Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN MÔN: LUẬT KINH TẾ QUỐC TẾ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ HOÀN THIỆN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TẠI VIỆT Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.08 KB, 26 trang )

viện Đại học mở Hà Nội
khoa luật
--- o0o ---

TIỂU LUẬN
MÔN: LUẬT KINH TẾ QUỐC TẾ
Đề tài:

HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ HOÀN THIỆN
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TẠI VIỆT Nam

Họ và tên

: NGUYỄN VĂN GIỚI

Líp

: LUẬT KINH TẾ - K3B

SBD

: 50

Năm Sinh

: 26/10/1959

HÀ TÂY – 2007


LỜI NĨI ĐẦU


Đứng dưới góc độ phân tích kinh tế, thì vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế
rất rộng và phức tạp. Hội nhập kinh tế không chỉ là cơ hội, mà còn là thách
thức đối với một nền kinh tế đang phát triển chật vật và phụ thuộc nhiều vào
nước ngồi của Việt Nam.
Người ta nói nhiều hơn đến các "cơ hội", và nói Ýt hơn, nói một tinh
thần vô cùng lạc quan về những "thách thức" mà Việt Nam sẽ phải đương
đầu khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới. cũng hợp lý thơi, vì hội nhập là lẽ
tất yếu trong tiến trình phát triển của mỗi một nền kinh tế. Và đặc biệt, với
một nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản, một khi đã đặt ra một định hướng phát triển, thì nhất định
phải lạc quan, tin tưởng mà tiến bước, nhất định không được bàn lùi.
Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới 20 năm nay và đã thu được
những thành tựu rất quan trọng, được thế giới thừa nhận rộng rãi. Việt Nam
đang trở thành điểm đến an toàn của các nhà đầu tư và kinh doanh quốc tế,
nhưng để làm cho Việt Nam trở thành nước giàu mạnh, còn địi hỏi sự nỗ lực
to lớn của tồn dân tộc. Trong những năm đổi mới chúng ta đã tiến hành
nhiều q trình chuyển đổi nhằm hồn thiện nền kinh tế thị trường, đáp ứng
đòi hỏi của xu thế hội nhập toàn cầu khi Việt Nam vừa trở thành thành viên
thứ 150 của WTO.
Vì vậy ở đây em xin được trình bày một số vấn đề về: "Hội nhập kinh tế
quốc tế và hoàn thiện nền kinh tế thị trường tại Việt Nam". Trong quá
trình làm bài do thiếu hiểu biết về thực tế, lại thêm phần thiếu vốn về nguồn
tài liệu, nên chắc chắn sẽ có nhiều sai xót. Rất mong có sự thơng cảm và đóng
góp ý kiến của thầy cơ để bài viết được hồn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!
1


PHẦN I
TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT Nam

A. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Hội nhập kinh tế quốc tế thường được thể hiện ở việc gia nhập các tổ
chức kinh tế quốc tế, hoặc ký kết các điều ước quốc tế song phương.
I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ QUỐC TẾ.

Các tổ chức quốc tế xuất hiện từ lâu, nhưng cho tới trước năm 1945,
chúng được thành lập chỉ để đáp ứng các nhu cầu chuyên ngành. Nhìn chung,
việc thành lập các tổ chức kinh tế quốc tế thời kỳ này khơng mang mục đích
thiết lập một hệ thống kinh tế thế giới. Khi chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết
thúc, người ta đã có ý tưởng về một trật tự kinh tế quốc tế trên cơ sở mở cửa
và hợp tác giữa các quốc gia. Đó là một ý tưởng đẹp đẽ về một trật tự kinh tế
quốc tế dựa trên nguyên tắc cơ bản là tự do thương mại và khơng áp dụng
chính sách phân biệt đối xử đối với bất kỳ nước nào.
Tại hội nghị Liên hợp quốc về tiền tệ và tài chính tháng 7/1944 (hội nghị
Bretton Woods - tiểu bang New Hampshire, Mỹ) và hội nghị Liên hợp quốc
về việc làm năm 1948 (Hội nghị Havane), các nước (đứng đầu là Anh và Mỹ)
đã cùng nhau bàn bạc các nguyên tắc cơ bản cảu trật tự kinh tế quốc tế sau
chiến tranh. Kết quả các hội nghị này là sự ra đời của ba tổ chức kinh tế quốc
tế trung tâm của trật tự kinh tế thế giới. Đó là: quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) có
chức năng điều hành các quan hệ tiền tệ quốc tế; Ngân hàng quốc tế về tái
thiết và phát triển (IBRD); Tổ chức thương mại quốc tế (ITO); Riêng tổ chức
thương mại quốc tế không thể ra đời, được thay thế "tạm thời" bằng hiệp định
chung về thương mại và thuế quan (GATT-1947) - tiền thân của tổ chức
thương mại thế giới (WTO) sau này.
Thời kỳ 1948-1960 là thời kỳ Tây Âu và Mỹ đảm đương vai trò quan
trọng của mình trong trật tự kinh tế thế giới, nhờ tài trợ của Mỹ thông qua kế

2



hoạch Marshall và sự hợp tác Châu Âu thông qua tổ chức hợp tác kinh tế
Châu Âu (OFEC), (thành lập ngày 16/4/1948, đến năm 1961 trở thành tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế - OECD). Các nước Đông Âu cũng thành lập hội
đồng tương trợ kinh tế (COMECON hay SEV) năm 1949 trong thế đối đầu.
Vào những năm 60-70, nhóm các nước đang phát triển, đang phát triển
cũng có nhu cầu liên kết để bảo vệ quyền lợi của mình, "nhóm 77" xuất hiện
77 nước đang phát triển đưa ra sáng kiến triệu tập hội nghị Liên Hợp quốc về
thương mại và phát triển (UNCTAD) năm 1964, năm 1966 tổ chức công
nghiệp cảu Liên Hợp quốc (UNIDO) được thành lập.
Năm 1973 tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa ra đời.
Sau hàng loạt các biến cố trong quan hệ chính trị và các quan hệ kinh tế
quốc tế, thế giới hơm nay khơng cịn hai cực. Các tổ chức quốc tế phát triển
mạnh mẽ về cả số lượng và quy mô, mức độ tác động đến quan hệ kinh tế
quốc tế. Xu hướng chung là ngày càng nâng cao vai trị của các tổ chức mạnh
có tồn cầu nh WTO, IMF, WB, đồng thời phát triển mạnh các tổ chức khu
vực và tổ chức chuyên ngành.
II. CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ QUỐC TẾ QUAN TRỌNG.

1. Liên hợp quốc
Liên Hợp quốc được thành lập năm 1945, là tổ chức quốc tế lớn nhất thế
giới, thực hiện hàng loạt các chức năng quan trọng, trong đó chức năng liên
quan đến hoạt động kinh tế quốc tế, thông qua Hội đồng kinh tế - xã hội, và
một số cơ quan bổ trợ của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc… Việt Nam gia
nhập LHQ năm 1977 và tham gia một số tổ chức chuyên mon của LHQ trong
lĩnh vực kinh tế. Dưới đây là một số cơ quan và tổ chức chuyên môn của Liên
Hợp quốc trong lĩnh vực kinh tế.
- Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) được
tổ chức lần đầu tiên vào năm 1964, tại geneva. UNCTAD đã có vai trị quan
trọng trong việc hịa hợp nguyện vọng của các nước đang phát triển với các

nước công nghiệp phát triển. Hiện UNCTAD đã tập hợp được trên 170 nước.
3


Việt Nam gia nhập năm 1988.
- Uỷ ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL)
được thành lập với mục đích giảm hoặc loại bỏ các cản trở pháp lý đối với
thương mại quốc tế. UNCITRAL cũng thành công trong việc tạo mối quan hệ
giữa các nước thị trường tự do và các nước XHCN.
- Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) thành lập
năm 1966 với chứ năng xúc tiến, đẩy mạnh công nghiệp hóa ở các nước đang
phát triển và xúc tiến hợp tác phát triển tồn cầu.
- Tổ chức nơng nghiệp và lương thực (FAO) được thành lập năm 1945
với tư cách là tổ chức chuyên môn của LHQ. Tổ chức này có mục tiêu nâng
cao dinh dưỡng và mức sống cho các nước thành viên, (Việt Nam tham gia
năm 1988).
2. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
Điều lệ IMF được thông qua ngày 22/7/1944, có hiệu lực ngày
27/12/1945, và đã qua nhiều lần sửa đổi. Hiện nay IMF có 183 nước thành
viên, đâu là tổ chức quốc tế "mở" (có thể kết nạp thêm thành viên mới).
Thành viên của IMF không nhất thiết phải là thành viên của Liên Hợp quốc.
Việt Nam kế thừa quy chế thành viên IMF của Việt Nam cộng hòa từ năm
1976.
3. Một số chức năng quan trọng của IMF
- Điều tiết chế độ tỷ giá hối đoái của các quốc gia, giám sát việc các
quốc gia tuân thủ các quy tắc thương mại và tài chính quốc tế;
- Cung cấp tín dụng cho các quốc gia thành viên gặp phải tình trạng khó
khăn về kinh tế (khủng hoảng, mất cân đối cán cân thanh tốn).
IMF có vốn điều lệ 130 tỷ USD và có thể tạo nguồn vốn cho mình bằng
cách huy động đóng góp tài chính cảu các nước thành viên hoặc vay vốn trên

thị trường tài chính quốc tế. Quy chế về các hạn mức cho vay hạn mức đóng
góp đối với các thành viên được thể hiện như sau: Các nước thành viên đóng
4


góp 75% hạn mức bằng đồng tiền quốc gia, và 25% hạn mức đóng góp cịn lại
bằng ngoại tệ chuyển đổi được thành vàng, sau đó được thay bằng SDR
(quyền rút vốn đặc biệt) - gọi là dự trữ quốc tế.
Mỗi nước có quyền vay vốn 5 đợt; Đợt thứ nhất được rút 25% hạn mức,
vốn điều kiện, gọi là rút vốn dự trữ. Bốn đợt tiếp theo gọi là vay vốn tí dụng,
mỗi lần được rút 25% hạn mức, có điều kiện lãi suất cao, và chịu sự giám sát.
Vậy là sau 5 đợt rút vốn, quốc gia thành viên được rút tất cả là 125% hạn
mức. Bên cạnh đó cịn các hình thức cấp vốn khác, như vay điều chỉnh kéo
dài, vay mở rộng, vay dự trữ điều hòa, vay điều chỉnh cơ cấu…
Quyền biểu quyết (số phiếu) của các quốc gia phụ thuộc vào hạn mức
của họ.
Bên cạnh IMF có chức năng điều chỉnh quan hệ tiền tệ quốc tế quốc tế,
cịn có một số tổ chức khác nh G10, G5, G7…
4. Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
* Lược sử hình thành của WTO
WTO:

Tên viết tắt của 3 chữ World trade Organization.

Ngày thành lập: 1/1/1995
Trụ sở chính:

Geneva, Thuỵ Sỹ

Thành viên:


150 nước (tính đế ngày 07/11/2006)

Ngân sách:

162 triệu francs Thụy Sỹ (số liệu năm 2004).

Chức năng chính:
- Quản lý các hiệp định về thương mại quốc tế
- Diễn đàn cho các vòng đàm phán thương mại
- Giải quyết các tranh chấp thương mại
- Giám sát các chính sách thương mại
- Trợ giúp về kỹ thuật và đào tạo cho các quốc gia đang phát triển
- Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác
WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade
5


Organization) - tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên tắc thương mại
giữa các quốc gia trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã
và đang được các nước đàm phán và ký kết.
WTO được thành lập ngày 1/1/1995,kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết
thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân, GATT - Hiệp định chung về Thuế
quan Thương mại. GATT ra đời sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, khi mà
trao lưu hình thành hàng loạt cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động hợp tác
kinh tế quốc tế đang diễn ra sơi nổi, điển hình là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết
và Phát triển, thường được biết đến như là Ngân hàng Thế giới (World Bank)
và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày nay.
GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan. Tuy nhiên,
từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ hiệp định Uruguay (1986-1994) do thương mại

quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng hoạt động, đàm phán
không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các hiệp định hình thành
các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các hàng rào phi quan thuế, về thương mại
dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan tới thương
mại, về thương mại hàng nông sản, hàng dệt may, về cơ chế giải quyết tranh
chấp. Với diện điều tiết của hệ thống thương mại đa biên được mở rộng, nên
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) vốn chỉ là một sự
thoả thuận có nhiều nội dung ký kết mang tính chất tuỳ ý đã tỏ ra khơng thích
hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh (Maroc), các bên đã kết thúc hiệp
định thành lập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển
sự nghiệp GATT. WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên
Hợp Quốc và đi vào hoạt động từ 1/1/1995.
Về cơ cấu tổ chức, hiện nay WTO có 148 nước, lãnh thổ thành viên,
chiếm 97% thương mại toàn cầu và khoảng 30 quốc gia khác đang trong quá
trình đàm phán gia nhập.
Hầu hết các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở đồng
6


thuận. Trong một số trường hợp nhất định, khi không đạt được sự nhất trí
chung, các thành viên có thể tiến hành bỏ phiếu. Khác với các tổ chức khác,
mỗi thành viên WTO chỉ có quyền bỏ một phiếu và các phiếu bầu của các
thành viên có giá trị ngang nhau.
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng, họp Ýt
nhất 2 năm một lần. Dưới Hội nghị Bộ trưởng là Đại hội đồng – thường họp
nhiều lần trong một năm tại trụ sở chính của WTO của Geneva. Nhiệm vụ
chính của Đại hội đồng là giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nước
thành viên và rà sốt các chính sách của WTO.
Dưới Đại hội đồng là Hội đồng Thương mại hàng hóa, Hội đồng thương
mại dịch vụ và Hội đồng giám sát về các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu

trí tuệ (TRIPS).
* Các nguyên tắc của WTO
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử và nguyên tắc có đi có lại
- Mở rộng tự do hóa thương mại (giảm thuế quan, loại bỏ các biện pháp
phi thuế quan).
- Nâng cao tính có thể dự đoán trong tương lai
- Cạnh tranh lành mạnh
- Ưu đãi hơn cho các nước đang phát triển
* Chức năng của WTO (điều III hiệp định WTO)
- Tổ chức các cuộc đàm phán mậu dịch đa phương;
- Đảm bảo thi hành những quy tắc quốc tế mới về thương mại;
- Giải quyết tranh chấp mậu dịch quốc tế;
- Phối hợp với IMF và WB nhằm đạt được sự thống nhất trong việc
hoạch định chính sách kinh tế tồn cầu;
- Đảm bảo và thúc đẩy tính cơng khai, minh bạch về chế độ thương mại
7


của các thành viên.
* Quyền và nghĩa vụ của các thành viên
- WTO áp đặt nhiều nghĩa vụ với các nước tiên tiến. Đối với các nước có
trình độ kinh tế thấp, WTO miễn/giảm nghĩa vụ và tạo điều kiện thuận lợi tuỳ
theo mức độ phát triển của nước đó. Các nước này được hưởng các ưu đãi sau
đây:
- Được miễn hoặc giảm một số nghĩa vụ; được hoãn thực hiện nghĩa vụ
của Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ và hiệp định về đầu tư trong khoảng
thời gian dài hơn;
- Được áp dụng mức thuế quan cao hơn các nước tiên tiến;
Được các nước tiên tiến áp dụng mức thuế "ưu đãi thuế quan phổ cập",
thấp hơn cả mức thuế tối huệ quốc, đối với hàng xuất khẩu.

- Áp dụng nguyên tắc có đi có lại một cách tương đối.
* Vai trò của WTO trong việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế quốc tế
WTO điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế bằng một hệ thống pháp
luật của mình. Các quy tắc điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế được thể
hiện trong các hiệp định quan hệ thương mại quốc tế, mà hầu hết các nước đã
cùng nhau đàm phán và ký kết.
Các Hiệp định này là các điều ước quốc tế, ràng buộc các chính phủ phải
duy trì chế độ thương mại trong một khn khổ đã được các bên thống nhất.
Tuy nhiên không nên quá tin tưởng và đặt nhiều hi vọng vào hệ thống
luật của WTO, bởi vì hệ thống pháp luật này quy định quá nhiều ngoại lệ.
Hơn nữa, không giống nh các cơ chế pháp luật khác, hệ thống pháp luật này
khơng có cơ chế trừng phạt thích đáng, do tính hữu hiệu khơng cao.
Vai trị chủ yếu của WTO là điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế. Bên
cạnh đó, nó cịn có những vai trị khác khơng kém phần quan trọng như: Thúc
8


đẩy tiến trình tự do hóa thương mại tồn cầu; kiềm chế những cuộc chiến
tranh thương mại có thể xảy ra, góp phần vào việc hoạch định chính sách
kinh tế toàn cầu…
*Việt Nam thành viên 150 của WTO - cơ hội và những thách thức
Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là thời điểm vừa mới gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), tạo cho Việt Nam những cơ hội và thách
thức mới. Việt Nam đang tích cực chuẩn bị tốt để đón nhận cơ hội mới và
vượt qua những thách thức to lớn được đặt ra từ việc gia nhập WTO.
Trước hết, các cấp, các ngành cần tuyên truyền thật tốt để cán bộ, đảng
viên và nhân dân hiểu đầy đủ và đúng đắn, từ đó cùng quyết tâm đẩy mạnh
hội nhập kinh tế quốc tế, đưa đất nước phát triển không ngừng và bền vững…
a. Cơ hội mới trên đường phát triển
Để chuẩn bị gia nhập WTO, Việt Nam đã trải qua 11 năm và hơn 200

cuộc đàm phán. Dù lâu nhất, nhiều nhất trong các đàm phán giữa Việt Nam
với các tổ chức quốc tế, nhưng chúng ta vẫn kiên trì cho mục đích gia nhập tổ
chức thương mại này. Bởi đây thực sự là sân chơi lớn mang tính tồn cầu, khi
gia nhập, Việt Nam sẽ tăng vị thế của mình trên trường quốc tế; có điều kiện
chủ động tham gia chính sách thương mại toàn cầu; đồng thời tập trung xây
dựng, điều chỉnh hệ thống luật pháp minh bạch, phù hợp xu thế chung, thu hút
các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước…
Việt Nam đang phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Muốn đạt được điều này, kim ngạch xuất khẩu của
chúng ta phải đạt 100 tỷ USD mỗi năm và kim ngạch nhập khẩu cũng tương
đương. Hiện nay, xuất khẩu của chúng ta tăng tương đối nhanh, nhưng kim
ngạch mới đạt 32,5 tỷ USD và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu đang bị phân biệt
đối xử. Gia nhập WTO, chóng ta sẽ được bình đẳng tham gia thị trường tồn
cầu để phát triển kinh tế, thương mại, thu hút đầu tư và hàng hóa, dịch vụ sẽ
9


không bị phân biệt đối xử, sẽ dỡ bỏ được nhiều rào cản và được hưởng những
ưu đãi giành cho thành viên WTO.
Khi gia nhập WTO, những tranh chấp, bất động trong hoạt động kinh tế
cũng được giải quyết tốt hơn. Chẳng hạn nước X kiện và áp thuế chống bán
phá giá với nước Y là thành viên WTO mà tổng thuế đó tương đương 100
triệu USD, khi WTO giải quyết tranh chấp, xác định là kiện chống phá giá
không đúng sẽ yêu cầu nước X bỏ kiện. Nếu nước X khơng bỏ, thì nước Y
được quyền nâng thuế nhập khẩu các mặt hàng của nước X lên tương đương
mức 100 triệu USD. Cách giải quyết tranh chấp này nhanh hơn, thực tế hơn,
dễ thực hiện so với cách giải quyết thơng qua trọng tài quốc tế và tịa án…
b. Thách thức mới và cách vượt qua
Muốn có thị trường tồn cầu thì Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường
nội địa cho các nước. Đây là thách thức trước tiên, bởi cả nước đang có số

lượng rất đơng, hơn 230.000 doanh nghiệp, nhưng phần lớn là vừa và nhỏ,
năng lực cạnh tranh kém. Khi mở cửa hội nhập, vấn đề cạnh tranh giành
nguồn lực con người sẽ diễn ra khốc liệt. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt
Nam khá năng động và chuyển động rất nhanh khi mt kinh doanh thay đổi.
Vượt qua được thách thức của sự cạnh tranh, Việt Nam sẽ tạo được môi
trường cạnh tranh kém. Khi mở cửa hội nhập, vấn đề cạnh tranh giành nguồn
lực con người sẽ diễn ra khốc liệt. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam
khá năng động và chuyển động rất nhanh khi môi trường kinh doanh thay đổi.
Vượt qua được thách thức của sự cạnh tranh, Việt Nam sẽ tạo được mơi
trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Những doanh nghiệp nào trước đây
dựa dẫm vào sự hỗ trợ, ưu đãi của chính sách thì nay buộc phải vươn lên, tự
đứng bằng hai chân của mình…
Các doanh nghiệp nước ngồi vào hoạt động ở Việt Nam sẽ dùng
lương, dùng các chính sách ưu đãi để thu hót lao động, nhất là lao động có

10


năng lực về làm việc cho mình. Thách thức này địi hỏi các doanh nghiệp
trong nước phải có chiến lược đào tạo, có cơ chế phù hợp nhằm "chiêu hiền
đãi sĩ", để giữ lao động. Đồng thời, phải có những đổi mới trong cách quản lý.
Xu thế hiện nay, Nhà nước tập trung quản lý ở tầm vĩ mô, xây dựng hệ thống
pháp luật, chính sách và kiểm tra việc thực hiện luật, chính sách đó; chuyển
quyền quản lý trực tiếp cho các hiệp hội ngành hàng, tạo điều kiện bảo vệ
được ngành hàng và hợp tác liên kết cùng phát triển. Thực tế đã cho thấy, khi
chóng ta chuyển quản lý trực tiếp việc xuất khẩu gạo cho hiệp hội thực hiện
đã tạo điều kiện để mọi thành phần đều cơ thể xuất khẩu gạo, thông qua sự
quản lý của hiệp hội. Xu thế này tạo nên sự hợp tác, liên kết rất quan trọng liên kết với nhau để tạo sức mạnh cho nhau và cùng phát triển.
Nếu biết và quyết tâm vượt qua tất cả những thách thức thì chúng ta sẽ
phát triển. Nhiều người cho rằng, thách thức cũng là cơ hội mới, cuộc sống

khơng có thử thách thì khơng cịn là cuộc sống. Gia nhập WTO đem lại cho
chóng ta nhiều cơ hội và nhiều thách thức. Có tận dụng được cơ hội, có vượt
qua được thách thức, biến thách thức thành cơ hội hay khơng hồn tồn do sự
đổi mới trong nhận thức cũng nh hành động của các cấp, các ngành, do sự
năng động của từng doanh nghiệp. Nhà nước mở cửa, có chính sách thu hút
đầu tư, nhưng các địa phương và các doanh nghiệp khơng tha thiết thu hút đầu
tư, thì chúng ta cũng không thể đạt mục tiêu đề ra.
Bản thân việc gia nhập WTO không làm Việt Nam giàu lên hay nghèo
đi mà chỉ là tạo cơ hội. Chúng ta tranh thủ được cơi hội thì sẽ phát triển, vượt
qua được thách thức thì sẽ tạo thêm cơ hội mới. Bởi vậy, đòi hỏi sự cố gắng
của tất cả các bộ, ngành, các địa phương, nhất là sự lao động sáng tạo, liên kết
chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Việt Nam, tạo sức mạnh nội lực lớn hơn để
phát triển nhanh hơn, bền vững hơn.

11


PHẦN II
CẢI THIỆN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT Nam
I. NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT Nam

Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam có một số các đặc điểm riêng biệt
so với nhiều quốc gia Tư bản chủ nghĩa khác. Điểm khác biệt của nền kinh tế
thị trường của Việt Nam xuất phát từ bản chất của nhà nước ta là nhà nước
"Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức" (điều 2, luật Hiến pháp 1992). Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vện lãnh thổ,
bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời. Do vậy, nước ta có

quyền xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường mang "màu sắc" riêng của
Việt Nam, nền kinh tế Êy phải đem lại Êm no cho đông đảo người dân lao
động. Để thực hiện mục tiêu của "nhà nước bảo đảm và không ngừng phát
huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm
phạm lợi Ých của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh,
thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống Êm no, tù do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển tồn diện" (điều 3, hiến pháp 1992). Một điểm khá đặc
biệt của thể chế chính trị nước ta kéo theo sự khác biệt đối với nhiều quốc gia
về thể chế kinh tế là nước ta theo chủ nghĩa đơn Đảng "Đảng cộng sản Việt
Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành
quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật" (điều 4, luật hiến pháp 1992). Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên

12


đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết,
tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát
huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số. Nhân dân sử dụng
quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ
quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và
chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ
quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tiến

hành theo ngun tắc phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đại
biểu Quốc hội bị cư tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân
dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó khơng cịn
xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Các cơ quan Nhà nước, cán bộ,
viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân;
kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền,
tham nhũng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết
toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham
gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và
bảo vệ lợi Ých chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền
làm chủ, nghiêm chỉnh thì hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động
của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước. Nhà
nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ chức và các tổ chức thành viên hoạt động
có hiệu quả. Cơng đồn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và
của người lao động cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
13


hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những
người lao động khác; tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra,
giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ,
công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Công dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham
gia cơng việc của Nhà nước xã hội, có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ
quyền và lợi Ých hợp pháp của cơng dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự,
an tồn xã hội, tổ chức đời sống cơng cộng. Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan
Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi

công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng
ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành
động xâm phạm lợi Ých của Nhà nước, quyền và lợi Ých hợp pháp của tập
thể của công dân đều bị xử lý theo pháp luật. Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hịa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và
hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, khơng phân biệt chế độ chính trị và
xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ
của nhau, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các
bên cùng có lợi; tăng cường tình đồn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với
các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp
phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nh vậy, với việc xây dựng một chế độ chính trị có nhiều điểm khác biệt
đối với nhiều nước đã dẫn đến việc thể chế kinh tế thị trường của nước ta có
nhiều điểm khác biệt so với thể chế kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ
nghĩa.
Điều 15, hiến pháp 1992 đã ghi nhận chính sách phát triển nền kinh tế thị
trường ở nước ta: "nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
14


theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở
hữu tư nhân, trong đó sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. "Mục
đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở
giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần
kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư
nhân và kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ

sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu
với thị trường thế giới.
Kinh tế quốc doanh là nét đặc thù của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
và giữ vai trò chủ đạo trong quá trình điều tiết mọi hoạt động của nền kinh tế
"kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển, nhất là trong những ngành và
lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cơ sở kinh
tế quốc doanh được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sản
xuất, kinh doanh có hiệu quả" Điều 19, hiến pháp 1992. Đồng thời nhà nước
bảo hộ mọi tài sản hợp pháp thuộc các loại hình sở hữu khác như: kinh tế tập
thể do cơng nhân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức
dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Nhà
nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu
quả; Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô
hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh; Kinh tế gia
đình được khuyến khích phát triển. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi
thành phần kinh tế phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đều
bình đẳng trước pháp luật, vốn và tài sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ.
Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá
15


nhân, tổ chứ kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Tài sản
hợp pháp của cá nhân, tổ chức khơng bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật
cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh và vì lợi Ých quốc gia, Nhà nước trưng
mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo giá
thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định. nhà nước thống nhất
quản lý và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức quan
hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền và cùng có lợi, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước.

Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công
nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thong lệ
quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi
khác của các tổ chức, cá nhân nước ngồi. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi khơng bị quốc hữu hóa. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho người
Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. Nhà nước thống nhất quản lý
nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách; phân công trách
nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nước giữa các ngành, các cấp; kết hợp lợi
Ých của cá nhân, của tập thể với lợi Ých của Nhà nước. Mọi hoạt động kinh
tế, xã hội và quản lý Nhà nước phải thực hành chính sách tiết kiệm. Mọi hoạt
động sản xuất, kinh doanh bất hợp pháp, mọi hành vi phá hoại nền kinh tế
quốc dân, làm thiệt hại đến lợi Ých của Nhà nước, quyền và lợi Ých hợp pháp
của tập thể và của công dân đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Nhà
nước có chính sách bảo hộ quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng.
Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá
nhân thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài
nguyên và huỷ hoại môi trường.
Từ những quy định của Hiến pháp đã được các văn bản luật của các quốc
hội và các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành nhằm làm sáng tỏ và
16


xây dựng nền thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Trên đây là những nét khái quát nhất về thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã được ghi nhận trong hiến pháp. Tuy nhiên, vấn đề
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam ln được các nhà nghiên
cứu quan tâm tìm hiểu. Nhằm tìm ra được con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
nhanh nhất và hợp lý nhất tại Việt Nam.
II. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐỀ CẬP


Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường tại Việt Nam, cần cải cách hệ
thống kinh tế và hệ thống pháp luật để nền kinh tế vận động theo cơ chế thị
trường. Nhà nước không được can thiệp sau vào cơ chế vận hành đó bằng các
quyết định hành chính.
1. Cải cách nền kinh tế
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã đưa ra
chủ trương chuyển đổi nền kinh tế của đất nước từ cơ chế tập trung, quan liêu,
bao cấp sang nền kinh tế thị trường (nền kinh tế mở) định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây là một chủ trương, chính sách đúng đắn đã từng bước đưa nền
kinh tế nước ta ra khỏi tình trạng trì trệ, chậm phát triển… tham gia ngày càng
mạnh mẽ vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Từ chủ trương chính sách
của Đảng đã được nhà nước thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Trong
đó có rất nhiều đạo luật quan trọng nh: Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật
thương mại… Bên cạnh đó dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà
nước chúng ta đã lần lượt là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế quan trọng
như: ASEAN (7/1995); ASEM (6/1996); APEC (11/1998); Liên Hiệp quốc…
và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế quan trọng khác.
Chính sách kinh tế mới đã đưa đất nước ta thốt khỏi tình trạng chậm
phát triển, từng bước đưa nền kinh tế tăng tốc bắt nhịp cùng với sự phát triển
chung của nền kinh tế nhân loại.
17


* Thành tựu của Việt Nam
Trong gần 20 năm đổi mới vừa qua, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam
được đánh giá là rất cao, luôn giao động ở mức 7-10%/năm. Một nỗ lực
khơng biết mệt mỏi của tồn thể nhân dân Việt Nam trong công cuộc xây
dựng đất nước. Ổn định chính trị có thể nói là điểm mạnh nhất của Việt Nam
so với các nước trong khu vực và thế giới. Từ sự ổn định đó khiến cho việc

thu hút đầu tư tiến triển rất khả quan. Hơn nữa trong mắt bè bạn quốc tế hình
ảnh Việt Nam được cải thiện rõ rệt và cơ hội đến với Việt Nam rõ ràng là
nhiều hơn.
Nắm bắt được những yếu tố trên, Việt Nam trong những năm đổi mới
vừa qua một mặt rất tích cực thu hút đầu tư trong và ngoài nước, đẩy mạnh
xuất khẩu vào những thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản… theo thống
kê của Bộ Thương mại, tỷ trọng xuất khẩu sang EU trong tổng xuất khẩu của
Việt Nam ngày một ra tăng, mức tăng trưởng lớn hơn so với thị trường Trung
Quốc, Hoa Kỳ, Asean, Nhật Bản. Trước năm 1996, EU chỉ đứng thứ 3 với tỷ
trọng 13.2%. Song bắt đầu từ 1997 khi mà EU dành cho Việt Nam quy chế ưu
đãi thuế quan - GSP, xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng vọt và nhanh
chóng vươn lên vị trí thứ hai sau Asean với tỷ trọng 17.5% rồi tăng lên 22.5%
trong năm 1999. Mặc dù có tốc độ tăng trưởng nhanh quy mơ xuất khẩu của
Việt Nam sang EU cịn quá nhỏ bé. Dự kiến tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
Việt Nam - EU năm 2006 sẽ đạt 9.2 tỷ USD. Trong khi đó EU là thị trường
lớn với gần 490 triệu dân, thu nhập cao với tổng thu nhập lên tới 11000 tỷ
USD: chiếm 27.8% tổng GDP, 1/3 tổng giá trị thương mại quốc tế và gần
luồng đầu tư trực tiếp tồn cầu.
Có thể thấy việc chuyển hướng đầu tư của Việt Nam sang thị trường EU
là hoàn toàn hợp lý trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực để trở thành thành
viên chính thức của WTO. Bên cạnh đó sức Ðp từ thị trường Hoa Kỳ ngày
một lớn thÓ hiện qua những vụ kiện độc quyền những năm qua. Hơn nữa thì
18


EU luôn ưu đãi Việt Nam hơn so với các quốc gia, vùng lãnh thổ khác. Do
đó có thể kết luận rằng thị trường EU là thị trường rất tiềm năng và "dễ tính"
hơn nhiều so với các thị trường truyền thống của Việt Nam. Một điểm cần
lưu ý nữa là EU được coi là một đối trọng kinh tế. Vai trị của EU trong
thương mại quốc tế là vơ cùng lớn. Với nguồn tài chính dồi dào, cơng nghệ

hiện đại vào bậc nhất thế giới, nhiều cơ quan trụ sở quốc tế đã khiến tiếng nói
của EU trở lên rất có trọng lượng. Vì vậy ta có thể tận dụng những ưu điểm
trên, tranh thủ sự ủng hộ từ EU trên tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế mà cụ
thể mục tiêu trước mắt là trở t hành thành viên của WTO.
Một điều khiến Việt Nam chưa thể là thành viên của WTO là do một số
nước trên thế giới chưa công nhận Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế thị
trường. Do đó chúng ta cần phải thay đổi tư duy, cần cải thiện hình ảnh, lành
mạnh hóa nền kinh tế. Đặc biệt là về chế độ sổ sách kế tốn cần phải có đồng
bộ, chặt chẽ tạo lịng tin cho đối tác nước ngồi. Chính nhờ vậy mà đất nước
ta đã được đền đáp khi ngày 07/11/2006 Việt Nam đã chính thức trở thành
thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới. Hy vọng đó chính là dấu
mốc mở ra một thời kỳ mới chói lọi cho nền kinh tế nước ta.
2. Cải cách hệ thống pháp luật
Trong 20 năm tiến hành đổi mới toàn diện nền kinh tế, cùng với sự thay
đổi về chính sách kinh tế là hệ thống văn bản pháp quy còng thay đổi với tốc
độ ngày càng nhanh nhằm đáp ứng tốt nhất chính sách kinh tế đó.
Hiến pháp 1992 đã xác định: xây dựng thể chế chính trị "Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức". Điều 2,
hiến pháp 1992 đồng thời: "nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy
quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm
phạm lợi Ých của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh,
19



×