phong
phú và nổi tiểng của Trung Quốc. Ng ày nay Thái cực quyền ở Trung Quốc
được phổ biến rộng rãi vì nó có tác dụng thiết thực nhằm luyện tập củng cố và
tăng cường sức khỏe cho mọi ng ười. Ở Việt Nam cũng có nhiều ng ười hâm
mộ và tập luyện môn này, nhất là ở các câu lạc bộ sức khỏe ngoài trời.
Bác Hồ muôn vàn kính yêu c ủa chúng ta trước đây đã được võ sư Cố Lưu
Hinh, người am hiểu sâu sắc về Thái cực quyền , được Trung ương Đảng Cộng
sản Trung Quốc giới thiệu sang Việt Nam trực tiếp h ướng dẫn người tập luyện
trong những năm 1955 – 1957 tại Hà Nội. Tôi cũng may mắn được cùng một
số đồng chí khác tham gia các buổi tập đó.
Bình sinh Bác Hồ rất quan tâm tự tập luyện theo nhiều ph ương pháp sinh
động do Người sáng tạo. Thật bình dị mà vĩ đại, từ Nhà Rồng ra đi tìm đường
cứu nước, qua lao động và tham gia vận động cách mạng ở nhiều n ước, những
lúc bình an cũng như gian khổ nhất, trong sinh hoạt hàng ngày, Bác Hồ không
bao giờ sao nhãng tập luyện giữ gìn sức khỏe Sau Cách mạng Tháng 8 năm
1945 về Hà Nội dù bận rộn công việc đến đâu, từ mờ sáng kể cả lúc m ưa phùn
gió bấc, Người vẫn ra sân tập thể dục đều đặn. Cuối tháng 3 năm 1946, Bác

Hồ đã ra lời kêu gọi “Toàn dân tập thể dục” đến nay vẫn c òn nguyên giá trị
chỉ đạo, cổ vũ động viên vang vọng mãi cho các thế hệ của chúng ta. Khi
kháng chiến chống Pháp, dù ở chiến khu trong rừng sâu, Người vẫn cùng mọi
người tập thể dục, chơi bóng chuyền hoặc bơi ở con sông gần cơ quan; nhiều
lần sau phiên họp của Chính phủ Kháng chiến, Người vui vẻ thoái mái huy
động các vị bộ trưởng, thứ trưởgn ra sân cùng chơi bóng chuyền hoặc tập
quyền. Năm 1955 hòa bình lập lại, được võ sư Cố Lưu Hinh hướng dẫn tập
luyện, Người rất trọng nhân tài và quan tâm đến mọi người xung quanh nên
chỉ thị cho chúng tôi tổ chức th ành lớp học có gần 20 anh, chị em c ùng tham
gia học Thái cực quyền. Chính tại cái sân rộng rãi chếch phía sau bên phải
ngôi nhà một tầng nơi Người đã từng ở và làm việc gần 10 năm sau giải
phóng Thủ đô, sáng sáng Người dậy rất sớm để cùng lớp học nghiêm túc theo
từng động tác của lão võ sư. Người còn cùng lớp học, không bỏ buổi n ào nghe
võ sư Cố Lưu Hinh giảng giải về lý thuyết v õ học, võ đạo. Người thường ân
cần hỏi han trân trọng v à nhiều lần giữ lão võ sư ở lại cùng ăn sáng và trao đ ổi
ý kiến rất cởi mở, thân mật. Qua tập uyện của Bác Hồ những năm 1955 –
1957 so sánh với trước đó, chúng tôi thấy Thái cực quyền l à bài tập mà Người
ưa thích nhất, có lẽ vì nó hấp dẫn, mang lại kết quả tích cực, rất thích hợp với
mọi người, đăc biệt với người lớn tuổi.
Năm 1975, võ sư Cố Lưu Hinh gửi tặng tôi về cuốn sách Thái cực quyền,
do chính ông biên soạn, để kỷ niệm những ng ày ở Việt Nam không bao giờ
quên mà chúng tôi có d ịp quan biết nhau nay có lẽ lão võ sư cũng đã gần 90
tuổi. Đây là cuốn sách rất quý của kho t àng võ thuật, đặc biệt là Thái cực
quyền của Trung Quốc. Phần lý thuyết đ ược trình bày một cách khoa học có
tính tổng kết sâu sắc, phần thực h ành có các hình ảnh minh họa đầy đủ , tỷ mỉ
các động tác của bài tập. Nay do yêu cầu của phong trào “Thể thao cho mọi
người” đang phát triển, tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách quý n ày với bạn
đọc xa gần tham khảo, t ìm hiểu tập luyện theo Thái cực quyền. Nếu các bạn
muốn có sức khỏe dồi d ào, tinh thần sảng khoái xin hãy thường xuyên tập
theo đúng lời khuyên và hướng dẫn của tác giả.

TẠ QUANG CHIẾN
Chủ tịch Ủy ban Olimpic Việt nam
nguyên Tổng cục trưởng Thể dục Thể thao

PHẦN THỨ NHẤT
I. TÍNH ƯU VIỆT VỀ HOẠT ĐỘNG TĂNG C ƯỜNG
SỨC KHỎE CỦA THÁI CỰC QUYỀN
Thái cực quyền là môn “quyền thuật” đã lưu hành từ lâu đời của Trung
Quốc (động tác phối hợp của thủ pháp, nh ãn pháp, thân pháp, b ộ pháp), “thuật
thổ nạp” (vận động hít khí sâu thả cũ thu mới), “thuật đạo dẫn” (vận động c ơ
thể và khí công).
Sự kếp hợp chặt chẽ của ba thứ : ý chí, hít thở, động tác (theo thuật
ngữ gọi là : luyện ý, luyện khí, luyện thân) tạo ra môn thể dục v õ thuật mới để
chữa bệnh, tăng cường thể chất và bảo vệ sức khỏe là kếp hợp chặc chẽ giữa
nội ngoại toàn thân đã cấu thành tính thống nhất trong ngoài và tính tổng thể
của phương pháp rèn luyện Thái cực quyền, nó v à quan niệm tổng thể của trị
liệu trong Y học Trung Quốc l à một.
Kết hợp đạo dẫn và thổ nạp, trong khi tập Thái cực quyền không chỉ
tiến hành các hoạt động của cơ bắp và khớp xương mà còn kết hợp giữa động
tác và hít thờ, từ đó tăng cường rèn luyện của nội tạng.
Những ưu việt của hoạt động rèn luyện Thái cực quyền hi ện nay :
1. Rèn luyện hệ thần kinh :
Hoạt động đa dạng vô c ùng phức tạp của con người là dựa vào điều tiết sự
ức chế và hưng phấn của thần kinh đại n ão.
Thái cực quyền dùng phương pháp luy ện tập “Tĩnh tâm dụng ý”, đầu
tiên cho hoạt động vỏ đại não được nghỉ ngơi. Trung tâm thần kinh sẽ chỉ huy
động tác phối hợp của các c ơ quan chức năng toàn thân và luyện tính linh hoạt
của hệ thống thần kinh. Do đó, khi luyện Thái cực quyền tuy tốc độ châm
nhưng lại rất nhạy cảm và thích ứng đối với sự biến đổi của thế giớ i bên
ngoài.

2. Hỗ trợ hoạt động của hệ thống tuần ho àn, khí quản, huyết quản và
các hệ mạch :
Lý luận Trung Quốc cho rằng c ơ thể con người có mối quan hệ thống nhất
giữa sức khỏe và sự lưu thông của các hệ thần kinh v à khí huyết trong mỗi
con người. Sau một thời gian luyện Thái cực quyền , sẽ có cảm giác bụng k êu,
đó chính là phản ứng của sự lưu thông các hệ thống khí huyết và thần kinh.
Trong quá trình luyện tập, các mạch máu của động mạch sẽ hoạt động điều
độ, thúc đẩy quá trình tuần hoàn máu, đẩy nhanh quá trình cung cấp khí và
cũng tăng cường quá trình trao đổi của khí quản.
3. Tăng cường sự dẻo dai của c ơ bắp, rèn luyện các khớp xương toàn
cơ thể :
Vận động không thể tách rời các hoạ t động có liên quan giữa cơ bắp, các
khớp xương và các cơ quan liên quan. Động tác vòng tròn xoáy trôn ốc của
Thái cực quyền có thể khiến to àn bộ các cơ bắp và các đường gân trong cơ thể
phải tham gia hoạt động, khiến các khả năng của chúng th êm phong phú uyển
chuyển mà có tính độc lập. Các cơ quan chức năng của cơ thể có thể hướng
tới tới mọi hướng, hoạt động của nó mềm mại m à lại có ảnh hưởng lớn. Hệ
thống xương cốt và các cơ quan khác ho ạt động chịu sự chi phối của cơ bắp,
song có tác dụng tự mình điều tiết, nó hỗ trợ cho sự mạnh mẽ của hệ thống
xương cốt, đảm bảo tính linh ho ạt của các cơ quan khác trong cơ th ể.
4. Hít thở từ từ, “Khí tồn đan điền”:
Trạng thái đầu tiên của Thái cực quyền phải duy tr ì là “Bụng đầy ngực
rỗng”, trạng thái căng thẳng của phần ngực đ ược chuyển sang phần bụng, l àm
cho phổ thoải mái, phần bụng tĩnh nh ưng lại đầy, và phải duy trì trọng tâm.
Khi luyện Thái cực quyền, hít từ từ đ ưa khí đến khắp cơ thể : hít sâu, hít dài,
hít đều và chậm tăng dần số lượng hít vào cơ thể.
Với những ưu điểm trên, việc luyện tập Thái cực quyềnrất thích hợp với
những người lao động trí óc, người bệnh và người có cơ thể yếu, người trung
niên và phụ nữ. Người tập phải căn cứ v ào tình trạng thể chất, tiến h ành tập
một cách có trình tự. Tùy điều kiện thời gian và thể lực cho phép, mỗi buổi

sáng hàng ngày luyện tập một lần, mỗi lần t hời gian khoảng trên dưới 20 phút.
Nhiều người qua một thời gian r èn luyện đã chứng mình Thái cực quyền
có tác dựng chữa bệnh đối với một số bệnh mãn tính nhất định như : suy
nhược thần kinh, của huyết áp, đau tim , đau phổi, đái đường, ho lao, khớp,
cảm mạo, lú lẫn … Nhưng nếu bệnh tình nặng quá phải luyện tập một cách
khoa học, mức độ luyện tập phải theo sự h ướng dẫn của các nhân vi ên y tế thì
kết quả sẽ tốt hơn.
II. NHỮNG ĐIỀU CẦN CHÚ Ý KHI TẬP THÁI CỰC
QUYỀN
Với quan điểm tăng c ường hoạt động thể dục ph òng bệnh, tăng cường sức
khỏe vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phong trào luyện tập Thái cực
quyền đã được đông đảo mọi ng ười tham gia. Khi học Thái cực quyền phải
chú ý: phương pháp luyện tập phải chính xác, t ư thế động tác đúng nh ư hướng
dẫn, như vậy mới nâng cao được hiệu quả rèn luyện. Nếu bắt đầy đã luyện tập
không chuẩn, động tác đã thành định hình, sau đó khắc phục rất khó khăn.
Thái cực quyền là môn phái do động tác tạo thành, các yêu cầu không
nhiều, khi luyện tập cũng dễ tiếp thu, chỉ cần ng ười luyện tập phải bền bỉ và
tận tâm. Để làm mọi việc phải có sức khỏe, muốn vậy n ên quyết tâm, tin
tưởng tăng cường luyện tập Thái cực quyền. Nh ư thế sẽ có tác dụng tăng
cường thể chất và đảm bảo sức khỏe.
Khi luyện tập Thái cực quyền n ên hít không khí trong lành, thông qua đó
sẽ kích thích hệ thần kinh , kích thích toàn bộ các cơ quan chức năng trong cơ
thể, đặc biệt là các cơ quan tiêu hóa và h ệ tuần hoàn.
Người có bệnh khi tập Thái cực quyền ở ngo ài trời nên tránh nắng gắt, gió
và mưa, sau khi tập các lỗ chân lông và huyết quản đang mở, nên ngồi mát
một lúc để tránh sinh b ênh về sau.
Buổi tối sau khi tập luyện, n ên nghỉ, đi dạo. Như vậy sẽ ngủ ngon.
Khi đói và khi vừa ăn cơm xong đều không nên tập, sau khi ăn khoảng
một giờ có thể tập luyện đ ược.
Quần áo mặc khi tập Thái cực quyền phải gọn gàng, thoải mái, thắt lưng

quần chặt vừa phải.
Sau khi tập xong nếu cảm thấy khô họng, chỉ n ên uống nước đung sôi vừa
đủ, không được uống nhiều.
Khi học Thái cực quyền đầu tiên phải chú ý “Tĩnh tâm”, “Dụng ý”, “Thể
trạng”, “Thân thẳng” . Sau khi động tác đ ã thành thục phải chú ý : “Nhu h òa”,
“Viên hoạt”, “Liên quán”, “Hiệp điều”.
PHẦN THỨ HAI
I. NHỮNG YẾU LĨNH C Ơ BẢN TRONG LUYỆN THÁI
CỰC QUYỀN
Những yêu cầu đối với toàn bộ các động tác trong Thái cực quyền c òn
được gọi là những yếu lĩnh trong luyện Thái cực quyền. T ùy mỗi dạng Thái
cực quyền đều có những đặc tr ưng riêng, song yếu lĩnh luyện tập về c ơ bản là
thống nhất (cái chung nằmg trong cái ri êng).
Ở đây chỉ giới thiệu một cách khái quát nội dung của nó để giúp ng ười
mới học lần đầu có được một khái niệm riêng.
Khi luyện Thái cực quyền, từ đầu chí cuối buổi tập, ng ười tập luyện phải
giữ thăng bằng tâm khí, th ư giãn thoải mái. Trước tiên phải “thả lỏng” trong
khu thần kinh đại não, thả lỏng cơ bắp toàn thân, thả lỏng các khớp xương và
các cơ quan nội tạng. Thân người phải thằng một cách tự nhi ên, đỉnh đầu và
hận môn luôn luôn thẳng đứng, tr ên dưới thống nhất. Tránh hiện t ượng ngực
ưỡn, bụng phưỡn, đầu cúi, lưng khom, mông cong, hít th ở phải tự nhiên – dần
dần áp dụng phương pháp thở bụng, phải luôn luôn giữ đ ược tư thế bụng rắn
ngực nở. Khi vận động cũng phải giữ đ ược trạng thái thân thẳng, các c ơ thả
lỏng, bụng rắn ngực nở, khiến cho thân d ưới có thể trụ vững, thân tr ên linh
hoạt.
Luôn luôn phải tập trung tinh thần, điều khiến các động tác bằng ý thức ,
động tác phải nhẹ nhàng, mềm mại uyển chuyển, không vận lực một cách thô
bạo, cứng nhắc, động tác phải v ùng tròn theo hình cung ho ặc hình tròn, dần
dần khiến cho tất cẩ các c ơ bắp và các khớp xương đều được vận động, động
tác hài hòa khiến các cơ bắp được rèn luyện dần từ lớp ngoài vào tới lớp

trong, động tác phải liên hoàn, liên tục; mọi tư thế và động tác đều phải được
thực hiện một cách đầy đủ, ho àn hảo, không được cái nặng cái nhẹ, không
được khiếm khuyết và đứt đoạn.
Phải lấy vận động quanh trục của eo l ưng làm chính, phần eo phải thẳng
và được thả lỏng, không lắc l ư, xương chậu – đùi phải vững để có thể ổn định
được trọng tâm, khi vận động tứ ch i chỉ cần xoay nhẹ phần eo.
Đầu phải thẳng, huyệt Bách hội luôn luôn phải h ướng lên; khi cử động,
muốn hướng về phương nào thì thần nhãn phải được hướng đi trước, ánh mắt
phải được đánh đi trước cùng với sự vận động của tay; khi dừng thế, ánh mắt
nhìn ra xa theo hướng đầu ngón tay trỏ hoặc ngón giữa, thần nh ãn phải chú ý
tới hai bên trên dưới, cổ phải thẳng, thả lỏng v à chuyển động theo ánh mắt;
miệng ngậm tự nhiên, hàm dưới hơi thu vào, đầu lưỡi hơi cuốn lên chạm nhẹ
vào hàm trên, nhằm tăng cường khả năng tiết nước bọt, như vậy khi luyện tập
cổ họng không cảm thấy khô, tạo thói que n thở bằng mũi, đảm bảo vệ sinh hô
hấp.
Vai phải thả lỏng, hai vai cân đối, không đ ược bên cao bên thấp; khuỷu
tay hải được thả lỏng, khớp khuỷu tay h ơi cong tập trung ý thức vào đầu
khuỷu khiến cho cánh tay khi co v ào duỗi ra được nhẹ nhàng, linh hoạt mà
vẫn có lực, cẳng tay trụ vững theo thế (c òn gọi là “tọa uyển”), các ngón tay
duỗi ra, khi bàn tay hoàn thành động tác đánh về phía tr ước, gốc bàn tay cũng
đánh mạnh về phía trước theo quán tính, vận lực nhiều ở ngón giữa v à ngón
áp út. Khi cánh tay vận động, cổ tay cũng phải vận động theo, tay xoay ra
hướng ngoài gọi là cuộn thuận, xoay vào hướng trong gọi là cuộn ngược.
Trên đây là những yêu cầu đối với chi trên.
Phải “Hàm hung bạt bối”, có nghĩa l à xương quai sanh tương đ ối cố định,
hơi chìm xuống, cổ ngực thả lỏng, lồng ngực hơi thu vào, khiến các bộ phận
bên trong cảm thấy thoải mái, thuật ngữ gọi l à “Hàm hung”; các cơ lưng c ũng
phải thả lỏng, hai xương bả vai vương ra ngoài, đồng thời cố định lại, d ưới tác
động của cơ lưng các đốt xương sống cũng phải thẳng và thả lỏng, khớp
xương giữ hai vai (đốt lớn) h ơi nhô lên khiến lớp da ở bộ phận nầy có cảm

giác căng ra , thuật ngữ gọi là “Bạt bối”, khiến giữa hau đốt x ương hai vai có
sự tghông liền, đồng thời hau đốt x ương này lại hơi cong về phía trước, tọa
thuận lợi cho việc “Hàm hung bạt bối”.
Vận dụng phương pháp hít thở bung tự nhiên, sự dụng hoạt động l ên
xương của cơ hoành để “Khí trầm đan điền” (Dồn khí xuống bụng d ưới) khiến
bụng dưới được điều dưỡng tốt, không đang l ên, như vậy khi luyện tập sẽ
không thở gấp vì thiếu oxi, đồng thời có thể ổn định đ ược trọng tâm. “Hàm
hung bạt bối” là tạo điều kiện để “khí trầm đan điền”, các c ơ ngực và cơ lưng
trong trạng thái thả lỏng dần dần thu xuống d ưới, khiến vùng quanh eo càng
rắn chắc, xương chậu – đùi trụ vững, đồng thời khiến cho phần bụng vô c ùng
căng chắc trong trạng thái thả lỏng.
Đốt xương cùng luôn luôn ph ải chiếu thẳng đường chính giữa của phần
bụng vả ngực, như là đỡ bụng dưới, đường chính giữa của phần bụng muốn
quay sang hướng nào đốt xương cùng phải quay thẳng sang hướng đó, có tác
dụng như bánh lái điều khiến hướng vận động, bảo đảm giữ cho thân thẳng ở
mọi góc độ trong khi vận động, gọi l à “Xương cùng chính gi ữa”. Đáy hông
vùng khớp chậu – đùi phải mở, cơ ở bộ phận hậu môn hơi co lại (không nên
co quá), gọi là treo háng, có mối quan hệ tương hỗ với “Hư lĩnh đỉnh kình”.
Việc cố định xương quai sanh trong “hàm hung” đ ối xứng trên dưới với việc
“khí trầm đan điền”, việc dốt sống lớn nhoo l ên trong “bạt bối” đối xứng tr ên
dưới với việc khớp chậu - đùi có lực. Cố định xương quai sanh là chu ẩn bị lực
tĩnh cho “hàm hung”, đót sống lớn nhô lên là chuẩn bị lực tĩnh cho “bạt bối”.
Khi vận động, eo là bộ phận quyết định, c ơ bụng vận động, cơ lưng cũng
vận động theo, đưa đến sự vận động của tứ chi.
Trên đây là những yêu cầu về “hàm hung bạt bối”, “khí trầm đan điền”,
“eo thẳng thả lỏng”, “xương cùng chính giữa”, “lỏng hông treo háng”, “lực
hợp về trước” của phần thân.
Hai đùi phải phân định rõ thực hư, khớp chậu – đùi phải lỏng, khớp gối
luôn hơi chùng. Khi v ận động đùi, trước tiên phải thực hiện xong vịêc chuyện
dịch của một bên eo, đáy hông hơi thu vào (chuy ển dịch vào trong), dồn trọng

tâm vào một đùi, cơ đùi vạn lực, vai bằng với gỏt chân, lực ở vai phải đ ược
đưa xuống tận gót chân, nhằm tăng tính bền vững m à lại không làm mất tính
linh hoạt của khớp gối bên đùi thực, khiến chân bước vững chãi thân người
hơi xổm xuống, sau đó chân kia từ từ duỗi ra, khớp gối không quá thẳng , rồi
vận lực cơ đùi; dùng mũi chân vận lực để b ước, giữa chừng lại hơi thẳng
người lên để tăng thêm lượng vận động mà lại không cứng nhắc; b ước đi phải
nhẹ nhàng linh hoạt, cùng với sự chuyển dịch từ từ của trọng tâm, hai chân
phải thay nhau nâng đỡ trọng tâm, để giữ thăng bằng cho to àn thân. Khi thực
hiện động tác, ngón chân, bàn chân, gót chân áp thẳng xuống đất, lực của b ên
chân thực đè xuống, như được cắm xuống đất, khiến b ước chân vững chắc,
còn bên châm hư thì thay đổi linh hoạt.
Đó là những yêu cầu về phân định rõ hư thực, chùng gối lỏng khớp chậu –
đùi, điều chỉnh trọng tâm của chi d ưới.
Khi mỗi thế đã vào đúng vị trí, phần eo trong khi thả lỏng phải h ơi đè
xuống, các đốt sống thả lỏng ch ìm xuống, khiến khớp xương chậu – đùi có
lực; đốt sống lớn hơi nhô lên, khiến xương chậu – đùi như bị kéo giằng theo
hai chiều lên và xuống. Khớp chậu – đùi được mở gọi là treo háng; hai gối hơi
thu vào, gọi là khép háng. Ngực nở, bụng thả lỏng m à căng chắc. Ý nghĩ phải
được tập trung tới ngón tay v à đầu ngón chân.
Cánh tay vươn ra hư ớng ngoài vài hơi thả chìm xuống, như thả lỏng mà
không thả lỏng, phải luôn thể hiện được tư tưởng “nhu trung hữu c ương” của
Thái cực quyền. Như vậy dần dần có thể tăng c ường được nội lực, động tác sẽ
nhẹ nhàng linh hoạt, có lực mà lại không cứng nhắc. Chính v ào lúc thế trước
như dừng mà không phải là dừng, thế sau đã được hình thành.
Vai phải luôn luôn vuông góc với hông, khuỷu tay t ương ứng trên dưới
với gối, đầu ngón tay phải t ương ứng trên dưới với đầu ngón chân, đầu ngón
tay của tay trước có mối quan hệ hô ứng với đầu ngón tay của tay sau, mũi
chân trước và mũi chân sau, gót chân trước và gót chân sau cũng phải có mối
quan hệ hô ứng với nhau, tr ên dưới, phải trái, trước sau phải hô ứng với nhau
và hợp lại. Muốn hợp lại đ ược với nhau một cách tự nhi ên, thần khí phải được

hợp lại. Kiểu thế phải vi ên mãn, nghiêm túc, không t ản mạn, không khô cứng,
yếu ớt, không nghiêng ngả, khi mở thế không đ ược tiến hành tản mạn, khi các
thế được tiến hành liên tực phải thể hiện được uy lực,không được ẻo lả yếu ớt.
Thân phải ngay thẳng, tinh thần phải đ ược dồn tích vào trong.
Phàm những tư thế mà đầu ngón tay trước trên thì đối chóp mũ, dưới thì
đối mũi chân thì thuật ngữ gọi là “Tam tiên tương đối”. Bất kỳ tư thế nào cũng
đều phải vai hợp với hông, khuỷu tay hợp với gối, tay hợp với chân thuật ngữ
gọi là “Ngoại tam hợp”. Ý hợp với khí, khí hợp v ới lực, thuật ngữ gọi l à “Nội
tam hợp”. Mỗi một động tác , tr ước tiên dùng ý thức để điều hành sự vận động
bên trong, đồng thời bên ngoài cũng thoe đó mà vận động, từ ngoài vào trong ,
dùng ngoài điều khiển trong.
Mỗi tư thế có 4 giai đoạn : khởi, thừa, ch uyển, hợp (phát thế gọi l à khởi,
tiếp theo gọi là thừa, biến đổi gọi là chuyển, thành thế gọi là hợp). “Thực hiện
(trước trước) quán xuyến” giữa thế n ày với thế kia, vào lúc như dừng mà
không phải dừng, nội lực dần dần đ ược vận đủ, tinh thần tập trung gọi là
“Trước trước quán xuyến”; các đốt thả lỏng, đ ưa ý thức vào chúng, hình thành
lực toàn thân một cách tự nhiên mà linh hoạt gọi là các đốt thả lỏng; nói tụ
hợp – khi một thế đã hình thành thì tứ chi phải có sự hợp lực tr ên dưới, phải
trái, trước sau một cách tự nhiên. Trong đó ta phải biết được cái nào trước cái
nào sau, khiến động tác được tiến hành một cách tuần tự. Trong quá tr ình thực
hiện động tác không được đứt quãng, trong ngoài, trên d ưới, phải trái, trước
sau phải hài hòa thống nhất; phải thực hiện được “Nội ngoại hợp nhất” , “Nhất
khí quán xuyến” , “Nhất khí kha th ành” (trong ngoài th ống nhất, một hơi một
mạch không đứt đoạn).
Khi tập quyền, thế này nối tiếp thế kia, liên hoàn, liên tục, càng tập càng
lỏng, càng chậm, khiến cho việc hít v ào thở ra được càng nhỏ, càng sâu, càng
dài và càng đều, nội tạng dần dần săn chắc, lực chân dần dần bền vừng, thể
lực được tăng cường, có thể qiù được thăng bằng cơ thể ở mọi góc độ, lại có
thể biến hóa linh hoạt, nhanh chóng.
Tư thế thân người cao, vừa hay thấp, điều này phải căn cứ vào điều kiện

thể lực và mực đồ thành thục của người tập mà quyết định. Lượng vận động
lớn hay nhỏ được quyết định bởi tư thế thân người.
Phương pháp luyện tập cao mà nhanh thì lượng vận động nhỏ, c òn thấp
mà chậm thì lượng vận động lớn. Việc tăng lượng vận động phải tiến h ành từ
từ. Phải căn cứ vào khả năng của mỗi người để xác định lượng vậ động cho
mình, đồng thời phải luôn điều chỉnh cho ph ù hợp với tiến độ luyện tập.
Khi tập toàn bài, phải xác định tư thế thân người ngay từ đầu, và phải luôn
luôn giữ ở một mức độ, không đ ược thay đổi giữa chừng, l àm ảnh hướng tiết
tấu toàn bài.
Đối với những người luyện tập để chữa bệnh phải tuân thủ nguy ên tắc nhẹ
nhàng, thải mái, tự nhiên, tập với mức độ hơi ra mồ hôi. Khi bắt đầu tập với t ư
thế cao, nếu thấy khớp gối đau không chịu đ ược thì nên nghỉ, sau tập tiếp.
Không nên tập theo phương pháp khổ luỵên của những người muốn đạt tới
trình độ kỹ thuật cao.
II. PHƯƠNG PHÁP LUY ỆN VẬN ĐỘNG THỞ BỤNG
SÂU
Vận động thở bụng sâu trong Thái cực quyền l à áp dụng “Thuật thổ nạp”
và “Thuật đạo dẫn”. Bởi vì phương pháp thở này và phương pháp thở “Khí
công liệu pháp” trong chẩn trị lâm s àng là cùng một nguồn gốc. Có điều, Thái
cực quyền là “tìm cái tĩnh trong cái động”, t ư thế của Thái cực quyền rất phức
tạp, khi mới luyện tập trước tiên cần phải luyện tập một cách chính xác những
nét đại thể của tư thế, móc nối các động tác th ành một thể liên hoàn , có thể
thở tự nhiên, chỉ cần tập ý nghĩ tư tưởng vào vùng đan điền , sau khi đã luyện
tập thành thục thì sẽ kết hợp thở bụng sâu. Còn “khí công liệu pháp” thì lại
“tìm cái động trong cái tĩnh”, t ư thế đơn giản vì vậy khi mới tập cũng có thể
tiến hành “điều khí”.
Đối với phương pháp hít thở, Thái cực quyền chủ tr ương thực hiện
“Hư lĩnh đỉnh kình”, “Khí trầm đan điền”. “Hư lĩnh đỉnh kình” là huyệt Bách
hội hơi hướng lên, kích thích tinh th ần toàn thân. Phương pháp “khí tr ầm đan
điền” là thân thẳng bụng rắn, ngực nở, điều khiển hít thở bằng ý thức, khiến

có cảm giác không khí vào bụng từ từ, không được dùng lực để ép bụng dưới .
Yêu cầu phải “dĩ ý hành khí” (dùng ý th ức để điều hành khí), “Thân động, tâm
tĩnh, khí liễm, thần th ư” (Than thể vận động, tâm trí tĩnh tại, điều h ành được
khí vào mà tinh thần thoải mái), động tác thực hiện một cách tự nhi ên không
cưỡng éo thô bạo.
Động tác toàn thân trong Thái c ực quyền khá phức tạp, khi mới học nói
chung nên vận dụng phương pháp thở tự nhiên, không nên kết hợp ngay với
vận động thở sâu, nên đợi khi đã tập luyện thành thục các động tác mới kết
hợp với vận động thở sâu. Nên chia thành hai giai đoạn : giai đoạn luyện các
động tác quyền thuật v à giai đoạn luyện thở sâu, khi hai giai đoạn n ày đã
thành thục, đem kết hợp với nhau th ì sẽ dễ dàng thực hiện được yêu cầu .
Vận động thở bụng sâu có hai kiểu luyện tập, đó l à kiểu thuận và kiểu
ngược.
Kiểu ngược được tiến hành như sau :
Tư thế chuẩn bị : đứng nghi êm, hai chân khép, m ũi chân hướng về phía
trước.
Hình 1 Hình 2
Hình 3
Chân trái bước sang ngang, khoảng cách hai chân bằng độ rộng của vai,
mũi chân hướng về phía trước, khớp đầu gối hơi chùng một cách tự nhiên,
sống lưng thẳng, thả lòng, trọng tâm rơi vào giữa hai chân; ngón chân, b àn
chân, gót chân áp th ẳng mặt đất , đáy hông v ùng khớp chậu – đùi mở, ngón
tay xòe tự nhiên, đầu ngón tay duỗi thẳng tự nhi ên , áp vào mặt ngoài đùi,
khớp khuỷu hơi khuỳnh tự nhiên, cánh tay không ép sát thân trên, nư ới nách
có thể đặt lọt một nắm tay. “H ư lĩnh đỉnh kình”, huyệt Bách hội hơi hướng lên
như bị treo, đầu như đang đội một bát nước, cần giữ trạng thái thăng bằng một
cách nhẹ nhàng thoải mái. Mắt nhìn ra xa và chú ý sang hai bên, tai l ắng nghe
phía sau, cằm hơi thu vào, môi ngậm nhẹ, hai hàm răng khép nhẹ, lưỡi phẳgn,
đầu lưỡi chạm nhẹ hàm trên, tạo thời quen thở bằng mũi, gáy thẳng, thả lỏng ,
hai vai thả lỏng, hai đốt xương vai đối nhau , ở giữa nh ư có sự thông liền,

xương quai sanh tương đ ối cố định. Ngực nở thoải mái, bụng căng chắc. (h ình
2) Đó là tư thế chuẩn bị.
Khi kiểm tra tình hình thả lỏng toàn thân, nếu tự cảm thấy cân bằng tâm
khí, có nghĩa là có thể bắt đầu các động tác. Trước tiên hơi đưa hai tay về phía
trước hai hông, gốc bàn tay hơi đè xuống, ngón tay mở tự nhi ên, đầu ngón tay
tương ứng với các đầu ngón chân. Đồng thời, hai vai h ơi nhô về phía trước, da
cơ lưng có cảm giác căng lên, tạo thành tư thế “hàm hung bạt bối”, các đốt
xương sống thả lỏng, thẳng đứng, khiến x ương chậu có lực, bụng càng thêm
căng chắc, đốt xương sống thứ nhất giữa hai vai h ơi nhô lên, tạo thành tư thế
“Trung chính yên thư”, “Thư ợng hạ nhất tuyến”, “h ư lĩnh đỉnh kình”, “Khí
trầm đan điền”, “Hàm hung bạt bối”, “Trầm khiên thùy chẩu”, “Tháp yêu tùng
khóa”, “Khuất tất viên đang”, do đó thực hiện được những yêu cầu cơ bản
trong vận động Thái cực quyền (h ình 3).
Khi tư thế này vừa dừng, thực hiện tiếp động tác sau :
1. Từ từ hít sâu, đồng thời hai tay từ từ đưa ra phía trước theo hướng mũi
bàn chân, tay cao ngang vai , khủyu hơi khuỳnh khiến cánh tay khi v ươn ra
phía trước vẫn giữ được hình cung nông, đồng thời bụng dưới dần dần thu lại
(hình 4).
2. Từ từ thở ra, đồng thời hai khuỷu tay thu về trước sườn, cánh tay trên
không áp sát vào thân khi thu v ề tay vẫn ngang vai, vừa thu vừa xoay ra ngo ài,
hai lòng bàn tay vát nhau, ngón cái và ngón tr ỏ tạo thành nửa vòng tròn, các
ngón tay chĩa chếch lên. (hình 5)
3.
Hình 4 Hình 5 Hình 6
Hai tay từ từ hơi xoay vào và từ từ đưa về trước hông theo đường cũ, thở
phải đều, đồng thời bụng d ưới dần dần nhô ra (tức “Khí trầm đan điền) (h ình
6). Sau đó ngón tay du ỗi thẳng, toàn thân thả lỏng, trở về tư thế chuẩn bị (hình
2). Sau đó làm lại từ đầu.
Khi thực hiện thở bụng sâu kiểu ng ược, trạng thái phần ngực v à bụng sẽ
thay đổi như hình 7.

* Các điểm chú ý :
a – Trước tiên phải thả lỏng trung khu thần kinh, tập trung t ư tưởng khiến
toàn thân được thả lỏng.
Hình 7
b – Từ đầu tới cuối, phải d ùng ý thức để điều khiển động tác, động tác
phải liên tục, không đứt đoạn, tốc độ phả i đều không được vận lực thô bạo
cứng nhắc.
c – Hít thở phải dần dần đạt được : sâu, dài, chậm, đều, tĩnh. Hít thờ phải
hài hòa với động tác.
d – Mắt phải nhìn ngang, nhìn ra xa, khi tay nâng lên gi ữ chùng và hạ
xuống giữa chừng, mắt phải chú ý tới động tác của tay (đầu luôn luôn “H ư
lĩnh đỉnh kình”, không cúi), sau đó tiếp tục nhìn ngang ra xa, khiến thần kinh
thị giác luôn luôn đ ược rèn luyện, có lợi cho việc khôi phục v à tăng cường thị
lực.
đ – Nếu có cảm giác tức ngực đau đầu th ì cần kiếm tra lại trạng thái thả
lỏng, và sửa lại. Nếu vẫn có những phản ứng không tốt th ì cần phải dừng buổi
tập.
e – Khi thời tiết quá lạnh hoặc gió to không nên luyện tập ngoài trời mà
chuyển vào tập trong phòng.
*Thuyết minh:
1. Thân pháp , động tác và hít thở kiểu này là những yêu cầu cơ bản của
Thái cực quyền, nó xuyên suốt từ đầu tới cuối to àn bộ các động tác.
2. Động tác kiểu này đơn giản dễ tập , không phức tạp, khó tập như toàn
bộ bài quyền. Nếu không có thời để học to àn bộ các động tác, hoặc thể chất
quá yếu không thể luyện toàn bộ bài quyền thì có thể hàng ngày chỉ cần rèn
luyện riêng kiểu này và tăng dần thời gian tập luyện mỗi lần l ên khoảng 20
phút, nếu mỗi ngày luyện được 2 lần vào buổi sáng và buổi tối thì hiệu quả
càng tốt. Những người đang chữa bệnh nếu sức khỏe cho phép, mỗi ng ày có
thể tập vài lần. Nếu thường xuyên luyện tập sẽ có lợi cho việc chữa bệnh bảo
vệ sức khỏe, tăng cường thể chất.

3. Người bệnh hoặc du khách đang trên đường nếu không tiện đứng tập th ì
có thể ngồi tập hoặc nằm tập. Nh ưng nếu nằm tập, vì liên quan tới trọng lực
nên có thể chuyển sang kiểu thở bụng tự nhi ên.
4. Khi luyện toàn bộ bài Thái cực quyền , có thể luyện li ên tục 3 lần kiểu
này để chuẩn bị cho luyện to àn bài.
5. Những người cao huyết áp khi luyện phải chú ý lúc đ ưa tay lên động tác
phải nhẹ nhàng, từ từ , lúc hạ tay xuống cần lợi dụng quán tính làm lực.
Những người bị bệnh sa dạ dày, hoặc các cơ quan nội tạng yếu cần chú ý khi
hít vào, bụng dưới thu vào, cơ hoành dâng lên, c òn khi thở ra không cần dồn
khí vào bụng dưới, cơ hoành hạ xuống.
Còn phương pháp luyện thở bụng sâu kiểu thuận tiến h ành như sau :
Đưa hai tay về phía trước, khi cao ngang vai th ì hít vào, từ từ dùng ý thức
đưa khí xuống bụng dưới, khiến bụng dưới nhô ra tự nhiên, khi thu hai tay về
vị trí cũ thì thở ra, bụng dưới thu vào tự nhiên. Kiểu này ngược với động tác
hít thở bụng sâu, kiểu ngược, còn những yêu cầu khác thì như nhau.
Phương pháp hít thở sâu “dĩ ý điều khí” n ày là phương pháp hít th ở rèn
luyện trung khu thần kinh cao cấp v à trung khu hô hấp, có thể lấy vào nhiều
oxi và thải ra nhiều khí cacbonic. Sự l ên xuống liên tục của vách ngăn sẽ thúc
đẩy nội tạng vận động, tăng c ường tuần hoàn máu, có thể chữa trị các bệnh
mãn tính. Bằng thực tiễn hàng trăm năm qua, các th ầy thuốc đã chứng mình
được tính hiệu quả của nó .
Ngoài ra cần nói thêm rằng, khi hít thở bụng sâu, sự co v ào giãn ra (thời
gian co vào ngắn, dãn ra lâu) của cơ quát ước ở hậu môn có thể chữa trị được
bệnh trĩ, tăng cường khả năng của hệ thống b ài tiết. Nhờ vậy có thể chữa trị
được bệnh di tinh.
Khi đã luyện tập thành thục toàn bộ bài quyền, có thể thực hiện nguy ên tắc
hít thở theo thế quyền : “Lên thì hít vào, xuống thở ra”, “Hợp lại thì hít vào,
mở ra thì thở ra”, Khiến cho việc thực hiện động tác v à hít thở được kết hợp
với nhau một cách tự nhi ên. Nếu trong quá trình kết hợp cảm thấy tức ngực
đau đầu ắt là có thư thế không chuẩn xác, hoặc việc kết hợp giữa hít thở với

động tác không hài hòa, c ần phải điều tiết lại, nếu đ ã điều tiết lại vẫn cảm thấy
không thoải mái, nên trở lại hít thở tự nhiên, nhất thiết không được cưỡng ép.
Sau khi luyện hít thở sâu đã đạt tới một trình độ nhất định, sẽ tự nhi ên xuất
hiện hiện tượng “bụng kêu”, nhất là trong toàn bài tập, khi mỗi thế đã vào
đúng vị trí, hoặc từ thế này chuyển sang thế khác do sự vận động của eo v à
hông dễ làm xuất hiện hiện tượng bụng kêu. Đây là một hiện tượng sinh lý tự
nhiên, là kết quả của việc “Dĩ ý điều khí”, “Khí trầm đan điền”. Hiện tượng
bụng kêu trong luyện khí công xuất hiện sớm h ơn trong Thái cực quyền, vì
trong luyện khí công, việc “Dĩ ý điều khí” đ ược thực hiện ngay từ đầu.
Đã từng có người luyện Thái cực quyền để chữa bệnh, sau khi phục hồi
được sức khỏe vẫn tiếp tục kiên trì luyện tập để tăng cường thể chất, nâng cao
kỹ thuật. Sau đó thấy xuất hiện hiện t ượng bụng kêu, không hiểu điều đó tốt
hay xấu, nghe có người nói đó là hiện tượng xấu thế là sợ không dám luyện
tiếp. Đó là sự sợ hãi không cần thiết. Hiện tượng bụng kêu là do việc thực
hiện “Dĩ ý điều khí”, do thả lỏng eo, c ơ hoành lên xuống, và phần eo xoay
tròn khiến ruột cuộn lên và cọ sát với không khí trong bụng l àm phát ra tiếng
kêu. Điều này chỉ có tác dụng đối với các c ơ quan nội tạng, không có gì lạ.
Song nếu không thấy xuất hiện hiện t ượng này thì cũng không cần thiết phải
tìm kiếm nó. Hơn nữa sau khi luyện tập một cách công phu th ì hiện tượng trên
cũng giảm dần rồi mất hẳn.
III. NHỮNG YÊU CẦU CỦA THÁI CỰC QUYỀN ĐỐI VỚI
TƯ THẾ CỦA CÁC BỘ PHẬN C Ơ THỂ
Vận động gắn liền với hoạt động của c ơ, xương và khớp. Sự thay đổi
và phối hợp các động tác l à do hệ thần kinh trung ương thống nhất điều khiển.
Thái cực quyền còn bao gồm phương pháp luyện tập lưu thông khí huyết “Dĩ
tâm hành khí”, “Dĩ khí vận thân”, thôn g qua quá trình vận lực theo đường
xoáy ốc từ cột sống vùng eo tới đầy bàn tay và đầu bàn chân, khiến chân tay
mẫn cảm, động tác của các bộ phận trong v à ngoài trên toàn cơ th ể phối hợp
ăn khớp nhịp nhàng, tạo thành một phương pháp vận động có tình chính thể
và tính thống nhất trong ngoài. Vì vậy nội dung luyện tập vô c ùng phong phú.

Những yêu cầu của Thái cực quyền đối với t ư thế của các bộ phận c ơ
thể là được đúc kết từ trí tuệ v à kinh nghiệm thực tiễn của quần chúng. Căn cứ
vào kinh nghiệm luyện tập và những điều lĩnh hội được trong hơn 40 năm
qua, đồng thời tham khảo có chọn lọc quan điểm của nhiều ng ười, tôi xin qui
nạp lại như sau :
Lúc đầu, Thái cực quyền nặng về tính vũ thuật, do vậy các y êu cầu đề
vì vũ thuật, song động tác của vũ thuật tất nhi ên rất hợp với quy luật sinh lý
của cơ thể người, chỉ cần nắm được lượng vận động, rồi tuần tự đ ưa vào là có
thể đạt được hiểu quả tốt trong việc ph òng bệnh, chữa bệnh, tăng c ường thể
chất. Điều đó rất đáng để ta bỏ công học tập v à nghiên cứu để nâng cao sức
khỏe cho người luyện tập.
Mặc dù nói Thái cực quyền “không chú ý tới h ình thức mà chú ý tới
thế khí, không chú ý bên ngoài mà chú ý t ới bên trong”, song điều đó chỉ đúng
với những người luyện tập công phu th ành thục, các động tác đ ã được định
hình vững chắc. Họ không còn phải tập trung chú ý v ào tư thế và động tác
nữa, mà chỉ cần lấy vận động bên trong làm thay đổi bên ngoài, khi đã đạt
được sự thống nhất trong ngo ài, chỉ cần chuyên tâm rèn luyệ về thần khí.
Đối với những người mới tập, trước tiên cần phải coi trọng về hình
thức rồi mới coi trọng tới ý thức, tr ước tiên phải chú ý tới việc thực hiện t ư thế
chuẩn xác, tiếp theo phải luôn giữ đ ược tư thế chuẩn xác trong một chuỗi
những động tác phức tạp li ên hoàn, nhất thiết không được nóng vội cầu toàn.
Những người mới tập nên chú ý các tư thế phải chính xác, không n ên
chỉ chạy theo tiến độ, phải luyện tốt những cái c ơ bản, như vậy sẽ lợi cho việc
nâng cao.
Qua nhiều lần sửa chữa uốn nắn, t ư thế các bộ phận dần dần đ ược định
hinh, và sau khi đã được yêu cầu “dùng sự vận động bên trong làm thay đ ổi
bên ngoài”, mọi hình thức bên ngoài đều do bên trong điều khiến, như vậy lúc
đó là đã tạo ra được một môi trường “tự động hóa”, các tư thế sẽ tự nhiên vào
khuôn khổ, người luyện không cần chú ý tới.
Yêu cầu đối với tư thế các bộ phận phù hợp với đặc điểm “Nhu trung

ngụ cương” (trong nhu có cương) c ủa Thái cực quyền, thích hợp với các b ước
luyện tập “Tùng nhu nhập thư” (bắt đầu từ nhu), “Hóa c ương vi nhu”, “Tích
nhu thành cương”, “Cương ph ục quy nhu” của Thái cực quyền.
Ngay từ tên gọi “Thái cực quyền” cũng thấy đ ược đó là một thể thống
nhất bao gồm hai mặt đối lập âm d ương. Đối lập âm dương ở đây là sự đối lập
giữa : Khai – hợp, hư – thực, hô – hấp, thuận – nghịch, cương – nhu, nhanh –
chậm, cong – thẳng, hóa – đả, vv… đều từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong.
Vì vậy mọi biểu hiện tr ên tư thế đều là sự thống nhất trong đối lập mâu thu ẫn,
cái này mâu thuẫn với cái kia, song lại liên quan với nhau, ràng buộc nhau,
chuyển hóa nhau. Nếu tư thế của một bộ phận nào đó không đúng sẽ ảnh
hưởng tới bộ phận khác, ng ược lại tư thế của một bộ phận nào đó đúng rồi
cũng có thể dần dần l àm cho tư thế của các bộ phận khác đúng theo. V ì thế,
khi mới học, nên luyện tập có trọng đỉ êm chuyên tâm uốn nắn tư thế của một
bộ phận, từng bước khắc phục khuyết điểm, tránh t ình trạng vì cái này mà làm
mất cái kia, không thực hiện đ ược việc nâng cao toàn diện.
1. Bộ phận đầu
a- Đầu
Đầu thẳng sẽ dễ dàng làm cho thân thẳng. Đầu và thân thẳng, điều này đặc
biệt quan trọng đôi với ng ười già. Đầu cúi, lưng cong, vai nhô là đ ặc trưng của
người già yếu. Những người luyện Thái cực quyền lâu d ài, khi già có thể tránh
được những khuyết tật tr ên. Điều này quan hệ tới việc nâng cao sức khỏe.
Khi luyện quyền, đầu phải thẳng, không cúi, không ngửa, không lệch, khi
vận động phải thẳng tự nhi ên, không được lắc lư.
Khi ở tư thế đứng nghiêm hoặc làm động tác, phải giả t ưởng rằng đầu
đang đội một vật rất nhẹ, nh ư vậy có thể tránh được tật đầu bị cúi, ngửa v à
nghiêng.
Khi mới học quyền, điều quan trọng l à phải giữ được dung mạo bình
thường, cơ mặt thả lỏng tự nhiên, không nên cố ý tạo ra một số dáng vẻ khác
thường, mắt phải nhìn ngang , ánh mắt nhìn ra xa. Muốn quay về hướng nào.
Thần nhãn phải đi trước, các động tác của thân, tay, chân vận động theo; khi

làm động tác, ánh mắt phải chuyển động theo tay hoặc chân, khi động tác
hoàn thành, ánh m ắt lại chuyển về phía tr ước. “Mắt chuyển theo tay, ánh mắt
nhìn ra xung quanh. Điều này chứng tỏ ánh mắt nên có định hướng song lại
không được chỉ nhìn một hướng 1 cách máy móc , nhãn thần phải chú ý xung
quanh. Vận dụng đúng phương pháp luyện này có lợi cho việc luỵện thần kinh
nhãn cầu, từ đó có lợi cho việc phục hồi thị lực v à tăng cường thị lực, làm cho
ánh mắt nhạy cảm linh hoạt.
Miệng ngậm nhẹ, hai hàm răng khép hờ, đầu lưỡi chạm nhẹ hàm trên, như
vậy trong khoang miệng sẽ tiết nhiều n ước bọt, khiến họng luôn luôn ướt, khi
thở không cảm thấy khô cổ, đồng th ơi sẽ có nhiều nước bọt vào dạ dày, có lợi
cho tiêu hóa.
Luôn luôn hít thở bằng mũi , hít thở phải tự nhi ên, yêu cầu phải dần dần
kết hợp được một cách hài hòa giữa hít thở với thực hiện động tác. Trong quá
trình thực hiện động tác, nếu cảm thấy khó khăn khi hít v ào thì có thể hít bằng
miệng từ từ, hít xong ngậm miệng lại ngay. Hít thở phải thực hiện li ên tục và
tự nhiên.
Cằm hơi thu vào, không đư ợc ngửa về trước, cũng không được thu vào
quá, để tránh tình trạng khi hít thở bằng mũi không đáp ứng đ ược yêu cầy tăng
cường lượng vận động, khiến hít thở không tốt, ảnh h ưởng tới tư thế “Hư lĩnh
đỉnh kình” và “Bạt bối”.
Tai phải chú ý lắng nghe phía sau và hai bên, tư tưởng thoải mái, toàn thân
yên tĩnh, thính giác tự nhi ên sẽ mẫn cảm.
b- Đỉnh
“Hư lĩnh đỉnh kình” tức “Đỉnh đầu huyền”, điều n ày được đặc biệt nhấn
mạnh trong Thái cực quyền. Y êu cầu của “Đỉnh kình” là huyệt Bạch hội ở
đỉnh đầu hơi hướng lên , có cảm giác như đỉnh đầu được treo lên bằng một sợi
dây, tư thế huyệt Bách hội luôn luôn đ ược giữ thẳng đứng với huyệt Hội âm,
gọi là “Thượng hạ nhất điều tuyến” (tr ên và dưới nằm trên một đường thẳng).
Huyệt Bách hội ở đỉnh đầu h ơi hướng lên, như vậy ngoài việc điều khiển
đầu thẳng tự nhiên còn có 4 ưu điểm sau :

1. Thuận lợi cho hệ thần kinh trung ương điều tíết hoạt động c ơ năng của
các cơ quan và các hệ thống khác trên toàn thân, phát huy t ốt tác dụng điều
khiẻn thăng bằng cơ thể.
2. Do “Đỉnh đầu huyền” (đỉnh đầu có cảm giác nh ư được treo lên) nên có
thể giảm nhẹ áp lực của đầu đối với thân, nhờ vậy động tác của thân sẽ linh
hoạt hơn.
3. Trong Thái cực quyền, “Hư lĩnh đỉnh kình” luôn luôn đi đôi với “Khí
trầm đan điền”. “Hư lĩnh đỉnh kình” có lợi cho việc nâng đỡ tinh thần, c òn
“Khí trầm đan điền” có lợi cho việc ổn định trọng tâm của thân, khiến tinh
thần tự nhiên được nâng lên, thần kinh nhạy cảm h ơn, đưa tới tình trạng toàn
thần được thả lỏng tự nhiên, tạo điều kiện hưng phấn thần kinh.
Lực đỉnh không nên thái quá và cũng không nên bất cập, mà phải hư hư
thực thực , như có như không, không đư ợc kích lực lên một cách cứng nhắc,
cũng như trong “Khí trầm đan điền” không đ ược dồn nén khí xuống một cách
cứng nhắc, mà là “Ý chú đan điền” (đưa ý thức xuống đan điền) với mực độ
như có như không (“ Ý thủ đan điền” là tọa công, có nghĩa là giữ cho đan điền
bất động, còn “Ý chú đan điền” là hành công, đưa ý thức xuống đan điền có
nghĩa là “động”. Nắm chắc lực đỉnh v à trầm khí (dồn nén khí) sẽ khiến cho
động tác toàn thân nhẹ nhàng linh hoạt, vững chắc.
4. Huyệt Bách hội luôn luôn giữ ở t ư thế “Hư lĩnh đỉnh kình” sẽ có tác
dụng nâng toàn thân, đồng thời vì cằm thu vào nên thuận lợi cho việc hít thở
và vận động nội khí.
Phía trước huyệt Bách hội là tiền đỉnh. Nếu tiền đỉnh h ướng lên trên, sẽ
mang tật bộ phận đầu ngẩng l ên. Nếu hậu đỉnh hướng lên thượng đỉnh sẽ mắc
tật để bộ phận đầu quá thu vào bên trong. Chỉ có huyệt Bách hội h ướng lên hư
ảo thì bộ phận phía dưới đầu mới thu vào bên trong, kết hợp với khí dán và
xương sống lưng (thiếp tích bối) giống nh ư tác dụng của Đại truy, Li êm tuyền
hơi co lại trong phép khí công trị liệu. Nh ưng Thái cực quyền không d ùng đến
từ “co” để tránh hiểu lầm ảnh h ướng đến “thượng hạ nhất tuyến” dẫn đến hiện
tượng không hài hòa.

c- Gáy
Cổ gáy phải thẳng, thả lỏng, không n ên gân cứng, như vậy khi quay phải
trái sẽ được tự nhiên và linh hoạt. Nếu vậy lực nên gân hoặc chỉ chú ý tới thả
lỏng khiến cổ mềm oặt đều l àm giảm sự linh hoạt của cổ khi quay phải trái v à
ảnh hưởng tới tư thế tự nhiên của “Hư lĩnh đỉnh kình”. Vì vậy, cổ gáy phải thả
lỏng, ngay thẳng, không cứng , không mềm.
Cổ gáy có thẳng, lỏng đ ược hay không ? Điều n ày có liên quan tới việc
“Hư lĩnh đỉnh kình” có thực hiện thỏa đáng hay không. Nếu “đỉnh k ình” thái
quá, cổ gáy cũng sẽ bị liên đới cứng theo, cần “đỉ nh kình” bất cập , cổ gáy sẽ
bị mềm theo.
Huyệt Á môn ở sau gáy có mối li ên hệ chặt chẽ với Huyệt Tr ường Cường
ở vùng xương cùng. Á môn t ức đốt quay đầu tiên của xương cổ, thông qua
hoạt động của đốt quay, đầu sẽ trở thành đòn bẩy thăng bằng. “Hư lĩnh đỉnh
kình” là sự thăng bằng của đầu gối với cột sống. Thái cực quyền gọi sự hoạt
động đàn hồi của cột sống là “Thân cung”. Thái c ực quyền kiểu Vũ thì lấy
phần eo làm tay cung, đốt sống lớn và xương cùng là hai đầu cung, còn kỉểu
Trần thì lấy xương cùng và phẩn từ đốt sống lớn tr ơ lên tới tận huyệt Á môn
làm hai đầu cung để tăng cường độ điều tiết và sức phá ra của nó, điều n ày có
quan hệ tới sự tích phát lực khi đẩy tay. “H ư lĩnh đỉnh kình” có tác dụng giữ
thăng bằng cột sống, còn cốt xương cổ có tác dụng điều tiết.
Khi tập quyền, mắt chuyển dịch về h ướng nào, thì cổ gáy cũng chuyển
theo.
2. Chi trên
a- Vai
Khi tập quyền, dù là dùng thân điều khiển tay hay dùng tay điều khiển
thân cũng đều là chuyển động tròn theo thể thuận, vì vậy yêu cầu cánh tay khi
duỗi ra, co vào, quay tròn, đều phải mềm mại. Nhưng cánh tay có mềm mại
linh hoạt được hay không ? Điều này tùy thuộc vào khớp xương vai có thả
lỏng được không. Thả lỏng khớp x ương là do ý thức điều khiển thực hiện.
Điều này phải lyện tập lâu dài mới thực hiện được. Sau khi luyện tập thành

thói quen, khớp xương vai sẽ tự nhiên dần dần được thả lỏng ra và chìm
cuống. Sau khi khớp x ương vai đã hoàn toàn được thả lỏng , tòan bộ cánh tay
có thể duỗi ra, co vào, cuốn tròn tự nhiên như cánh liễu bị gió thổi.
“Trầm kiên thùy chẩu” được coi là một trong những phép tăc quan trọng
của Thái cực quyền. Thái cực quyền y êu cầu “Trầm kiên” (chìm vai) sau khi
đã thả lỏng vai. “Trầm kiên thủy chẩu” cũng giúp cho tự nhi ên hình thành tư
thế “Hàm hung bạt bối”. Nếu nhô vai, nâng khuỷu sẽ l àm hỏng tư thế “hàm
hung bạt bối” và bất lợi cho việc thực hiện “khí trầm đan điền” . Chỉ có “hàm
hung bạt bối” được thực hiện tốt thì mới có thể thực hiện “khí trầm đan điền”.
Sự thả lỏng và vận động xoay tròn của vai có tác dụng duỗi thẳng gân v à
cơ vai, đồng thời khiến cho c ơ hai sườn lưng hình thành “Khí thiếp bối” (khí
ép vào lưng).
Khi mới tập quyền chỉ nghĩ tới việc “thả lỏng” to àn thân và “thả lỏng”
khớp xương vai. Khi luyện được thời gian dài, hiểu được sự thay đổi của thực
hư thì phải nghĩ tới việc “Trầm thân” v à “Trầm kiên”, khiến “Nội hình” từ
mềm mại chuển sang “ch ìm lắng”, cánh tay sẽ đ ược nhẹ nhàng linh hoạt ,
song lại rất mềm mại và có lực. Như vậy, cánh tay sẽ dần dần tăng c ường tính
đàn hổi như “thả lỏng mà không thả lỏng”, “cương như hòa quyện”. “Bằng
kình” là lực nối liền các lực với nhau rất quan trọng trong Thái cực quyền.
Động tác kiểu xoay trôn ốc, quấn quít lấy nhau. Chất l ượng “bằng kình” càng
cao tác dụng gắn lại với nhau lúc đẩy tay lên cao, dễ dàng dùng khuỷu tay và
nắm tay điều khiển trung tâm đối ph ương. Trong lúc diễn biến cũng không dễ
bị bị ép vào thực trạng bị rơi khiến mình ở vào địa vị bất lợi.
Khi “trầm kiên thùy chẩu” phải chú ý không ép cánh tay v ào sát nách, phải
cách nách một nắm tay, để cánh tay có chỗ vận động, v à không mất tính đàn
hồi.
Khi mỗi thế vào đúng vị trí, vai và hông phải tạo thành đường thẳng, hai
vai thả lỏng, chìm xuống và hơi hợp về phía trước, tạo thế “hàm hung bạt
bối”. Hai khớp xương vai như là không liền, quan hệ chặt chẽ với nhau. Nh ư
vậy sẽ “trong sự bung ra có đo àn tụ lại”, tăng cường tác dụng hợp lực. Trong

quá trình vận động, dù tiến lên hay lùi lại, quay phải hay l ượn trái, vai và hông
phải luôn luôn nằm tr ên một đường thẳng, đáp ứng yêu cầu “thượng hạ nhất
điều tuyến”.
Hai vai phải bằng phẳng cân đối, khi vận động không đ ược để xảy ra hiện
tượng vai cao vai thấp, l àm hỏng tư thế thẳng thân.
Thái cực quyền kiểu Trần v à Vũ chủ trương 2 đối xương vai hơp hợp về
phía trước, tạo điều kiện cho việc h ình thành tư thế “hàm hung bạt bối”, kết
hợp với việc thả lỏng v à chìm xuống theo hình cung và xương lườn và cơ
lườn phần bụng sẽ rất căng chắc, c ơ hai bên bụng cũng hợp về trước, có thể
tăng cường khả năng hợp lực.
b- Khuỷu tay
Khi tập Thái cực quyền , khớp khuỷu tay luôn hơi gập lại và có lực kéo
xuống, dù khi cánh tay phải đưa lên cao hơn vai, đ ầu khuỷu vẫn phải nh ư có
lực kéo xuống. Nếu đầu khuỷu ngóc l ên cũng đầy theo hướng lên. Điều này
trái với yêu cầu trong Thái cực quyền. Nếu khuỷu tay cách xa thân, nhô ra
phía ngoài thì sẽ không cản trở việc “trầm ki ên” mà còn ảnh hưởng tới việc
“trầm khí”, đồng thời hai s ườn hở quá lớn, đó cũng là điều bất lợi trong võ
thuật.
“trầm kiên thùy chẩu” cũng có thể tăng th êm sức mạnh cho cánh tay duôi
trong khi vận động. Chỉ có thực hiện “trầm ki ên thùy chẩu” mới có thể tăng
cường tác dụng của việ “tọa uyển”.
Khi mỗi thế vào đúng vị trí, đầu khuỷu tay phải có mối t ương hỗ với khớp
gối, hai khuỷu tay cũng phải có sự hợp lực tr ước sau, phải trái, trên dưới.
c- Cổ tay
Cổ tay là bộ phận linh hoạt nhất, có độ xoay lớn nhất trong t òan bộ các
khớp. Đối với cổ tay , điều cần chú ý nhất l à “tọa uyển”. Những người tập
Thái cực quyền nói chung đều coi trọng sự quay tròn của cổ tay, song phần
đông đều chú ý tới sự linh hoạt mềm mại uyển chuyển của nó, mà xem nhẹ
tầm quan trọng của việc “tọa uyển” , n ên không tạo được lực cho cổ tay, khiến
cổ tay mềm mại như múa, chỉ tạo được vẻ đẹp về sự nhẹ nh àng, linh hoạt chứ

không tạo được vẻ đẹp “Nhu trung hữu c ương”. Như vậy khó đưa được nội
lực ra đầu các ngón tay, ảnh h ưởng tới việc tích lực cho cánh tay, tăng tr ưởng
sự tích tụ “bằng kình”.
Khi đẩy tay khó thực hiện các thế “cầm”, “vỗ”, “ấn”, “tóm” “bắt”.
Nếu khuỷu tay thả quá lỏng , không lực, cánh tay tất cũng không có lực khi
đưa ra dễ bị đối phương túm chặt khuỷu.
“Tọa uyển” yêu cầu trong qúa trình cánh tay duỗi ra co vào, khủyu tay
không quá cứng cũng không đ ược mềm, mà vận động một cách mềm mại v à
dẻo dai như gân. Khi vào đúng th ế, khuỷu cũng phải được thả chìm xuống
cùng với sự chìm thân nén khí, đồng thời có định howngs, khiến b àn tay từ từ
được đưa lực vào, như vậy gọi là “tọa uyển”. “Tọa uyển” c òn được gọi là
“Tháp tuyển”.
“Tọa uyển” được thì trong khi vận động, nội lực b àn tay không bị đứt
đoạn hoặc bị mất.
Trong động tác đầy tay, khi khố ng chế lực của đối phương cũng cần phải
“tọa uyển” được thì mới có thể khống chế đ ược. Có khống chế được thì mới
giải phóng lực của đối ph ương.
d- Tay :
Tay là bộ phận khéo léo nhất v à biến hóa nhất. Hình dáng tay trong Thái
cực quyền chia làm 3 dạng : bàn tay, nắm tay và móc câu. Trong vi ệc thao
lược, phương pháp nắm (chưởng) là chủ yếu. đặc điểm của ch ưởng pháp
(phương pháp của bàn tay) trong Thái c ực quyền là các ngón tay duỗi lỏng,
điều này khác với chưởng pháp trong trường quyền (ngón cái cuộn chặt, 4
ngón còn lại duỗi thẳng và khép chặt).
Khi mới tập quyền, xuất ch ưởng và thu chưởng đều phải tự nhiên, không
được vận lực để nắm họăc mở b àn tay. Lòng bàn tay không được trũng. Khi
luyện tập đã công phu, ta hiểu được hư thực của động tác th ì nó sẽ được biểu
hiện trên bàn tay. Vì dụ, động tác vươn tay ra phía trước, khi chưa vươn, bàn
tay hơi khum, lực tích mà không phát, như v ậy gọi là hư chưởng; trong quá
trình vươn ra, vì động tác vươn ra thực hiện theo đường xoáy ốc nên dần dần

triệt tiêu hình khum của lòng bàn tay, như vậy gọi là từ hư sang thực. Khi
vươn tới điểm cuối cùng, hình khum gần như bị triệt tiêu hoàn toàn ngón tay
hơi duỗi, “tọa uyển”, gốc b àn tay hơi nhô về phía trước, giúp cho thế vươn về
phía trước dùng ý đưa lực ra đầu ngón tay , nh ư vậy gọi là thực chưởng; khi
thu về, vì thu về theo đường xóay ốc, bàn tay dần dần từ mở về khum, nh ư
vậy gọi là từ thực về hư.
Động tác của bàn tay là một bộ phận của động tác ho àn chỉnh, vì vậy, sự
hư thực cảu bàn tay nên kết hợp với sự thay đổi h ư thực của động tác hoàn
chỉnh – lý luận về quyền có nói : “Gốc của nó ở chân, phát ra ở đ ùi, quyết
định ở eo, thể hiện ở ngón tay … tất cả liền trong một h ơi”, có nghĩa là khi đã
xuất thủ phải kết hợp với to àn bộ các động tác của eo, đ ùi, chân.
Khi đã luyện tới giai đoạn có thể dùng khí để vận lực ở mọi bộ phận, có
thể khiến lực ở đầu ngón tay thay đổi theo h ướng của cánh tay. Ví dụ, khi
vươn tay ra phía trư ớc, bàn tay nghiêng lại, lúc này, đầu ngón tay út được lực
trước rồi cùng với động tác vươn ra theo đường xoáy ốc của cánh tay, lực sẽ
dần dần được chuyển dần sang đầu ngón áp út, ngón giữa, ngón trỏ v à ngón
cái, khiến nội lực được đưa ra năm ngón tay. Khi đ ầu ngón tay cái được lực
trước, cùng với động tác vươn ra theo đường xoáy ốc của cánh tay, lực cũng
dần dần được đưa với tận đầu ngón út. Khi b àn tay đưa lên hạ xuống song
song với mặt đất thì đầu ngón tay giữa đ ược lực trước, khi lực ở đây đã đủ nó
sẽ đưa tới dần các ngón khác.
Khi ngón cái quay ra ngoài g ọi là “Ngoại quyền” (quay ra ngoài) hoặc
“Thuận quyền” (quay thuận); khi ngón cái quay v ào trong gọi là “Nội quyền”
hoặc “Nghịch quyền” (quay ng ược). Dù quay thuận hay quay ngược đều phải
như thả lỏng mà không thả lỏng, cương nhu hoà quyện”. Động tác của Thái
cực quyền được thực hiện theo đ ường xoáy ốc, vì vậy “Cương nhu hòa
quyện” là yếu lĩnh không thể thiếu khi luyện tập.
Khi đã luyện thành thục, mắt nhìn theo đầu ngón tay nào có nghĩa là lấy
đầu ngón tay đó làm chính và từ từ đưa lực tới. Khi đã đưa đủ, các ngón khác
cũng dần dần được lực. Trong Thái cực quyền , kiểu Trần thì tập trung thần

nhãn vào đầu ngón giữa, còn kiểu Dương và Ngô thì tập trung vào đầu ngón
trỏ hoặc đầu ngón cái. Cách đ ưa lần lượt lực vào từng ngón tay chỉ có thể thực
hiện trong Thái cực quyền, v ì các động tác tay trong Thái cực quyền đ ược
thực hiện theo kiểu xoáy ốc, cuộn t ơ, phàm những chưởng pháp lên thẳng
xuống thẳng đều không l àm được điều này.
Khi mỗi thế vào đúng vị trí, đầu ngón tay v à đầu ngón chân tương hỗ với
nhau, đầu hai bàn tay cũng vậy. Trong phần lớn các t ư thế, đầu bàn tay ngang
bằng với chóp mũi. Sự ngang bằng giữa đầu b àn tay, đầu bàn chân và chóp
mũi trong phần lớn các t ư thế, thuật ngữ gọi là “Tam tiêm tương đ ối”.
Khi thả bàn tay xuống không được thấp quá đầu gối, nếu thấp quá gối sẽ
dễ mất trọng tâm, khi đánh tay ra rất bấ t lợi. Cánh tay không duỗi thẳng để giữ
thế tích lực. Khi vung tay, phải phát triển biến hoá mật thiết, không để cứng
nhắc và đứt đoạn.
Căn cứ vào phương hướng về hình dáng bàn tay, có th ể quy nạp chương
pháp thành 7 loại sau :
1) Chính chưởng : đầu ngón tay chĩa thẳng lên, lòng bàn tay hướng về
phía trước.
2) Lập chưởng : đầu ngón tay chĩa thẳng hoặc chếch l ên, lòng bàn tay
không hướng về phía trước mà hướng ra phía khác.
3) Thùy chưởng : đầu ngón tay chúc thẳng hoặc chếch xuống, không tính
tới hướng của lòng bàn tay.
4) Ngưỡng chưởng : lòng bàn tay hướng thẳng hoặc chếch l ên, không tính
tới hướng của đầu ngón tay.
5) Trắc chưởng : ngón cái chĩa thẳng l ên, bàn tay thẳng nghiêng, không
tính đến hướng lòng bàn tay.
6) Phủ chưởng : lòng bàn tay úp thẳng hoặc chếch xuống, không tính tới
đầu ngón tay.
7) Phản chưởng : ngón cái nằm b ên dưới, bàu tay thẳng nghiêng.
e- Nắm tay :
Các nắm tay trong Thái cực quyền cũng giống nh ư cách nắm tay thông

thường trong các môn quyền thuật khác, tức 4 ngón tay khép lại, d ùng ngón
giữa điều khiển các ngón khác c ùng cuộn vào, đầu các ngón tay áp vào lòng
bàn tay, sau đó lấy bụng ngón cái đè lên đoạn giữa ngón trỏ, nắm th ành quả
đấm. Tuy Thái cực quyền l à một quyền “Nhu trung hữu c ương”, song nó bắt
đầu từ nhu, nên nắm tay cũng không nên quá chặt. Nhưng dù nắm lỏng hay
nắm chặt cũng đều phải có ý kết tụ khí lực, khiến nắm tay không bị bung ra
khi đánh tay.
Khi nắm tay đã đánh chạm tới mục tiêu, lưng nắm tay phải vuông góc với
cánh tay dưới, nếu không khi gặp trở lực phần cổ tay rất d ễ bị thương. Đây là
kinh nghiệm chung rút ra từ thực tiễn của các môn quyền.
Trong Thái cực quyền có 5 động tác đánh bằng nắm tay, đó l à “Yểm thủ
hoành chùy”, “Phi thân chùy”, “Ch ẩu để chùy”, “Kích địa chùy”, “Chỉ đang
chùy”. Cho nên cũng gọi là “Thái cực 5 chùy”. Vì các động tác trong Thái cực
quyền vận động theo đường xoáy ốc, nên các tư thế thuận ngược, úp ngửa,
ngang dọc được tiến hành đan chéo nhau, tạo nên các kiểu động tác, song
phần cổ tay vẫn phải thả lỏng mềm mại m à có lực. Khi nắm tay đánh trúng
đích, lưng nắm tay phải vuông góc với cánh tay d ưới. Đây là điều cần chú ý.
Sau một thời gian dài tập luyện phải cảm nhận đ ược sự thay đổi điểm nhận
lực của nắm tay trong các t ư thế. Ví dụ, khi đánh nắm tay ra ở giai đoạn “lập
quyền” (miệng hổ nằm ở tr ên) thì đốt thứ hai của ngón út đ ược lực, khi sang
giai đoạn “bình quyền” (lòng bàn tay ở dưới) thì đốt thứ nhất của ngón giữa
được lực, khi nắm tay cắm xuống th ì đốt thứ hai của ngón giữa đ ược lực, khi
nắm tay đánh lên, đốt thứ nhất của ngón giữa đ ược lực, khi nắm tay vung tròn
thì đốt hai của ngón cái được lực.
Cùng với sự thay đồi phương hướng và tác dụng của năm trong quá tr ình
vận động, điểm nhận lực ở các ngón tay cũng thay đổi theo với mục đích đ ưa
lực vào nắm tay. Đó là phương pháp nhận lực của nắm tay trong quá trình vận
động.
f- Câu
Tay câu là 5 ngón tay ch ụm lại, gập thẳng xuống hoặc h ơi quập vào, tạo

dáng như móc câu. Thông thư ờng thì từ chưởng biến câu (từ t ư thế bàn tay
chuyển sang thế móc câu). Trong Thái cực quyền tay câu có hai kiểu : kiểu
Trần và kiểu Ngô. Điểm chung của hai kiểu n ày là ngón út quập trước, tiếp
theo đến ngón tay áp út, ngón giữa, ngón trỏ, đầu ngón út áp v ào góc bàn tay,
ngón cái áp vào đốt đầu, ngón trỏ, độ quay của đốt ngón tay lớn. Khác nhau l à
tay câu kiểu Trần được tạo ra trong khi vận động, độ quay của cổ tay khá lớn,
còn tay câu kiểu Ngô thì sau khi dừng tay mới trực tiếp tạo th ành, nên độ quay
của cổ tay khá nhỏ. Tay câu trong v õ thuật là một thủ pháp tóm bắt, có tác
dụng quắp, tóm, khóa.
Tay câu là một trong những phương pháp luyện tập lực cổ tay và lực ngón
tay. Phương pháp tóm b ắt trong Thái cực quyền kiểu Trần khá nhiều. Ví dụ.
trong động tác quá độ của “Yểm thủ ho ành chùy” có kiểu tay câu 4 ngón
chụm lại tạo câu để thực hiện động tác quắp, có kiểu ngón út v à áp út chụm
quặp lại, ngón trỏ duỗi thẳng về tr ước, đều là phép tóm bắt của tay.
3. Phần trên của thân người:
a- Ngực :
Trong võ thuật thế ngực có 3 dạng : v ươn ra, thu vào và “hàm hung”
(“hàm hung có nghĩa khí hàm chứa trong lồng ngực được điều xuống phần
bụng)
Trong Thái cực quyền áp dụng ph ương pháp hít sâu c ủa phần bụng, do
vậy ngực phải ở thế “h àm hung”, không ngừng tăng cường độ sâu và số lần hít
thở trong điều kiện tăng số lần hít v ào, nhờ vậy sẽ giảm hiện tượng thở gấp
trong quá trình vận động. “Hàm hung” không thu khí gấp gáp như thế vươn
ngực, “hàm hung” tạo ra cả giác khí bao lồng ngực. "H àm hung" có tác dụng
quan trọng về phương diện sức khỏe. Nó làm lỏng khớp xương quai sanh làm
hai vai tự nhiên buông lỏng, thông qua động tác khiến hai thế hai mảng x ương
sườn hạ thấp, làm cho khoang ngực mở rộng cơ hoành có thể hạ thấp.
"Hàm hung" không th ể thay đổi tùy tiện theo động tác m à cố định, là tư
thế thường xuyên, liên tục của phần ngực tạo thuận lợi côh các c ơ hoành hít
sâu, do cơ hoành vận động liên tục khiến cho khoang bụng và phủ tạng chịu

sự vận động lúc lỏng lúc căng hỗ trợ tốt cho hoạt động l ưu thông máu và ch ức
năng của nội tạng. Do sự vận động xoay quanh của c ơ ngực, "Hàm hung" có
tác dụng quan trọng trong luyện tập. Nếu vận dụng thủ pháp k ình lực (tức kích
lực) không thể tách rời sự bổ trợ của "H àm hung". "Hàm hung" là tư th ế tiềm
tàng của phần ngực.
Sau khi luyện quyền công, lấy thân dẫn tay, lấy tay dẫn thân, t ùy thế xoay
tròn, ngực dễ dàng cùng tay vận động khi đó các c ơ ngực không chỉ có tác
dụng co giãn thuần túy, mà còn có thể tạo nên những chuyện động xoắn tr òn
của chính nó, có tác dụng tốt trong r èn luyện sức khỏe và trong tấn công đối
phương.
Lúc đầu tập Thái cực quyền , hầu hết mọi ng ười đều thấy rất khó luyện thế
"Hàm hung". Bị quan niệm thế vươn ngực lấn áp, trong động tác tọa thân các
yêu cầu của thế "Hàm hung" từng bước thích ứng, sau một thời gian đ ược bổ
sung hoàn chỉnh dần. Nếu không coi trọng thế "H àm hung" sẽ dễ bị tất gù
lưng và ngực lép, vì vậy nên chú ý để tránh.
Phải chú ý cố định hai x ương quai sanh trung gian gi ữa ngực và vai, luôn
chú ý phương pháp luyện cho các xương sườn nới lỏng, các c ơ ngực chùng
xuống song luôn vươn ra phía trước; về thân pháp, thần tr ên luôn thẳng không
dao động, trọng tâm hạ thấp luôn d ùng thân để duy trì cần bằng toàn cơ thể.
Để có thể phát huy hiệu quả chính xác tác dụng tấn công ph òng thủ của
hai cánh tay và sự biến đổi hư thực thì bàn tay dường như chỉ có quan hệ thực
hư với phần ngực, hai x ương quai sanh chùng l ỏng, ngực hơi thu các cơ ngực
khi hoạt động lên xuống trái phải có thể hỗ trợ nhau bám sát chuyển động
xoay tròn. Động tác càng luyện càng có hiệu quả lớn về sức khỏe v à độ chính
xác, đẩy nhanh kỹ xảo đôi tay. Chi d ưới cùng với thế "Hàm hung" có quan hệ
hỗ trợ như vậy sẽ có sự thống nhất to àn thân khiến đôi chân vừa vững chắc và
linh hoạt.
b- Xương sống:
"Hàm hung" và "bạt bối" quan hệ mật thiết ("bạt bối" có nghĩa l à không
khí triêm sát ở lưng) có "hàm hung" th ì có "bạt bối". "Bạt bối" l à khi ngực

giảm ngậm khí.
Các cơ lưng luôn chùng, nh ững xương cột sống giữa hai xương đòn vai có
thể nâng toàn bộ các cơ trước sau, không chỉ thuần túy hỗ trợ các c ơ phía sau
lưng mà còn có tác dụng bổ trợ cả phần tr ước (đặc biệt đối với khớp thứ 3
xương sống).
Tác dụng của "Hàm hung" là có lợi cho hóa kình còn tác dụng của "Bạt
bối" lại có lợi cho quyển k ình và phóng kình. Trong t ấn công cả hai đều có
quan hệ tương đồng.
Tác dụng của "Bạt bối" trong r èn luyện chủ yếu là độ mở nhỏ của động
tác, nhiều nhất không quá 30
o
, biến động tủy sống của x ương sống có thể là
hoạt động điều tiết từ hình cung trước đến hình cung sau, làm cho m ạng lưới
thần kinh ở lưng có sự rèn luyện tốt. Hơn nữa trong khi vận động đ ã làm cho
cơ bắp bả vai đạt được độ dẻo dai. Tủy sống v à xương sống có khỏe và dồi
dào nó sẽ có lợi ở bốn điểm sau:
1) Có nhiệm vụ hỗ trợ và điều tiết trọng lượng cơ thể;
2) Là cơ sở duy trì mối quan hệ giữa phần l ưng kết hợp cùng các hoạt
động của chân tay con ng ười, biến toàn thân "Nhất động vô hữu bất động".
3) Duy trì tính chính xác c ủa tư thế và động tác, bảo đảm thân đ ược thẳng.
4) Trong quá trình luy ện quan hệ chặt chẽ với to àn phần lưng có tác dụng
khơi động, khiến nội công tới được bàn chân, thông suốt sống lưng, đến từng
ngón tay. Do vậy có thể nói “lực do bối phát” tức cột sống đ ược coi là trụ cột
quan trọng nhất.
Học thuyết kình lực cho là Đốc mạch có huyệt mạnh ở đoạn cuối x ương
cùng trung ương. Huy ệt này men theo đường ở mặt phía sau của cổ. N ơi đây
lại gặp Dụ mạch. Đó l à noi tổng hội tụ của khí huyết. Tạng, phủ, kinh khí đều
thông thương với nhau là nhờ Dụ mạch (Dụ huyệt). Thái cực quyền khai
thông mọi sự bế tắc, rất có tác dụng tốt v à hiển nhiên với các cơ năng tiêu hóa,
hấp thụ và lập ra cái mới, đào thải cái cũ. Có thể điều tiết âm dương.

c- Bụng :
Thái cực quyền luôn yêu cầu phần bụng “Thả lỏng m à tĩnh” đồng thời
cũng phải “Khí trầm đan điền” dc thực hiện thong qua ph ương pháp thở bụng
sâu. “Thả lỏng mà tĩnh” là nguyên tắc luyện Thái cực quyền. Đối với phần
bụng, đây là yêu cầu đặc biệt quan trọng, l à yêu cầu phải có để luyện bụng
cùng với "Khí trầm đan điền". Vận đ ộng thở bụng sâu của Thái cực quyền có
hai dạng hít thở thuận và hít thở ngược, hít thở thuận tr ước khi hít bụng dưới
thu lại, khi thở ra bụng d ưới nhô ra, còn hít thở ngược, khi hít vào bụng dưới
nhô ra, khi thở ra bụng dưới thu lại. Khi bụng d ưới nhô ra tức là "Khí trầm
đan điền" . Do vậy không phải l à tuyệt đối hóa "Khí trầm đan điền" . Một hít
một thở đó chính là sự tiến hành thay thế giữa "Khí trầm đan điền" v à “Khí
bất trầm đan điền”. Có khi áp dụng h ình thức hít thở thuận, cũng có khi áp
dụng hình thức hít thở ngược .
Do Thái cực quyền có tính chất chữa bệnh, nếu hít thở tự nhi ên và đảm
bảo tính chính xác của t ư thế động tác cùng với sự hít tự nhiên đó thì nó cũng
không có hại gì. Song nếu nghiên cứu kỹ hít thở với điều ho à hành động để
nâng cao hiệu quả rèn luyện thì nên áp dụng hít thở thuận hay hít thở ng ược là
tốt nhất.
Hít thở bụng có lợi cho sự hoạt động nội tạng, tăng c ường tính độc lập và
tính dẻo dai của các vách ngăn – khi vận động bụng có khi lỏng có khi căng
(khi căn cụng phải chú ý “Thả lỏ ng”), vận lực lên phần bụng dần dần sẽ rắn
tròn do có tính độc lập và dẻo dai, nên tăng cường khả năng chống lại đ ược
lực bên ngoài tác động.

×