Tải bản đầy đủ (.pdf) (184 trang)

Luận án chính sách đối với người cao tuổi ở việt nam hiện na

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 184 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU............................. 14
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về chính sách đối với người cao tuổi ở
nước ngồi ......................................................................................................... 14
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về chính sách đối với người cao tuổi ở
trong nước ......................................................................................................... 18
1.3. Một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu....................................................... 38
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI
CAO TUỔI ....................................................................................................... 41
2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của người cao tuổi ................................... 41
2.2. Lý thuyết về chính sách đối với người cao tuổi ......................................... 47
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách đối với người cao tuổi ................... 70
2.4. Khung phân tích thực trạng chính sách đối với người cao tuổi ................. 73
Chương 3: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO
TUỔI Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ........................... 82
3.1. Quá trình hình thành và phát triển chính sách đối với người cao tuổi ở
Việt Nam ........................................................................................................... 82
3.2. Khái quát về nội dung chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam............ 96
3.4. Đánh giá thực trạng chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam hiện
nay ................................................................................................................... 122
3.5. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập................................................ 125
Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI
VỚI NGƯỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................... 128
4.1. Phương hướng hồn thiện chính sách đối với người cao tuổi ở Việt
Nam hiện nay .................................................................................................. 128
4.2. Một số giải pháp hồn thiện chính sách đối với người cao tuổi .............. 128
KẾT LUẬN .................................................................................................... 146
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 150
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 166



DANH MỤC VIẾT TẮT
TT

Từ viết tắt

Nội dung

1

BHYT

Bảo hiểm y tế

2

CCSK

Chăm sóc sức khỏe

3

HĐBT

Hội đồng Bộ trưởng

4

NCT


5

TP

Thành phố

6

TW

Trung ương

7

WHO

Người cao tuổi

Tổ chức Y tế thế giới


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tiêu chí phân tích thực trạng chính sách đối với người cao tuổi ..... 78
Bảng 3.1. Mức trợ cấp xã hội hàng tháng đối với người cao tuổi .................. 101
Bảng 3.2. Hiểu biết của người cao tuổi về chính sách đối với người cao tuổi
......................................................................................................................... 104
Bảng 3.3. Mức độ đáp ứng của chính sách trợ cấp xã hội đối với người cao
tuổi ................................................................................................................... 105
Bảng 3.4. Đánh giá chính sách chăm sóc sức khỏe ban đầu của người cao
tuổi .................................................................................................................. 108

Bảng 3.5. Đánh giá về khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế của người
cao tuổi ............................................................................................................ 110
Bảng 3.6. Mức độ tiếp cận thông tin của người cao tuổi ................................ 112
Bảng 3.7. Khảo sát về an tồn tài chính và thu nhập giành cho người cao
tuổi ................................................................................................................... 114
Bảng 3.8. Vấn đề chăm sóc người cao tuổi ở trung tâm chăm sóc người cao
tuổi ................................................................................................................... 115
Bảng 3.9. Khảo sát về vấn đề chăm sóc sức khỏe nói chung giành cho
người cao tuổi .................................................................................................. 116
Bảng 3.10. Khảo sát về vấn đề di chuyển và đi lại của người cao tuổi .......... 117
Bảng 3.11. Khảo sát về vấn đề an toàn cho người cao tuổi ............................ 118
Bảng 3.12. Khảo sát về hồ nhập và đóng góp cho cộng đồng của người
cao tuổi ............................................................................................................ 119
Bảng 3.13. Khảo sát về khả năng tiếp cận dịch vụ và chương trình hỗ trợ
của Chính phủ.................................................................................................. 119


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay, chính
sách đối với người cao tuổi đóng vai trị quan trọng và hết sức cấp thiết góp
phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Tính cấp thiết của đề tài, theo
đó, thể hiện thơng qua thực trạng số lượng người cao tuổi ngày càng tăng lên ở
Việt Nam; tình trạng kinh tế và sức khỏe của đối tượng này cịn thấp và sự bất
cập trong chính sách đối với người cao tuổi hiện nay ở nước ta, cụ thể như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu về chính sách đối với người cao tuổi hiện nay ở Việt
Nam là cần thiết bởi số lượng người cao tuổi trong dân số Việt Nam ngày càng
tăng làm tăng nhu cầu được chăm sóc một cách khá tồn diện. Theo Cuộc tổng
điều tra dân số năm 1979, Việt Nam có 7.07% dân số từ 60 tuổi trở lên, tương
đương với 3.688.137 người (Phạm Bích San, 1985). Đến năm 1989, tỷ lệ người

cao tuổi ở Việt Nam trong tổng dân số tăng nhẹ và chiếm 7,2% dân số; tăng chỉ
khoảng 1.3% so với năm 1979; con số này tiếp tục tăng nhanh vào năm 2008 với
9.9% (Nguyễn Văn Trí, 2011). Như vậy trong vòng 30 năm qua, qua 4 kỳ tổng
điều tra dân số (1979, 1989, 1999, 2009), số lượng và tỷ lệ người cao tuổi ở Việt
Nam chỉ tăng trung bình 0,06% mỗi năm. Nhưng chỉ trong vòng 1 năm, từ
1/4/2009- 1/4/2010, tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đã tăng từ 8,67% lên 9,4%, tỷ
lệ người từ 65 tuổi trở lên tăng từ 6,4% lên 6,8% (Hà Anh, 2012). Năm 2012, tỷ
lệ người cao tuổi chiếm 10,2% tổng dân số cả nước; năm 2014, tỷ lệ này đã tăng
lên 10,5% (Ngân Anh, 2015). Con số này cho thấy, chỉ trong một năm, tỷ lệ
người cao tuổi đã tăng hơn gấp 10 lần so với cả giai đoạn trước đây cộng lại.
Mặt khác, theo kết quả dự báo, đến năm 2020, số lượng người cao tuổi ở
Việt Nam sẽ chiếm 18%, và sẽ là 30% vào năm 2030 (Hồng Sơn, 2012). Khi
đó, nhu cầu chăm sóc người cao tuổi tiếp tục tên lên 20 lần vào năm 2020, rồi
tới 30 lần vào năm 2030. Với những con số này, việc nghiên cứu chính sách
đối với người cao tuổi hiện nay khơng chỉ đáp ứng nhu cầu hiện tại mà cịn
1


góp phần tích cực trong việc định hình chính sách đối với người cao tuổi cho
tương lai. Xét theo nghĩa này, việc nghiên cứu chính sách đối với người cao
tuổi là hết sức cần thiết không chỉ cho hiện tại mà còn là sự chuẩn bị cần thiết
trong tương lai.
Thứ hai, không những tăng nhanh về mặt số lượng, nhu cầu chăm sóc
người cao tuổi cũng gia tăng khi tình trạng kinh tế, sức khỏe của đối tượng
này ở Việt Nam đang ở mức thấp. Về tình trạng kinh tế, theo tổng điều tra
Dân số năm 2009 cho thấy 72,5% người cao tuổi sống ở nông thôn. Trong
số người cao tuổi, chỉ có khoảng 16% - 17% hưởng lương hưu hoặc trợ cấp
mất sức, hơn 10% các cụ hưởng trợ cấp người có cơng với nước (Nguyễn
Đình Cừ, 2014). Như vậy, còn trên 70% người cao tuổi đang sống bằng lao
động của mình, bằng nguồn hỗ trợ của con cháu và gia đình. Trong khi đó, ở

nơng thơn ruộng đất ít, năng suất, thu nhập thấp, ít có tiết kiệm phòng khi
bất trắc. Thực trạng kinh tế này cho thấy mức sống của người cao tuổi khơng
cao. Đến lượt nó, tình trạng kinh tế của người cao tuổi thấp dẫn đến khả
năng hưởng thụ các dịch vụ giáo dục, văn hố, y tế, và đời sống tinh thần
khơng được đảm bảo.
Về tình trạng sức khỏe, theo điều tra quốc gia về người cao tuổi năm
2011 có tới 56% người cao tuổi có sức khỏe yếu và rất yếu; trung bình mỗi
người có 2,7 bệnh (Nguyễn Đình Cừ, 2014).
Thứ ba, tính cấp thiết của đề tài còn bắt nguồn từ sự bất cập trong chính
sách đối với người cao tuổi hiện nay ở nước ta. Tuy nhu cầu chăm sóc người
cao tuổi càng tăng về số lượng và chất lượng nhưng sự chuẩn bị cho một xã
hội có dân số già dường như cịn đơn sơ cả về phương diện chính sách, luật
pháp, cơ sở vật chất, kỹ thuật và tâm lý xã hội.
Mặc dù trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,
chính sách đối với người cao tuổi và hoạt động của Hội người cao tuổi trong
thời kỳ mới và đã được cụ thể hóa, đi vào cuộc sống, khuyến khích sự quan
2


tâm rộng rãi của các tổ chức, cá nhân trong cơng tác chăm sóc và phát huy vai
trị người cao tuổi (Chính phủ, 2015). Thế nhưng, cơng tác người cao tuổi cịn
một số hạn chế. Khơng ít người cao tuổi chưa được khám sức khỏe định kỳ,
chưa lập sổ theo dõi sức khỏe thường xuyên, chưa được ưu tiên khi khám
chữa bệnh tại các cơ sở y tế, chưa được giảm giá vé thăm quan danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa. Một bộ phận người cao tuổi ở nông thôn,
nhất là vùng núi, vùng cao biên giới, vùng xa xôi, hẻo lánh, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số khơng chỉ khó khăn về đời sống mà cịn cả trong khả năng
tiếp cận, thụ hưởng phúc lợi dành cho chính bản thân mình.
Do đó, trong thời gian tới, chính sách đối với người cao tuổi cần được
tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện để người cao tuổi được chăm sóc tốt, khơng

những phát huy tối đa sự đóng góp của họ mà cịn đảm bảo tính hiệu quả thực
chất của hệ thống an sinh xã hội và sự phát triển ổn định, bền vững của đất
nước.
Thứ tư, về mặt lý luận, phần lớn các nghiên cứu về chính sách đối với
người cao tuổi tập trung chủ yếu vào nội dung của chính sách đối với người
cao tuổi. Nói cách khác một số vấn đề lý luận về chính sách đối với người cao
tuổi chưa được các nghiên cứu trước đây đề cập và cần được tiếp tục nghiên
cứu như:
Lý thuyết về các yếu cấu thành chính sách đối với người cao tuổi. Trong
đó có đề cập đến mục tiêu, nội dung, phương pháp và công cụ thực hiện chính
sách.
Lý thuyết các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách đối với người cao tuổi.
Trong đó có mơi trường chính trị, kinh tế-xã hội, năng lực hoạch định và năng
lực thực hiện chính sách đối với người cao tuổi.
Lý thuyết về quy trình chính sách đối với người cao tuổi bao gồm các
bước từ khâu hình thành chính sách đối với người cao tuổi đến khâu cuối
cùng là đánh giá và điều chỉnh chính sách này.
3


Từ những phân tích về số lượng, tình trạng kinh tế và sức khỏe của
người cao tuổi, những hạn chế về chính sách đối với đối tượng này ở trên và
những vấn đề lý luận về chính sách đối với người cao tuổi, cho thấy sự cần
thiết phải có một nghiên cứu về chính sách đối với người cao tuổi, để làm sao
cho chính sách này thực sự phát huy hiệu quả, thực sự đem lại lợi ích thiết
thực cho người cao tuổi, cũng như phát huy được sức mạnh tổng hợp của các
chủ thể có liên quan (bao gồm cả nhà nước và tư nhân) vào công tác chăm sóc
người cao tuổi.
Nói cách khác, đề tài Chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam hiện
nay thật sự là đề tài thiết thực trong bối cảnh hiện nay và tương lai của đất

nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên
Mục đích nghiên cứu của luận án là tìm hiểu thực trạng chính sách đối
với người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay; từ đó, đưa ra những giải pháp để
hồn thiện chính sách đối với người cao tuổi.
Để đạt được mục đích nghiên cứu này, luận án có các nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
Tổng quan các nghiên cứu có liên quan đến chính sách đối với người cao
tuổi trong và ngồi nước.
Hệ thống hố cơ sở lý luận liên quan đến chính sách đối với người cao
tuổi.
Phân tích thực trạng chính sách đối với người cao tuổi hiện nay ở Việt
Nam.
Nghiên cứu và đưa ra mục tiêu, quan điểm và giải pháp hồn thiện chính
sách đối với người cao tuổi.

4


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là chính sách đối với người cao tuổi ở
Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Luận án chỉ nghiên cứu chính sách
đối với người cao tuổi ở hai nội dung chính: (1) Mức độ đáp ứng mong đợi
của chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam và (2) thực trạng nội dung
của chính sách đối với người cao tuổi hiện nay ở Việt Nam.
- Giới hạn về không gian nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành ở một
số địa phương tiêu biểu như Thành phố Hồ Chí Minh, Cà Mau, Tiền Giang,

Bình Định, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Ninh Bình và Hà Nội.
- Giới hạn về thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu về chính sách đối với
người cao tuổi giai đoạn từ sau năm 1945 đến nay và khảo sát số liệu vào năm
2017.
4. Phương pháp và lý thuyết nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, nghĩa duy vật
lịch sử, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm tồn diện, ngun lí về sự phát
triển của chủ nghĩa Mác - Lênin gắn với đối tượng được nghiên cứu - chính
sách đối với người cao tuổi ở nước ta hiện nay.
Để hoàn thành luận án, tác giả còn sử dụng một số phương pháp cụ thể
sau:
Phương pháp phỏng vấn sâu
Để tìm hiểu sâu hơn đánh giá của người cao tuổi đối với chính sách
giành cho họ, tác giả sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu. Đối tượng tham
gia phỏng vấn sâu là những người cao tuổi thuộc diện nhận được nhiều hỗ trợ
theo quy định của Luật người cao tuổi. Tác giả luận án tiến hành lựa chọn mỗi
5


tỉnh 05 người cao tuổi đại diện bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Cà Mau,
Tiền Giang, Bình Định, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Ninh Bình, Hà Nội. Như vậy
tổng cộng là 40 người cao tuổi được mời tham gia phỏng vấn, trong đó có 20
người cao tuổi là nam giới ông và 20 người cao tuổi là nữ giới. Trong đó,
50% người cao tuổi sinh sống ở khu vực nơng thôn và 50% người cao tuổi
sinh sống ở khu vực đơ thị. Mục đích sử dụng phương pháp nghiên cứu này là
chứng minh một phần cho Giả thuyết số 1.
Sau khi xác định được đối tượng khảo sát, luận án tiến hành xây dựng
câu hỏi phỏng vấn sâu, sau đó tiến hành phỏng vấn thử. Trên cơ sở phỏng vấn
thử, tác giả điều chỉnh lại bảng câu hỏi khảo sát cho phù hợp hơn.

Vì số lượng mẫu phỏng vấn chỉ có 40 người cao tuổi, nên tác giả chỉ xử
lý bằng phần mềm Mirosoft Excel. Ở mỗi câu hỏi, tác giả liệt kê hết 20 câu
trả lời và chọn những câu trả lời tiêu biểu, mang tính đại diện để đưa vào nội
dung luận án để phân tích.
Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi
Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi được dùng để khảo sát hai nhóm
đối tượng là người cao tuổi và cán bộ, công chức ở Sở Lao đông-Thương binh
và Xã hội.
Về đối tượng là người cao tuổi, luận án khảo sát 500 người cao tuổi ở 08
tỉnh là Thành phố Hồ Chí Minh, Cà Mau, Tiền Giang, Bình Định, Quảng
Ngãi, Đà Nẵng, Ninh Bình, Hà Nội. Ở mỗi tỉnh, thành phố, tác giả lựa chọn
60 người cao tuổi để tham gia khảo sát, riêng Thành phố Hồ Chí Minh là 80
người. Bao gồm 50% người cao tuổi là nam, 50% người cao tuổi là nữ và
50% người cao tuổi sống ở thành thị, 50% người cao tuổi sống ở nông thôn.
Tổng số phiếu phát ra là 500 phiếu. Số phiếu thu về là 490 phiếu. Số phiếu
hợp lệ là 485 phiếu. Việc khảo sát này dùng để luận giải cho Giả thuyết 1.
Tác giả luận án tiến hành khảo sát đối tượng là cán bộ, công chức đang
công tác tại Sở Lao động-Thương binh và Xã hội của 08 tỉnh là Thành phố
6


Hồ Chí Minh, Cà Mau, Tiền Giang, Bình Định, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Ninh
Bình, Hà Nội. Cụ thể là cán bộ, công chức phụ trách mảng xã hội. Mỗi sở của
các tỉnh (Cà Mau, Tiền Giang, Bình Định, Quảng Ngãi, Ninh Bình), tác giả
lựa chọn 03 thành viên. Mỗi sở của các thành phố trực thuộc Trung ương
(Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Nội), tác giả lựa chọn 05 thành viên.
Tổng số phiếu phát ra là 30 phiếu. Số phiếu thu về là 30 phiếu. Số phiếu hợp
lệ là 30 phiếu. Việc khảo sát này dùng để luận giải cho Giả thuyết 2.
Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp
Ở phương pháp này, tác giả tập trung thu thập số liệu thứ cấp từ các

nghiên cứu có sẵn, các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước và các báo
cáo về người cao tuổi trong và ngoài nước giành cho Việt Nam.
Phương pháp tiếp cận đa ngành
Trả lời câu hỏi tính liên ngành trong sự phát triển của khoa học hiện đại
có nhiều cách giải nghĩa nhưng về đại thể nó được hiểu là sự tích hợp, thâm
nhập giữa các ngành (hoặc phương pháp) khoa học ở các lĩnh vực khác nhau
trong nghiên cứu. Vì vậy về bản chất đó là sự thay đổi cách nhìn đối tượng
từ chỗ chỉ xuất phát từ một hệ quy chiếu sang hệ phức hợp. Ở phương pháp
này, tác giả tập trung vào các ngành chính sách cơng, nhà nước, pháp luật, xã
hội học và văn hóa học.
4.2. Câu hỏi nghiên cứu
Nhận thức được thực trạng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi
ngày càng tăng, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương và chính sách
bước đầu mang lại hiệu quả thiết thực. Luật người cao tuổi có hiệu lực vào năm
2010 khơng những tạo ra hành lang pháp lý mà còn thể hiện sự quyết tâm của
Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện chính sách đối với người cao tuổi ở
Việt Nam. Sau đó, Chính phủ ban hành Chương trình hành động quốc gia về
người cao tuổi giai đoạn (2012 - 2020). Ngoài ra, cịn có hàng loạt chương
trình như: Chương trình mắt sáng cho người cao tuổi; trợ cấp xã hội hàng
7


tháng; các chương trình rèn luyện sức khỏe dành cho người cao tuổi. Mặt khác,
Nhà nước còn xây dựng hành lang pháp lý để thu hút sự tham gia của xã hội
vào hoạt động chăm sóc người cao tuổi. Nhiều trung tâm, mái ấm tự nguyện
được hình thành đã chia sẻ sự chăm sóc người cao tuổi với Nhà nước.
Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn chưa như mong đợi. Số người cao tuổi
lang thang cơ nhỡ, bị bạo hành, bệnh tật và khó khăn về kinh tế vẫn cịn
nhiều. Khả năng tiếp cận các dịch vụ quan trọng như y tế, văn hố cịn thấp.
Có nhiều ngun nhân dẫn đến hạn chế này. Có thể kể ra như: cơ chế chính

sách tuy có nhưng chưa phản ánh được nhu cầu chăm sóc người cao tuổi của
xã hội, hoặc cịn khó khăn cho việc tham gia cung ứng dịch vụ chăm sóc sức
khỏe của các chủ thể thuộc khu vực tư nhân; ngân sách Nhà nước hạn hẹp; sự
thay đổi về văn hoá dẫn đến sự thay đổi về cấu trúc gia đình làm giảm vai trị
của gia đình trong việc chăm sóc người cao tuổi, tăng sức ép cho xã hội.
Những nguyên nhân này đã đang và sẽ đặt ra thách thức cho chính sách đối
với người cao tuổi hiện nay.
Theo đó, câu hỏi nghiên cứu chung được đặt ra ở đây là Cần có giải
pháp nào để chính sách đối với người cao tuổi đáp ứng được nhu cầu của
người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay?”
Trên cơ sở câu hỏi nghiên cứu chung này, tác giả luận án đưa ra một số
câu hỏi nghiên cứu cụ thể, gồm:
(1) Chính sách đối với người cao tuổi hiện nay đã đáp ứng được mong
đợi của người cao tuổi hay chưa?
(2) Chính sách đối với người cao tuổi hiện nay đã được hoàn chỉnh về
mặt nội dung hay chưa?
4.3. Giả thuyết nghiên cứu
Từ những câu hỏi nghiên cứu trên, tác giả đưa ra các giả thuyết nghiên
cứu sau:

8


Giả thuyết 1. Chính sách đối với người cao tuổi chưa đáp ứng được
mong đợi của người cao tuổi.
Giải thuyết 2. Chính sách đối với người cao tuổi hiện nay còn nhiều hạn
chế về nội dung.
4.4. Lý thuyết nghiên cứu
Để có thể trả lời cho câu hỏi Làm thế nào để có một chính sách đối với
người cao tuổi đáp ứng được nhu cầu của người cao tuổi trong xã hội?”, tác

giả dựa vào hai lý thuyết quan trọng trong khoa học về chính sách. Đó là lý
thuyết về cộng đồng chính sách và lý thuyết chính sách dựa trên bằng chứng.
4.4.1. Lý thuyết về cộng đồng chính sách
Chính sách công là công cụ quan trọng trong quản lý nhà nước. Tuy
nhiên có nhiều khái niệm khác nhau về chính sách cơng tuỳ theo cách tiếp
cận. Theo Ngơ Hồi Sơn [70, tr.11-16], có ba cách tiếp cận về chính sách
cơng. Đó là tiếp cận chính sách từ góc độ đối tượng tham gia vào quy trình
chính sách; tiếp cận chính sách từ góc độ lựa chọn mục tiêu; và tiếp cận chính
sách từ quy trình chính sách.
Ba cách tiếp cận này đều hữu ích trong nghiên cứu về chính sách cơng.
Tuy nhiên, cách tiếp cận từ góc độ tham gia vào quy trình chính sách thường
được các nhà nghiên cứu về chính sách sử dụng. Theo cách tiếp cận này chính
sách cơng là một phương tiện để xem xét trật tự đang hiện hữu và cách thức
để tham gia, can thiệp vào trật tự đang hiện hữu đó [70, tr.11]. Nói cách
khác, chính sách cơng dùng để huy động sự tham gia của các chủ thể vào
chính sách để thay đổi hiện thực cũ bằng một hiện thực mới theo mong muốn
của các chủ thể. Kết quả cuối cùng mà chính sách tạo ra là một hiện thực mới
và hiện thực mới này là kết quả của quá trình tương tác giữa các chủ thể. Các
chủ thể tương tác với nhau xoay quanh một chính sách và được gọi là cộng
đồng chính sách [70, tr.44]. Học giả Homeshaw thì cho rằng trong các cách
tiếp cận chính sách, cách tiếp cận cộng đồng chính sách là một cơng cụ hữu
9


ích để tìm hiểu chức năng của một chính sách cả trong khu vực công và khu
vực tư. Bằng cách xác định ai là người bị giới hạn trong việc tác động đến
chính sách, sẽ biết được sự vận chuyển của từng cá nhân, các nguồn lực và
các ý tưởng trong cộng đồng chính sách [70. tr.44].
Có nhiều cách phân loại cộng đồng chính sách. Trong đó cách phân loại
đơn giản và phổ biến là cách phân loại của Sapru (135, pg.93-106). Theo cách

phân loại này, cộng đồng chính sách gồm: các cá nhân trong xã hội, giới
truyền thông, các nhóm lợi ích và đảng chính trị. Các cá nhân trong xã hội có
quan tâm đến chính sách và tham gia tương tác với nhau trong chính sách đều
trở thành một bộ phận của cộng đồng chính sách. Giới truyền thơng bao gồm
truyền hình, đài phát thanh, báo chí, v.v. Những chủ thể này giữ vai trò điều
phối các dòng thơng tin trong suốt q trình chính sách. Nhóm áp lực hay cịn
gọi là nhóm lợi ích bằng sức mạnh về tổ chức, tiềm lực về tài chính và đội
ngũ chun gia có thể tham gia vào chính sách để lồng ghép các mục tiêu
hoạt động của nhóm vào chính sách. Đảng chính trị tham gia với tư cách là
người đưa ra những đường lối, chủ trương để dẫn dắt chính sách. Ngồi ra,
đảng chính trị cũng tham gia tích cực vào q trình thực thi chính sách.
Nói tóm lại, lý thuyết cộng đồng chính sách dùng đề phân tích xem trong
chính sách đối với người cao tuổi có những loại cộng đồng nào; những cộng
đồng này tương tác với nhau ra sao để hình thành nên chính sách đối với
người cao tuổi cũng như hiệu quả, chất lượng của chính sách đối với người
cao tuổi ở Việt Nam. Trong những cộng đồng đó, cộng đồng nào có tiếng nói
chi phối trong q trình hoạch định và thực thi chính sách đối với người cao
tuổi. Những cộng đồng nào yếu thế và có ít tiếng nói nhất trong chính sách
đối với người cao tuổi. Người cao tuổi, một bộ phận của cộng đồng chính
sách đối với người cao tuổi có tiếng nói như thế nào trong q trình thực thi
và hoạch định chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam. Việc nghiên cứu
các cộng đồng trong chính sách đối với người cao tuổi giúp hiểu rõ hơn bản
10


chất của q trình hoạch định và thi hành chính sách này, nhằm làm cho nó
tốt hơn.
Tác giả chính của lý thuyết này là Homeshaw (1995), Pross (1992), Bell
(1992), Wilks & Wright (2004), Atkinson & Coleman (1993) và Sapru
(2004).

4.4.2. Lý thuyết chính sách dựa trên bằng chứng
Chính sách cơng dựa trên bằng chứng là những chính sách được ban
hành trên cơ sở những bằng chứng có sẵn và sự phân tích hợp lý. Lý thuyết
dựa trên bằng chứng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các bằng chứng
trong hoạt động hoạch định và ban hành chính sách cơng. Bởi lẽ bằng chứng
và chất lượng của bằng chứng giúp tạo ra một chính sách tốt.
Tác giả ứng dụng lý thuyết này vào chính sách đối với người cao tuổi để
xem xét xem liệu chính sách này ở Việt Nam được ban hành có dựa trên bằng
chứng hay khơng, nếu có thì chất lượng của bằng chứng đó thể hiện ở mức độ
như thế nào. Nói cách khác, việc vận dụng lý thuyết này nhằm tìm hiểu việc
khảo sát, sử dụng các số liệu thống kê ở Việt Nam phục vụ cho hoạt động ban
hành và thực thi chính sách đối với người cao tuổi. Để từ đó đưa ra những
khuyến nghị trực tiếp cho q trình hoạch định chính sách người cao tuổi.
Lý thuyết này xuất hiện đầu tiên trong lĩnh vực y khoa vào những năm
1980, được tác giả Archibald Cochrane đề cập đầu tiên trong tác phẩm
Effectiveness and Efficiency: Random Reflections on Health Services” (Hiệu
quả và hiệu lực: Sự phản ánh ngẫu nhiên trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe).
Sau đó 4 năm, Văn phịng đánh giá cơng nghệ của Mỹ đã ủng hộ lý thuyết
này và ứng dụng lý thuyết dựa vào bằng chứng vào trong việc xem xét và
thơng qua chính sách. Tiếp theo đó là các nghiên cứu của Martinson (1980)
về lý thuyết chính sách dựa trên bằng chứng. Một số tác giả chính nghiên cứu
về lý thuyết dựa trên bằng chứng bao gồm: Hovland, (2005); Bullock,

11


Mountfordvà Stanley (2001); Davies (2004); Ehrenberg (1999);Hornby và
Perera (2002).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án có những đóng góp về mặt khoa học như sau:

Trước hết luận án mang lại một cái nhìn tổng quan về các nghiên cứu về
chính sách đối với người cao tuổi làm cho vấn đề người cao tuổi trở thành hệ
thống, từ đó giúp nhìn ra những lỗ hổng cần tiếp tục trong nghiên cứu.
Ngoài ra, luận án này lần đầu tiên đưa ra được tổng quát quá trình lịch sử
phát triển chính sách đối với người cao tuổi từ năm 1945 đến nay, giúp nhận
diện được quá trình phát triển của chính sách này.
Luận án cịn đóng góp vào việc hình thành lý thuyết về chính sách đối
với người cao tuổi, trong đó đặc biệt là khung lý thuyết phân tích thực trạng
chính sách đối với người cao tuổi.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Việc nghiên cứu chính sách đối với người cao tuổi hiện nay ở nước ta có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Về mặt lý luận, luận án vận dụng lý thuyết về chính sách cơng để áp
dụng vào một lĩnh vực chính sách cụ thể là chính sách đối với người cao tuổi
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, lý thuyết về chính sách cơng
được bổ sung và được nghiên cứu ở một góc độ chính sách cụ thể, nói cách
khác luận án này, về mặt lý luận, góp phần làm phong phú thêm lý thuyết về
chính sách cơng vốn cịn non trẻ ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, luận án góp phần đánh giá thực trạng chính sách đối
với người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay. Từ đó giúp cho cơ quan quản lý nhà
nước, chủ thể hoạch định chính sách đối với người cao tuổi nhận diện rõ nét
hơn thực trạng của chính sách này và có những điều chỉnh phủ hợp về mặt
chính sách. Bên cạnh đó, những khuyến nghị mà luận án đưa ra cũng là
những đóng góp có ý nghĩa về mặt chính sách. Ngồi ra, luận án cịn có thể sử
12


dụng như một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc giảng dạy chun ngành
chính sách cơng, và quản lý công ở cả bậc đại học và thạc sĩ ở nhiều trường
đại học trên cả nước.

7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 4 chương.
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Cơ sở lý luận về chính sách đối với người cao tuổi
Chương 3. Thực trạng chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Chương 4. Một số giải pháp hồn thiện chính sách đối với người cao tuổi
ở Việt Nam hiện nay.

13


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về chính sách đối với người
cao tuổi ở nước ngồi
Chính sách đối với người cao tuổi là một trong những chính sách quan
trọng trong hệ thống chính sách xã hội, là chủ đề được quan tâm nghiên cứu
của các nhà khoa học trên thế giới. Các nhà nghiên cứu trên thế giới tập trung
vào việc nghiên cứu và tìm hiểu để nâng cao hiệu quả của chính sách đối với
người cao tuổi.
1.1.1. Nhóm nghiên cứu về chính sách đối với người cao tuổi ở một số
nước
Paul và Sheila (2013) nghiên cứu về chính sách đối với người cao tuổi ở
Tây Phi để làm rõ thực trạng chính sách ở khu vực này, từ đó có biện pháp
nâng cao chính sách đối với người cao tuổi ở những nước này. Hai tác giả này
nhận định rằng, người cao tuổi ở khu vực nơng thơn chịu nhiều thiệt thịi hơn;
trong số người cao tuổi, đa phần là nữ giới; trình độ học vấn của người cao
tuổi thấp và khơng có nguồn thu nhập đảm bảo cho cuộc sống. Cho nên
khuyến nghị chính sách cho các nước ở khu vực này là đảm bảo mức thu nhập

cơ bản cho công dân từ 60 tuổi trở lên để đảm bảo họ có nguồn thu ổn định
nhằm nâng cao chất lượng sống của họ.
Cũng về chính sách người cao tuổi nhưng tác giả Narknisorn và
Kusakabe (2013) lựa chọn Thái Lan làm không gian nghiên cứu. Hai tác giả
này cho thấy chính sách đối với người cao tuổi ở Thái Lan được xây dựng
theo quy trình từ trên xuống nên đã bỏ qua những đặc thù về gia đình, người
cao tuổi cũng như nhu cầu của người cao tuổi. Chính vì vậy, tác giả cho rằng
cần thiết phải điều chỉnh lại quy trình ban hành chính sách để làm cho chính

14


sách phản ánh tốt hơn, thực hơn nhu cầu thực tế của người cao tuổi, cấu trúc
gia đình và khoảng cách giữa các thế hệ.
Ở một số nước Châu Âu mà Phần Lan, Ireland là điển hình, câu chuyện
chính sách đối với người cao tuổi lại xoay quanh vấn đề việc làm của người
cao tuổi (Ilmakunnas & Takala, 2005). Thực tế cho thấy, tỷ lệ việc làm ở
người cao tuổi giảm do các chương trình phúc lợi cho người cao tuổi như
chương trình về hưu sớm và sự cạnh tranh từ nguồn lao động nhập cư. Điều
này càng làm khó khăn hơn cho chính sách đối với người cao tuổi ở Phần Lan
khi cố tìm cách nâng cao tỷ lệ việc làm ở người cao tuổi do dân số của nước
này ngày càng già.
Ireland cũng là một quốc gia có chính sách phúc lợi dành cho người cao
tuổi tốt và đầy đủ. Hệ thống phúc lợi ở quốc gia này bao gồm 3 cấp độ
(Vaughan, 1998). Cấp độ 1 là phúc lợi xã hội bao gồm bảo hiểm xã hội và hỗ
trợ xã hội. Cấp độ 2 là các chế độ trợ cấp nghề nghiệp do người sử dụng lao
động đóng góp. Cấp độ 3 là các chương trình hỗ trợ, trợ cấp khác từ xã hội.
Ba cấp độ phúc lợi này không tách rời nhau mà cùng tồn tại bổ sung cho
nhau. Nghiên cứu cho rằng, trong ba cấp độ này nên đề cao và hoàn thiện cấp
độ 1, bởi lẽ nhà nước nên đóng vai trị chủ đạo trong bảo trợ xã hội đối với

người cao tuổi.
Ở Trung Quốc, tác giả Zhuqing (2012) tập trung nghiên cứu quyền lợi và
mong đợi của người lớn tuổi ở Trung Quốc. Cùng với tình trạng già hố về
dân số là chất lượng sống ở người cao tuổi còn thấp. Người cao tuổi ở Trung
Quốc rơi vào tình trạng thiếu thức ăn, thiếu thốn về dịch vụ y tế, giáo dục và
các cơ hội trong đời sống chính trị, xã hội. Người cao tuổi thường thiếu thốn
nơi ở và sống phụ thuộc vào con cháu. Nói cách khác chất lượng cuộc sống
cuối đời của họ phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống chăm sóc trong gia đình.
Thực tế này cho thấy Chính phủ Trung Quốc cần thực hiện nhiều giải pháp

15


kịp thời và hiệu quả. Tác giả đưa ra một số giải pháp quan trọng. Thứ nhất là
mở rộng độ bao phủ của trợ cấp người cao tuổi và đảm bảo rằng tất cả người
cao tuổi đều có thể nhận được mức trợ cấp tối thiểu. Thứ hai, ban hành luật về
chống bạo hành người cao tuổi và xâm phạm tài sản của họ. Thứ ba, tăng
cường hệ thống bảo hiểm y tế và dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản. Thứ tư, tạo cơ
hội việc làm cho người cao tuổi đối với những người cịn có nhu cầu làm việc.
Thứ năm, phát huy vai trò của người cao tuổi trong việc tham gia vào quy
trình chính sách ở các cấp, thơng qua việc phát huy vai trị của hiệp hội người
cao tuổi. Thứ sáu, tiếp tục phát triển các hình thức giáo dục suốt đời để giúp
người cao tuổi có được chất lượng đời sống tinh thần phong phú. Thứ bảy, đa
dạng hố các kênh chăm sóc người cao tuổi. Thứ tám, giảm tình trạng lạm
dụng và phân biệt đối xử với người cao tuổi để bảo vệ nhân phẩm cho họ.
Những biện pháp mà tác giả đưa ra tương đối toàn diện để đảm bảo chất
lượng sống của người cao tuổi được nâng cao. Những giải pháp này là những
kinh nghiệm quý báu cho việc nghiên cứu chính sách đối với người cao tuổi ở
Việt Nam.
Các nghiên cứu ở nước ngồi về chính sách đối với người cao tuổi phần

lớn nhấn mạnh đến các nội dung cụ thể của chính sách này mà khơng đề cập
đến chính sách đối với người cao tuổi dưới góc độ quy trình chính sách đối
với người cao tuổi.
1.1.2. Nhóm nghiên cứu về khía cạnh tâm lý và nhân cách của người
cao tuổi
Không chỉ dừng lại ở việc Nhà nước nên và khơng nên làm gì cho người
cao tuổi, Agich (2010) tiếp cận người cao tuổi từ góc độ nhân phẩm. Tác giả
cho rằng, chính sách đối với người cao tuổi cần phải quan tâm đến nhân phẩm
của đối tượng này. Qua nghiên cứu, tác giả cho thấy vấn đề đảm bảo về nhân
phẩm trong các chính sách đối với người cao tuổi không được đảm bảo và

16


chưa được hiểu một cách đúng đắn, phù hợp. Cách tiếp cận của tác giả mang
đậm tính nhân văn và có nhiều điểm mới cần lưu ý tiếp thu khi nghiên cứu
chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam.
Cùng chủ đề nghiên cứu Tadd vàBayer (2006) sau khi đưa ra khái niệm
về nhân phẩm, nghiên cứu về vấn đề nhân phẩm người cao tuổi trong hoạt
động chăm sóc sức khỏe người cao tuổi ở một số nước tại châu Âu. Tác giả
đưa ra thực tế rằng mặc dù thuật ngữ nhân phẩm đã xuất hiện trong chính
sách và các văn bản của nhà nước nhưng thường không được định nghĩa một
cách rõ ràng mặc dù theo khảo sát, người cao tuổi ở một số nước châu Âu đều
cho rằng đây là một vấn đề họ hết sức quan tâm và quan trọng đối với họ.
Đóng góp của tác giả là đưa ra những gợi ý về các khía cạnh của nhân phẩm
nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách đối với người cao tuổi hiểu và đưa
vào chính sách cho phù hợp với mong đợi của người cao tuổi và xã hội. Theo
đó, các trung tâm chăm sóc người cao tuổi cần quan tâm nhiều hơn tới vấn đề
giao tiếp, sự riêng tư, sự khác biệt cá nhân và cảm giác dễ bị tổn thương ở
người cao tuổi. Vấn đề nhân phẩm ở người cao tuổi cần được chuyển hoá

thành các khoá đào tạo bài bản giành cho những người hoạt động trong lĩnh
vực chăm sóc người cao tuổi. Về lâu dài, chính sách đối với người cao tuổi
cần tập trung vào quyền của người cao tuổi.
Stratton và Tadd (2005) cũng đề cập đến vấn đề nhân cách của người
cao tuổi nhưng không đưa ra các gợi ý về mặt chính sách mà chỉ tập trung tìm
hiểu nhìn nhận và hiểu biết của xã hội về vấn đề nhân cách của người cao tuổi
ở một số nước như Anh, Ireland, Tây Ban Nha, Pháp, Slovakia và Thuỵ Sỹ.
Xã hội đang mất dần đi những giá trị truyền thống khi nhìn nhận về người cao
tuổi. Xã hội cho rằng người cao tuổi khơng khác gì trẻ con. Họ là nhóm người
dư thừa và làm liên luỵ những người trẻ. Và họ thường được cho rằng là đối
tượng dễ tổn thương và nạn nhân của hành vi bài xích trong xã hội. Gia đình

17


lại có cái nhìn khác về nhân phẩm của người cao tuổi. Việc chăm sóc người
cao tuổi là cơng việc hết sức khó khăn, có thể dẫn đến căng thẳng, có thể tạo
nên áp lực về kinh tế và sức khỏe. Những gánh nặng này thường rơi vào vai
người phụ nữ trong gia đình vì họ thường là đối tượng chịu trách nhiệm chăm
sóc người cao tuổi trong gia đình. Về hệ thống chăm sóc sức khỏe, khơng
những đối diện với sự quá tải và yếu kém về cơ sở vật chất, người cao tuổi
cịn thường cảm thấy cơ lập ở các nhà dưỡng lão. Nhân viên ở những trung
tâm, nhà dưỡng lão và chăm sóc người cao tuổi thường ít được đào tạo bài
bản và họ thường đối xử người cao tuổi như đối xử với trẻ em. Chính những
điều này ở các trung tâm chăm sóc người cao tuổi và viện dưỡng lão đã ảnh
hưởng đến nhân phẩm của người cao tuổi.
Tất cả các đối tượng tham gia trả lời khảo sát đều thống nhất rằng người
cao tuổi là đối tượng dễ bị tổn thương do họ dễ dàng mất đi tiền bạc, sức
khỏe, năng lượng, nhan sắc và các cơ hội. Chính vì vậy, cần giúp cho họ trở
thành một bộ phận thật sự sống động và có ý nghĩa trong xã hội để họ được

hữu ích và tơn trọng, được đảm bảo về mặt nhân phẩm.
Tóm lại, chính sách đối với người cao tuổi là chủ đề quan trọng và nhận
được nhiều nghiên cứu của các tác giả trên thế giới. Dựa trên yêu cầu, cách
tiếp cận của luận án đặt ra và vì giới hạn nhất định về dung lượng, tác giả
nhận thấy hai chủ đề trên là hai chủ đề quan trọng để tổng thuật.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về chính sách đối với người
cao tuổi ở trong nước
Xuất phát từ vai trị quan trọng của người cao tuổi và chính sách đối với
người cao tuổi, vấn đề chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam nhận được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.

18


Có nhiều nghiên cứu về người cao tuổi và chính sách đối với người cao
tuổi ở trong nước. Các nghiên cứu này tập trung vào một số nội dung quan
trọng như mô tả về người cao tuổi, bao gồm: (1) khái niệm, phân loại và đặc
điểm của người cao tuổi; (2) chất lượng sống và nhu cầu chăm sóc sức khỏe
của người cao tuổi; (3) nghiên cứu về người cao tuổi trong mối quan hệ với
gia đình; (4) nghiên cứu về chăm sóc người cao tuổi và nghiên cứu về chính
sách đối với người cao tuổi. Trên thực tế, có những nghiên cứu đề cập đến
đồng thời những nội dung vừa nêu, nhưng trọng tâm có thể nghiêng về một
trong những nội dung trên. Cho nên sự phân chia của luận án trong quá trình
tổng thuật tài liệu chỉ mang tính tương đối để vừa làm nổi bật những nội dung
của các nghiên cứu đã có về lĩnh vực chăm sóc người cao tuổi vừa đảm bảo
tính sát hợp với yêu, mục tiêu nghiên cứu.
1.2.1. Nhóm các nghiên cứu mang tính mơ tả về người cao tuổi
Đa phần những nghiên cứu này tập trung vào trình bày khái niệm, đặc
điểm, các giai đoạn phát triển và vai trò của người cao tuổi.
Một trong những nội dung được đề cập đến nhiều là đặc điểm của người

cao tuổi. Đặc điểm của người cao tuổi được tiếp cận trên hai khía cạnh: khía
cạnh sinh học và khía cạnh tâm lý. Về khía cạnh sinh học, người cao tuổi có
những đặc điểm như tuổi cao, sức khỏe yếu, mất sức lao động (Bế Quỳnh
Nga, 2005). Những đặc điểm này tuy phản ánh được một số khía cạnh quan
trọng về mặt sinh học của người cao tuổi, nhưng vẫn còn chung chung, chưa
cụ thể, chưa giúp phân định được với những nhóm mất sức lao động và sức
khỏe yếu khác trong xã hội.
Cục bảo trợ xã hội (2012) đưa ra các đặc điểm sinh học một cách chi tiết
hơn. Trước hết, người cao tuổi phải gắn với q trình lão hố dẫn đến thay đổi
về diện mạo và khả năng vận hành của các cơ quan trong cơ thể [22, tr.8-9].
Về tình trạng sức khỏe, người cao tuổi thường có những căn bệnh đặc thù của
19


tuổi cao như tim mạch, huyết áp, xương khớp, hô hấp, răng miệng và tiêu hoá
[22, tr. 9-10]. Đặc điểm sinh học do Cục bảo trợ xã hội đưa ra đảm bảo mức
độ chi tiết, rất hữu ích trong việc phân biệt đối tượng người cao tuổi với các
đối tượng thuộc các nhóm tuổi khác trong xã hội.
Tài liệu đào tạo của Cục bảo trợ xã hội [22, tr. 9-10] cũng trình bày một
cách vừa khái quát, vừa chi tiết như hướng về quá khứ, dễ chuyển từ trạng
thái tích cực sang trạng thái tiêu cực, dễ rơi vào cảm giác cơ đơn và cần được
quan tâm chăm sóc nhiều hơn, dễ cảm thấy bất lực và tủi thân, nói nhiều hoặc
trầm cảm và sợ phải đối mặt với cái chết. Do những thay đổi về tâm lý mà
người cao tuổi thường dễ thay đổi tính nết.
Ngồi ra, nghiên cứu của Cục Bảo trợ xã hội còn nghiên cứu tập trung
làm rõ giai đoạn chủ yếu của người cao tuổi. Cục Bảo trợ xã hội [22, tr. 1214] cho rằng người cao tuổi trải qua bốn giai đoạn như sau: Giai đoạn đầu bắt
đầu từ năm 60 tuổi đến 69 tuổi. Giai đoạn giữa từ 70 đến 79 tuổi. Giai đoạn
gần cuối từ 80 đến 90 tuổi và giai đoạn cuối của người cao tuổi trên 90 tuổi. Ở
mỗi giai đoạn, người cao tuổi có những hạn chế về mặt sức khỏe và thay đổi
về mặt tâm lý. Các phân chia này đảm bảo mức độ chi tiết, tuy nhiên có biểu

hiện manh mún và chưa khoanh biệt được đặc điểm của từng giai đoạn.
Điều kiện y tế được cải thiện, chất lượng sống của người dân được nâng cao,
sức khỏe của người cao tuổi được cải thiện đáng kể, cho nên tình hình sinh lý
và tâm lý của người cao tuổi cũng khác trước và khác nhau rõ rệt. Có những
nhóm mặc dù trên 70 tuổi nhưng vẫn cịn khỏe mạnh và tham gia các hoạt
động lao động sản xuất. Thế nhưng, có những nhóm ngược lại. Do đó, cách
phân chia này chỉ quan tâm đến tính cơ học của các nhóm mà chưa quan
tâm đến đặc điểm sức khỏe và tâm lý của nhóm.
Về vai trị của người cao tuổi, nghiên cứu của Cục Bảo trợ [22, tr.14-15]
cho thấy người cao tuổi có những vai trị cơ bản như tham gia hoạt động quản

20


lý nhà nước ở cơ sở, tuyên truyền truyền thống tinh thần yêu nước đến các thế
hệ sau; tham gia xây dựng bảo tồn văn hoá, các giá trị truyền thống ở địa
phương; tham gia nghiên cứu phát triển giáo dục, khoa học cơng nghệ; và
thậm chí là tham gia phát triển kinh tế, xố đói giảm nghèo. Theo cách tiếp
cận này, người cao tuổi có đóng góp trên mọi mặt của đời sống chính trị, kinh
tế và xã hội. Trên thực tế người cao tuổi cũng là một nguồn lực của xã hội.
Đây là cách tiếp cận phù hợp với khuynh hướng về người cao tuổi hiện nay.
Cùng chủ đề tác giả Lê Văn Khảm (2014) trình bày thực trạng người cao
tuổi ở Việt Nam để từ đó đề xuất những giải pháp đảm bảo chất lượng sống
của nhóm đối tượng này. Tuổi thọ người Việt Nam ngày càng cao và tỷ lệ dân
số già đang tăng nhanh; điều đó phản ánh thành tựu phát triển về kinh tế, xã
hội, y tế và công tác dân số. Để đảm bảo chất lượng cuộc sống, phát huy được
tri thức, kinh nghiệm và nguồn lực của người cao tuổi, cần nhận diện những
thách thức đối với cộng đồng người cao tuổi, làm cơ sở cho việc đưa ra các giải
pháp thích hợp. Thực tế cho thấy, một bộ phận người cao tuổi đang đối mặt với
khó khăn về thu nhập, những thay đổi về cấu trúc gia đình và các quan hệ xã

hội, đặc biệt là những nguy cơ bất lợi về sức khỏe. Thực tế này địi hỏi gia
đình, cộng đồng, Nhà nước cần quan tâm hỗ trợ người cao tuổi về kinh tế, xã
hội, chăm sóc sức khỏe và thực hiện chính sách an sinh xã hội. Đây là nghiên
cứu có chất lượng và khái qt về tình hình người cao tuổi ở Việt Nam, tuy
nhiên giải pháp và kiến nghị chỉ dừng lại ở mức độ gợi ý, khái quát.
1.2.2. Nhóm các nghiên cứu về chất lượng sống và nhu cầu chăm sóc
của người cao tuổi
Tiếp cận từ nhu cầu chăm sóc hàng ngày của người cao tuổi có nghiên
cứu

Elderly care in daily living in rural Vietnam: Need and its

socioeconomic determinants của Lindholm và cộng sự (2011). Trên cơ sở
xem xét nhu cầu và các yếu tố kinh tế tác động đến nhu cầu chăm sóc hàng

21


ngày của người cao tuổi ở nông thôn Việt Nam, nhóm tác giả đã đưa ra nhiều
khuyến nghị rất quan trọng về chính sách. Bài báo là kết quả nghiên cứu vào
năm 2007 ở người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên được lựa chọn ngẫu nhiên để
phỏng vấn. Ngoài ra tác giả sử dụng phân tích đa biến để xác định các yếu tố
kinh tế - xã hội tác động đến nhu cầu chăm sóc hàng ngày ở người cao tuổi.
Nhu cầu chăm sóc hàng ngày của người cao tuổi được chia thành ba mức độ:
mức cơ bản (mức 1) gồm: ăn, uống, tắm, sử dụng nhà vệ sinh, di chuyển lên
giường và từ giường tới ghế, mặc đồ; mức sinh hoạt (mức 2) bao gồm: đi mua
sắm, nấu ăn, quét nhà; mức tư duy (mức 3) như viết, đọc, xem ti vi và nghe
đài. Kết quả khảo sát cho thấy nhu cầu chăm sóc hàng ngày ở người cao tuổi
chủ yếu tập trung ở mức 2 và 3. Người thực hiện các hoạt động hỗ trợ hàng
ngày chủ yếu là cháu, chắt chứ khơng phải là vợ/chồng. Có nhiều yếu tố kinh

tế - xã hội tác động tỷ lệ nghịch đến nhu cầu chăm sóc hàng ngày của người
cao tuổi đó là: độ tuổi ở những người cao tuổi, tình trạng học vấn, tình trạng
hơn nhân, sống một mình, chủ hộ, sống ở vùng núi hoặc đồng bằng. Những
yếu tố vừa nêu càng tốt, nhu cầu chăm sóc hàng ngày càng thấp, và ngược lại.
Nghiên cứu này đã cung cấp kết quả nghiên cứu chi tiết về nhu cầu chăm
sóc người cao tuổi ở nơng thơn Việt Nam, rất có ích cho việc đưa ra chính
sách hỗ trợ phù hợp. Thế nhưng, hạn chế của nghiên cứu này là không bao
gồm người cao tuổi khuyết tật. Đồng thời, việc sử dụng phương pháp phỏng
vấn sâu có thể gây khó khăn trong việc thu thập thơng tin do những người cao
tuổi có thể hiểu khác nhau ở cùng một câu hỏi. Các khuyến nghị của nghiên
cứu cũng chưa rõ ràng và cụ thể để có thể giúp cho chính sách đối với người
cao tuổi ở Việt Nam tốt hơn.
Cùng hướng đến đối tượng là người cao tuổi ở nông thôn, nhưng Ninh
Thị Hà và cộng sự (2014) chỉ tập trung vào những người cao tuổi ở nông thôn
bị huyết áp cao trong nghiên cứu “Quality of life among people living with

22


×