LỜI NÓI ĐẦU
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan, phổ biến trong tự nhiên, xã
hội và tư duy. Nó bắt nguồn từ những mặt đối lập bên trong chính những sự
vật, hiện tượng. Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân, trong sinh vật có
đồng hố và dị hố…Hoạt động kinh tế vì thế cũng khơng nằm ngồi quy
luật này, nó cũng có những mâu thuẫn phổ biến như cung và cầu, tích luỹ và
tiêu dùng, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất…Lênin đã từng viết: “Sự
phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Hiểu đơn giản điều
đó nghĩa là mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
Nắm bắt được vấn đề đó Đảng và nhà nước ta đã và đang từng bước
giải quyết những mâu thuẫn khi chuyển nền kinh tế từ tập trung quan liêu
bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu
trung tâm là xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Vẫn biết mâu
thuẫn là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển, nhưng làm thế nào để phát
huy tối đa những lợi thế để nhanh chóng đưa nền kinh tế Việt Nam “sánh vai
cùng các cường quốc năm châu” thì lại khơng hề đơn giản.
Với mong muốn tìm hiểu nền kinh tế nước nhà giai đoạn hiện nay, em
mạnh dạn chọn đề tài: “Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam”.
NỘI DUNG CHÍNH
I.Cơ sở của đề tài:
1.Quy luật mâu thuẫn trong phép biện chứng duy vật:
Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy
vật và là hạt nhân của phép biện chứng. Nội dung của quy luật chỉ cho chúng
ta thấy nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật là một thể đồng nhất tuyệt đối,
chúng không có mâu thuẫn bên trong. Thực chất quan điểm này là phủ nhận
mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Còn theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biên chứng sự vật hiện tượng ln có mâu thuẫn bên trong
và mâu thuẫn là hiện tượng khách quan chủ yếu, bởi thế giới khách quan
được tạo thành từ nhiều yếu tố, nhiều quá trình khác nhau. Giữa chúng có
mối liên hệ, tác động lẫn nhau, trong đó sẽ có những mối liên hệ trái ngược
nhau. Và gọi đó là các mặt đối lập. Các mặt đối lập thường xuyên tác động
qua lại lẫn nhau gây nên một biến đổi nhất định, làm cho sự vật vận động và
phát triển.
Các mặt đối lập là những mặt có xu hướng phát triển trái ngược nhau
nhưng chúng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể là sự vật.
Quan hệ đó thể hện ở chỗ các mặt vừa thống nhất vừa tiêu diệt nhau. Sự
thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa, ràng buộc, phụ thuộc lẫn
nhau, làm tiền đề để tồn tại và phát triển cho nhau, có mặt này mới có mặt
kia. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự bài trừ, gạt bỏ, phủ định lẫn nhau
giữa chúng. Các mặt đối lập cùng tồn tại trong một thể thống nhất, chúng
thường xuyên muốn tiêu diệt nhau. Đó là tất yếu khách quan không tách rời
sự thống nhất giữa chúng.
Quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh là hai mặt đối lập tồn tại không
tách rời nhau. Sự thống nhất giữa các mặt chỉ diễn ra trong những điều kiên
nhất định. Bất cứ sự thống nhất nào cũng diễn ra với sự đấu tranh làm cho sự
vật ln có xu hướng biến thành cái khác. Còn đấu tranh diễn ra từ khi thể
thống nhất xác lập đến khi nó bị phá vỡ để chuyển thành cái mới, với các
mức độ khác nhau, từ khác biệt đến đối lập, từ đối lập đến xung đột từ xung
đột đến mâu thuẫn, mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm và trong những điều kiện
nhất định chúng chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết, sự vật
mới hình thành thay thế sự vật cũ…và một mâu thuẫn mới lại bắt đầu nảy
sinh.
Như vậy có thể nói mâu thuẫn là nguyên nhân bên trong, là động lực
của sự phát triển.
Xét trong lĩnh vực kinh tế, các mâu thuẫn đều bắt nguồn từ quan hệ sở
hữu. Cùng với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất các chế độ sở hữu
cũng như các hình thức sở hữu cũng thay đổi. Trong lịch sử phát triển của
nhân loại các chế độ sở hữu đã lần lượt thay thế nhau, từ công hữu nguyên
thuỷ đến chiếm hữu nô lệ, đến chiếm hữu phong kiến, đến chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa, rồi đến công hữu xã hội chủ nghĩa. Lịch sử phát triển
của nhân loại cũng cho thấy không một chế độ sở hữu nào là thuần nhất một
hình thức sở hữu, mà nó là sự đan xen nhiều loại hình, nhiều hình thức sở
hữu khác nhau. Tuy nhiên, trong đó có một loại hình sở hữu đóng vai trị chi
phối, quyết định chế độ sở hữu trong từng giai đoạn lịch sử. Xu thế phát
triển của nhân loại không đi đến chỗ đơn nhất hồ mà ngược lại, ngày càng
đa dạng hố các hình thức sở hữu. Nếu như trong xã hội nguyên thuỷ chỉ có
cơng hữu ngun thuỷ thì ngày nay, trong các nước đều đan xen nhiều hình
thức sở hữu khác nhau. Xu hướng phát triển đó là tất yếu, phù hợp với quá
trình xã hội hố lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất có tính chất xã hội
địi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải có tính chất xã hội. Tính xã hội ở đây thể
hiên trong tính đa dạng của nó, chính tính đa dạng đó mới tạo ra sự kết hợp
tối ưu các yếu tố của lực lượng sản xuất. Trước đây, nói đến chế độ cơng
hữu là nói đến qua trình biến tư liệu sản xuất thành sở hữu toàn dân và tập
thể, và cuối cùnh đi đến một hình thức sở hữu duy nhất là sở hữu tồn dân.
Từ đó dẫn đến cơng hữu hố ồ ạt, càng nhanh càng tốt. Song thực tiễn đã
cho thấy, đó là quan điểm sai lầm “Chế độ công hữu xã hội chủ nghiã khơng
hề gạt bỏ tính đa dạng các loại hình sở hữu mà ngược lại, chúng thống nhất
với nhau trong tính đa dạng các loại hình sở hữu, cơng hữu giữ vai trị chi
phối”. Đó là điều cho phép phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đồng
thời giữ vững bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa.
2.Cơ sở thực tiễn:
2.1. Đường lối và các chính sách của Đảng:
Trong công cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, khu vực kinh
tế nhà nước đã có những đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế, phục
vụ cho tiền tuyến mà chúng ta không thể phủ nhận. Từ năm 1975, đất nước
thống nhất, chúng ta tiếp tục duy trì nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
với những tham vọng là tập trung phát triển công nghiềp nặng, đồng thời
phát triển đồng bộ công nghiệp nhẹ và nông nghiệp. Thực trạng bấy giờ đất
nước vừa thoát khỏi chiến tranh, của cải đổ hết vào kháng chiến nên tích luỹ
chẳng cịn là bao, dẫn đến khơng đảm bảo về vốn. Cơ sở hạ tầng, đường xá
bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh dẫn tới không đảm bảo về cơng nghệ.
Khi mà đầu vào chưa có đủ thì chúng ta khơng thể phát triển kinh tế có hiệu
quả được. Chính vì kinh tế phiến diện, nên sa sút, người dân mất lòng tin
vào Đảng và Nhà nước.
Vì vậy, kẻ từ Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI năm 1986, chúng ta
đã quyết định chuyển nền kinh tế từ tập trung quan liên bao cấp sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Nước ta tiến lên xã
hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa địi hỏi “Phải trải qua một
thời kì q độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội có tính chất q độ. Và trong thời kì q độ ấy có nhiều hình thức
sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế”. Vấn đề đặt ra hiện nay
là phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Đảng ta chủ trương đa dạng
hố các loại hình sở hữu, từ đó hình thành nhiều thành phần kinh tế đa dạng,
đan xen, hỗn hợp. Vì thế chúng ta phải thực hiện nhất quán chính sách kinh
tế nhiều thành phần đã đề ra ở Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX: “Từ các
hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu tồn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân
hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức đa dạng,
đan xen, hỗn hợp”.
Hơn nữa chúng ta cũng nhận thức được rằng, sự phát triển kinh tế
nhiều thành phần sẽ khắc phục được tình trạng độc quyền, tạo động lực cho
cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế hàng hố phát
triển. Đó là động lực giúp cho xã hội phát triển bền vững.
2.2. Mối quan hệ giữu các thành phần kinh tế:
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tồn tại trong nó những kiểu
sản xuất hàng hố khơng cùng bản chất, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với
nhau.
a.Tính thống nhất:
Hiến pháp năm 1992 nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
xác định sự tồn tại lâu dài của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần dựa trên chế độ sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Trước kia
chúng ta xác định nền kinh tế có 6 thành phần là: kinh tế quốc doanh (kinh tế
Nhà nước), kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư bản Nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Nhưng bắt đầu
từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X năm 2006, do tình hình có nhiều thay
đổi, Đảng ta đã thống nhất gộp hai thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và
kinh tế tư bản tư nhân thành một thành phần là kinh tế tư nhân. Như vậy
hiện nay nước ta tồn tại 5 thành phần kinh tế là: kinh tế Nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài.
Tuy là vậy nhưng các thành phần kinh tế nước ta có mối quan hệ chặt
chẽ và thống nhất với nhau. Trước tiên, chúng đều là bộ phận cấu thành hệ
thống phân công lao động xã hội. Sau đó, chúng đều thống nhất trong mục
tiêu: “Giải phóng sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện
đời sống nhân dân”, hướng tới mục tiêu cuối cùng là đưa đất nước ta trở
thành nước có nền công nghiệp phát triển và cao hơn thế là có nền kinh tế
phát triển.
Thực tiễn về mặt lý luận, băt đầu từ Đại hội VI Đảng ta đã công nhận
sự tồn tại và vai trò của các thành phần kinh tế, có các chính sách khuyến
khích cho cả các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa cùng phát triển.
Ngồi ra, tính thống nhất ấy cịn thể hiện ở chỗ cùng một chủ thể có
thể tham gia cùng lúc nhiều thành phần kinh tế, cùng một đối tượng có thể
có nhiều quan hệ sở hữu, tuy nhiên đều phải đảm bảo nhất quán dưới sự
quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các cơng cụ
khác. Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ kinh
doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự
ngun, thị trường có vai trị trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chon
lĩnh vực hoạt động và phương án kinh doanh có hiệu quả. Nhà nước quản lý
nền kinh tế nhằm định hướng, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt
động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý
vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế, đảm bảo sự hài hoà trong phát
triển kinh tế và phát triển xã hội. Và thực tế công cuộc cải cách ở Việt Nam
đã làm cho nền kinh tế có những nét khởi sắc, cụ thể như tốc độ tăng GDP
hằng năm giai đoạn 1986-1990 trung bình là 4.9%, con số này giai đoạn
1990-1995 tăng lên tới 7,7%, đồng thời tốc độ lạm phát giảm 7,75% so với
năm 1986, tiếp theo năm 1995 tốc độ tăng GDP đã đạt mức hai con số
12,7%, và đến giai đoạn 2000-2005 là 7,51%.
b.Tính mâu thuẫn
Nói về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay nếu chỉ nói tới sự thống nhất giữa các thành phần kinh tế thơi
thì chưa đủ, bởi sự thống nhất ln bao hàm trong nó sự đấu tranh, những
mâu thuẫn khơng thể tránh khỏi. Về mặt lý luận, chúng ta đã biết mâu thuẫn
khơng thể bắt nguồn từ bên ngồi sự vật hiện tượng mà phải từ chính bên
trong, chính bản thân sự vật hiện tượng đó. Trong vấn đề kinh tế cũng vậy,
sở dĩ xuất hiện những mâu thuẫn là do sự đa dạng hố các loại hình sở hữu
trong nền kinh tế.
Thật vậy, sở hữu chính là cơ sở cho việc hình thành các thành phần
kinh tế. Các thành phần kinh tế khác nhau dựa trên những hình thức sở hữu
khác nhau, cho nên giữa chúng hẳn phải có những mâu thuẫn nhất định. Thứ
nhất là về lợi ích kinh tế, giữa lợi ích ngắn hạn và lâu dài khác nhau của các
thành phần kinh tế. Thứ hai, đó là mâu thuẫn trong cạnh tranh dành lấy thị
trường. Trong khi ở một số ngành như xăng dầu, điện lực, thuốc y dược…
Nhà nước nắm độc quyền cho nên ở đó ít chịu cạnh tranh hơn, mà trên thực
tế bất kì thành phần kinh tế nào cũng muốn có được điều kiện kinh doanh
thuận lợi nên ít nhiều cũng gây nên những mâu thuẫn giữa các thành phần
kinh tế. Hơn nữa, một thực tế đáng nói ở Việt Nam hiện nay là mặc dù đã có
nhiều chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước nhưng tình trạng phân
biệt đối xử giữa các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh vẫn còn
tồn tại. Nhiều ngân hàng mặc dù đã huy động được tiền gửi nhưng lại đang
không thể cho vay, để số tiền trong két dư nợ quá hạn lên đến mức báo
động. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh nước ta hiện nay điều này cũng là dễ hiểu,
trong thời gian tới những tình trạng như thế này chắc chắn sẽ được chấn
chỉnh, sẽ khơng cịn tình trạng phân biệt giữa doanh nghiệp quốc doanh và
ngoài quốc doanh nữa.
Trên đây là những mâu thuẫn bên trong, bản thân giữa các thành phần
kinh tế, ngoài ra trong nền kinh tế nước Việt Nam hiện nay song song với đó
cịn tồn tại những mâu thuẫn bên ngồi, mang tầm vĩ mơ bao qt và tác
động trực tiếp tới mọi thành phần kinh tế. Đó là mâu thuẫn giữa hai định
hướng phát triển kinh tế-xã hội: Định hướng xã hội chủ nghĩa và định hướng
phi xã hội chủ nghĩa. Trong sự phát triển hiện nay song song bên cạnh sự
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa còn còn tồn tại định hướng phát
triển theo tư bản chủ nghĩa. Mặc dù vây đó mới chỉ là khả năng, vì thực
trạng kinh tế thực trạng kinh tế nước ta và tương quan lực lượng trong bối
cảnh quốc tế hiện nay mọi việc đều có thể xảy ra. Nếu chúng ta quyết tâm,
kiên định và có đường lối sáng suốt, khơn ngoan của Đảng thì tương lai xã
hội chủ nghĩa sẽ là khơng xa.
Ngồi ra, mâu thuẫn trên cịn biểu hiện thành mâu thuẫn giữa một bên
gồm những lực lượng, khuynh hướng phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, được sự cổ vũ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới với một bên là
khuynh hướng tự phát và những lực lượng gây tổn hại cho quốc tế nhân
sinh. Mâu thuẫn cơ bản này quyết định những mâu thuẫn kinh tế-xã hội khác
cả về chiều rộng và chiều sâu trong quá trình phát triển kinh tế nước nhà
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mâu thuẫn là cội nguồn của mọi sự vận động phát triển. Nắm bắt
được chân lý ấy Đảng và Nhà nước ta đang từng bước giải quyết các mâu
thuẫn, thống nhất nhất nền kinh tế bằng cách thực hiện nhất quán chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế
kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho nền
kinh tế quốc dân.
II.Thực trạng các thành phần kinh tế ở Việt Nam:
1.Thành phần kinh tế Nhà nước:
Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước về những
tư liệu sản xuất chủ yếu, gồm những đơn vị kinh tế mà toàn bộ số vốn thuộc
vế Nhà nước hoặc phần của Nhà nước chiếm tỉ trọng khống chế. Ngay từ
đầu Đảng ta đã xác định rõ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, là lực
lượng quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng, điều tiết vĩ mô nền
kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước giữ những vị thí then chốt, đi đầu trong ứng
dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu
quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.
a,Thành tựu:
Theo số liệu thống kê, đến năm 1989 cả nước có 12084 doanh nghiệp
Nhà nước, với số vốn là 10tỉ USD. Trong đó cơng nghiệp chiếm 49,3%, xây
dựng 9%, nông nghiệp 8,1%, lâm nghiệp 1,2%, giao thông vận tải 14,8%,
thương nghiệp 11,57%, các ngành khác 5,9% trong tổng số vốn.
Giai đoạn này khu vực kinh tế Nhà nước đã tạo ra khoảng 35-40%
GDP, đóng góp 60-80% tổng thu ngân sách. Nhưng nhìn chung tồn bộ khu
vực vẫn chưa tự đảm bảo được tái sản xuất giản đơn. Sự tăng trưởng hằng
năm chủ yếu do gia tăng lượng vốn và lao động. Sự đóng góp của khu vực
kinh tế Nhà nước so với số chi ngân sách Nhà nước cho khu vực này từ 1990
trở về trước trung bình chỉ đạt tỉ lệ 1:3.
Hiện nay sau thời gian bị chao đảo khi chuyển sang kinh tế thị trường
khu vực kinh tế Nhà nước đã sớm được phục hồi và phát triển có hiệu quả
hơn. Các doanh nghiệp Nhà nước đảm nhận những sản phẩm và dịch vụ
quan trọng, có tác động trực tiếp đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế
quốc dân, nhất là trong công nghiệp, cơ sở hạ tầng và các ngành xuất khẩu.
Đã củng cố, tổ chức và sắp xếp lại các Tổng công ty theo quyết định 91TTg
và các Tổng công ty theo quyết định 90TTg với hàng nghìn đơn vị thành
viên, chiếm phần lớn vốn liếng của khối doanh nghiệp Nhà nước. Hoạt động
của các Tổng cơng ty đã có những hỗ trợ giúp đỡ cho các doanh nghiệp
thành viên về vốn, công nghệ, thiết bị, thị trường để duy trì và phát triển
hoạt động sản xuất, kinh doanh, tăng sức mạnh trong cạnh tranh, đấu thầu…
Các Tổng công ty đã thực hiện liên kêt về hành chính, nghiệp vụ, quản lý,
mở rộng thị trường và hỗ trợ kĩ thuật cho các đơn vị thành viên. Một số
Tổng công ty đã thống nhất cả về điều hành xuất nhập khẩu,quản lý thống
nhất vốn đầu tư, đổi mới công nghệ như Tổng công ty Than, Tổng công ty
Xi măng, Tổng cơng ty Tàu biển…
Đến cuối 1999, tồn quốc có 370 doanh nghiệp được cổ phần hố.
Các doanh nghiệp cổ phần hố hoạt đơng nhìn chung đều tốt, các chỉ tiêu
kinh tế chủ yếu đều tăng: 1998 so với 1997 tăng 3,1% về vốn, tăng 133,5%
về doanh thu, lợi nhuận sau thuế cũng tăng 131%, các khoản nộp ngân sách
tăng 153%, lực lượng lao động tăng 9%, thu nhập bình quân tăng 29%, giá
trị cổ tức đạt 2,6% /tháng, cao hơn gấp đôi lãi xuất ngân hàng.
Một số số liệu khác từ Tổng cục Thống kê Việt Nam như sau, qua đó
ta có thể thấy rõ sự tăng trưởng của thành phần kinh tế Nhà nước. Năm
1990, tỉ lệ đóng góp vào GDP của khu vực này là 32,5%, đến năm 1995 con
số này là 40,1%, năm 2000 là 40,2%, năm 2005 đạt mức 38,4%. Riêng công
nghiệp, công nghiệp quốc doanh được tổ chức sản xuất lại, tăng cường đầu
tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị nên đã có những bước tiến đáng kể: số
lượng và chất lượng sản phẩm đều tăng. Giá trị sản lượng công nghiệp quốc
doanh tăng bình quân 11,7% giai đoạn 1991- 2000, 13,4% giai đoạn 19911995, và 10% giai đoạn 1996-2000.
Tuy nhiên bên cạnh những thành cơng đó vẫn cịn tồn tại nhiều hạn
chế đáng kể:
b,Hạn chế:
Kinh tế Nhà nước chiếm đại bộ phận nền kinh tế nhưng hiệu quả hoạt
động chưa cao, chưa thể hiện vai trị chủ đạo trong tồn bộ nền kinh tế. Số
doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ quá lớn. Theo số liệu thống kê, số
doanh nghiệp Nha nước đang trong tình trạng phá sản hoặc có nguy cơ phá
sản, đình đốn vẫn chiếm quá nửa số doang nghiệp hiện có. Đại bộ phận
doanh nghiệp Nhà nước cịn gặp nhiều khó khăn, thiếu vốn, thiếu thị trường,
bị thua lỗ triền miên, phải “ăn dần” vào vốn. Hiện nay, trong tổng số doanh
nghiệp Nhà nước chỉ có khoảng 20-25%doanh nghiệp làm ăn có lãi (chủ yếu
là các Tổng cơng ty, các doanh nghiệp ở Trung ương), 30-35% hồ vốn, cịn
lại khoảng 40% thua lỗ. Một ví dụ cho tình trạng thua lỗ là ở Cơng ty dệt
Long An. Trước kia, nó đã từng là con voi đầu đàn, là niềm tự hào của
khơng riêng gì tỉnh Long An. Nhưng Ban giám đốc công ty do quá tự mãn
với những thành công bước đầu, sai lầm chiến lược và thiếu quyết đoán
trước cơ hội thị trường đã đẩy công ty rơi vào tình trạng thua lỗ triền miên.
Và đến ngày 15-7-2004, sau hơn 29 năm hoạt động cơng ty đã phải đóng cửa
vì khơng trụ nổi trước cơn bão thị trường. Dệt Long An- “Con voi đầu đàn”
đã gục ngã.
Một điều đáng nói nữa là chính sách ưu tiên, ưu đãi cho khu vực kinh
tế nhà nước như đã trình bày ở phần trước, thực ra là tái bao cấp làm cho khả
năng vươn lên của khu vực này bị hạn chế, tính năng hoạt động kém.
Tiến độ cổ phần hố cịn chậm chạp, chưa tạo được bước chuyển
mạnh mẽ về cơ chế huy động vốn và phát huy nội lực trong công cuộc đổi
mới doanh nghiệp Nhà nước. Thực tế ở các doanh nghiệp cổ phần hoá,
khoảng 38% vốn vẫn do Nhà nước nắm giữ, tỉ lệ bán ra bên ngoài nhiều nhất
cũng chưa được 10%. Điều này cho thấy tình trạng cổ phần hố “khép kín”
trong nội bộ doanh nghiệp vẫn đang diễn ra phổ biến. Dẫn tới hạn chế các
nhà đầu tư có khả năng về vốn, cơng nghệ và trình độ quản lý.
c,Ngun nhân:
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên xuất phát từ những chính
sách chưa thực sự hợp lý, phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay.
Ví dụ như chính sách ưu tiên, ưu đãi cho khu vực kinh tế Nhà nước
như đã nói trên. Hay như chính sách về cổ phần hố doanh nghiệp Nhà
nước. Chính sách đề ra thì là vậy nhưng vấn đề khúc mắc ở đây vẫn là phần
định giá doanh nghiệp. Do thiếu đồng bộ nên cơng việc này lãng phí rất
nhiều thời gian và tiền của của Nhà nước. Có khi các doanh nghiệp cịn cố
tình định giá thấp hơn rất nhiều giá trị thực của doanh nghiệp, làm thất thoát
của ngân sách Nhà nước khơng biết bao nhiêu tiền của.
Có doanh nghiệp thì đã định giá xong rồi, muốn cổ phần hoá qua con
đường thị trường chứng khoán. Theo nghị định 109/ NĐ-CP, quy định
những doanh nghiệp Nhà nước có lượng bán vốn điều lệ từ 10tỉ Vnđồng trở
lên ngoài đấu giá bán cổ phần qua HOSE và HASTC, doanh nghiệp có thể
thực hiện phương thức bảo lãnh phát hành hoặc thoả thuận trực tiếp. Nhưng
oái oăm thay chỉ được thực hiện hai phương án trên (thoả thuận hoặc bảo
lãnh) khi đã thực hiên đấu giá. Như vậy, khi hàng hoá bán rộng rãi đã ế thử
hỏi ở quy mơ hẹp hơn có dễ hơn. Và thực tế sau khi Nghị định 109 ra đời
hầu như khơng có doanh nghiệp nào bán được cổ phần theo phương thức
bảo lãnh phát hành, còn bán theo thoả thuận trực tiếp thì cũng rất ít. Như vậy
có thể nói hành lang pháp lý đang trở thành một rào cản lớn trong việc cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Một nguyên nhân khác góp phần làm giảm hiệu quả của khu vực kinh
tế Nhà nước hiện nay là vấn đề nhận thức chưa đúng đắn của đội ngũ lãnh
đạo, nhất là trong cơng cuộc cổ phần hố, lo ngại ảnh hưởng tới quyền lợi,
chưa yên tâm về kết quả nên cịn chần chừ, do dự. Điều này có thể thấy
trong ví dụ về cơng ty Dệt Long An. Lẽ ra cơng ty đã có thể được cứu khi
quyết định sát nhập với Tổng công ty Dệt may Việt Nam-Vinatex, nhưng
ban lãnh đạo công ty đã ngần ngại rồi quyết định không chấp thuận nhưng
điều khoản sát nhập và đi đến đóng cửa cơng ty. Dệt Long An chỉ một trong
số 40% doanh nghiệp Nhà nước của chúng ta làm ăn thua lỗ mà thơi.
Ngồi ra cịn một số những ngun nhân khác như: việc lãng phí của
cơng, việc thí điểm bán cổ phần các doanh nghiệp Nhà nước cho người nước
ngồi cịn gặp nhiều khó khăn.
d, Giải pháp:
Giải pháp chung cho khu vực kinh tế Nhà nước hiện nay vẫn là chủ
trương cổ phần hoá. Cụ thể chủ trương này nhằm đa dạng hố hình thức sở
hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100%
vốn. Nhằm huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động
thúc đẩy làm ăn có hiệu quả. Ưu tiên cho người lao động mua cổ phần, từng
bước bán cổ phần cho nhà đầu tư trong và ngồi nước. Thực hiên giao bán,
khốn, cho th…các doanh nghiệp loại nhỏ mà nhà nước không cần nắm
giữ. Sát nhập, giải thể, cho phá sản các doanh nghiệp làm ăn thua kỗ, kém
hiệu quả và không thực hiện được các biên pháp trên.
Phân biệt quyền sở hữu và quyền kinh doanh. Thực hiện chế độ quản
lý công ty đối với các doanh nghiệp kinh doanh dưới dạng công ty trách
nhiêm hữu hạn một chủ sở hữu là Nhà nước và cơng ty cổ phần có vốn của
Nhà nước.
Tăng cường những doanh nghiệp mà nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc
có cổ phần chi phối trong những lĩnh vực then chốt như: dầu khí, điện, than,
hàng khơng, đường sắt, vận tải, viễn dương, cơ khí, luyện kim, hố chất, vật
liệu xây dựng, xuất nhập khẩu, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm tốn…
Xây dựng một số tập đồn kinh tế vững mạnh trên cơ sở những Tổng
công ty Nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Theo phương
án này hiện nay chúng ta có một số những tập đồn lớn như: Tập đồn Dầu
khí Việt Nam, tập đồn Bưu chính viễn thơng Việt Nam, tập đồn Điện lực
Việt Nam…
Đổi mới và hoàn thiên khung pháp lý, tháo gỡ mọi rào cản về cơ chế,
chính sách và thủ tục hành chính, để huy động tối đa mọi nguồn lực, nhất là
giúp các doanh nghiệp đủ điều kiện có thể nhanh chóng cổ phần hố theo
đúng chủ trương Đảng đã đề ra.
Nâng cao nhận thức, đặc biệt là cho đội ngũ cán bộ về chủ trương cổ
phần hoá, để những chủ trương chính sách thực sự đi vào đời sống, thực sự
phát huy tác dụng.
2.Thành phần kinh tế tập thể:
Bao gồm những cơ sở kinh doanh do người lao động tự nguyện góp
vốn, cùng kinh doanh, tự quản lý theo ngun tắc tập trung, bình đẳng và
cùng có lợi.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là
hợp tác dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể; liên kết rộng
rãi những người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, địa bàn (trừ
một số lĩnh vực quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp và
mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách
nhiệm.
Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các
thành viên, lợi ích của tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội cuả các
thành viên, góp phần xố đói, giảm nghèo, tiến lên làm giầu cho các thành
viên.
Thấy rõ vai trò quan trọng của thành phần kinh tế tập thể, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định cần “mở rộng các hình thức kinh tế
hỗn hợp, liên kết, liên doanh giữa các hợp tác xã với các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế”. Kinh tế tập thể được coi là trợ thủ đắc lực, là
bạn đồng hành của các doanh nghiệp Nhà nước.
Nhiệm vụ trung tâm đối với thành phần kinh tế tập thể là phát triển đa
dạng các hình thức hợp tác, chuyển đổi HTX cũ theo luật Hợp tác xã mới đạt
hiệu quả thiết thực. Phát triển hình thức hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa
ngành hoặc chuyên ngành để sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ , tạo điều
kiện mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, phù hợp với q trình Cơng
nghiệp hố - Hiện đại hố. Trên cơ sở phát huy tính tự chủ của hộ gia đình,
chú trọng phát triển các hình thức hợp tác và các hợp tác xã cung cấp dịch
vụ, vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho hộ gia đình và trang trại. Mở rộng các
hình thức kinh tế hàng hố liên kết , liên doanh giữa các hợp tác xã với các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nhà nước giúp hợp tác xã đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ kĩ thuật và quản lý, mở rộng thị trường, ứng dụng
công nghệ mới, phát triển vốn tập thể, giải quyết nợ nần tồn đọng trong hợp
tác xã cũ.
a, Thành tựu
Hiện nay, sau thời kì dài suy thối, kinh tế tập thể bước đầu được tổ
chức lại theo luật Hợp tác xã mới, đã có những tác động tích cực. Nhiều hợp
tác xã hoạt động có hiệu quả trên cơ sở góp cổ phần và lao động trực tiếp
của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, thực hiện
nguyên tắc tự nguyện và cơ chế quản lý dân chủ, công khai về tài chính và
kinh doanh. Tỉ lệ đóng góp của khu vực vào GDP qua các năm như sau: năm
1995 là 10%, năm 2000 là 9%, năm 2005 là 6.8% và phấn đấu đến năm 2010
đạt 14%.
Tính đến hết năm 2005, cả nước có17133 hợp tác xã (HTX),trong đó
có 8511 HTX nơng nghiệp, 620 HTX thương mại dịch vụ, 2151 HTX công
nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, 512 HTX xây dựng, 489 HTX thuỷ sản, 1113
HTX giao thơng vận tải, 917 HTX tín dụng, 49 HTX mơi trường, 150 các
loại hình HTX khác.Theo đánh giá phân loại của Liên minh các HTX các
tỉnh thành phố trong số 17133 HTX nói trên có 38,5% HTX hoạt động có
hiệu quả. Thực tế trong những năm qua cho thấy các tổ hợp tác thường phát
triển mạnh trong lĩnh vực dịch vụ, tiểu thủ cơng nghiệp và tín dụng nhỏ. Tuy
mức độ liên kết chưa chặt chẽ, còn mang tính thời vụ song tổ hợp tác đã góp
phần thúc đẩy kinh tế hộ gia đình phát triển. Cơ cấu ngành nghề trong số
HTX thành lập mới có xu hướng tăng về lĩnh vực phi nông nghiệp - chiếm
68,2% tổng số HTX được thành lập mới. Các HTX dịch vụ nơng nghiệp có
chiều hướng phát triển đa ngành nghề, kinh doanh tổng hợp nhằm phục vụ
tốt hơn cho nhu cầu xã viên. Xu thế hợp tác, liên kết giữa các HTX với cơ
quan nghiên cứu khoa học, các thành phần kinh tế khác tiếp tục được mở
rộng. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các HTX đã có nhiều chuyển biến
đáng kể, phát triển và dần đi vào ổn định. Ở nhiều nơi HTX đóng vai trị đầu
mối trong việc tham gia các chương trình kinh tế - xã hội của Nhà nước, góp
phần khơng nhỏ vào việc xố đói giảm nghèo, tạo cơng ăn việc làm, đặc biệt
là ở khu vực vùng sâu vùng xa. Liên minh HTX đã phối hợp với Liên minh
HTX các tỉnh thành phố, hướng dẫn các HTX xây dựng trên 115 dự án với
tổng số vốn vay hơn 10 tỷ đồng từ Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm. Đời
sống thực tế của người lao động và xã viên HTX đã khá hơn nhiều so với
những năm trước.
Trong năm 2006 số HTX khá giỏi tăng lên 40%, số HTX yếu kém
giảm xuống còn 13%, xử lý dứt điểm 130 HTX chưa chuyển đổi theo Luật
HTX năm 2003, đạt tốc độ tăng trưởng của kinh tế tập thể là 4,5% và tốc độ
tăng trưởng của kinh tế xã viên là 6,6%.
Một điển hình cho thành phần kinh tế này phải kể đến Hợp tác xã
Thuận Phát. Được thành lập năm 1982, kinh doanh với hai sản phẩm là cháo
và satê. Hiện nay Thuận Phát đã trở thành một đơn vị chế biến thực phẩm
với những sản phẩm chất lượng cao mang logo “Vương miện” đã trở nên
quen thuộc với khách hàng. Hơn 20 năm không ngừng cải tiến chất lượng và
mẫu mã, sản phẩm của Thuận Phát đã có mặt trong nhiều gia đình Việt Nam,
ở siêu thị và phần lớn các chợ, ngồi ra cịn được xuất khẩu sang một số
nước như: Mĩ, Úc, Nga, Hongkong, Singgapo, Đan Mạch ...
b, Hạn chế và một số nguyên nhân:
Thứ nhất, nhận thức về HTX kiểu mới và luật hợp tác xã ở một lượng
lớn đội ngũ cán bộ còn mơ hồ, chưa thấu đáo và đầy đủ. Vì thế việc chuyển
đổi và thành lập mới HTX cịn mang nặng tính hình thức và thiếu những mơ
hình hoạt động có hiệu quả. Do hạn chế về nhận thức và đã quen với kiểu
HTX bao cấp, nhiều xã viên sau khi đóng góp cổ phần tỏ ra thở ơ, phó mặc
cơng việc cho ban quản lý HTX, có khi họ cịn qn mất mình đang là xã
viên. Bên cạnh những điển hình HTX làm ăn có lãi thì có tới 61,5% trong
tổng số HTX làm ăn khơng có lãi hoặc kém hiệu quả.
Thứ hai, vốn, cơ sở vật chất kĩ thuật của HTX còn yếu kém đang là
một trong những khó khăn lớn ảnh hưởng khơng nhỏ đến hoạt động của
HTX trong quá trình chuyển đổi và xây dựng mới.
Qua khảo sát 30 HTX ở Hải Dương, Nam Định, Hà Tây cho thấy :
Vốn bình quân 1 HTX chuyển đổi và xây dựng mới khoảng 500 triệu đồng,
trong đó tài sản cố định khoảng trên 400 triệu đồng, vốn lưu động trên 100
triệu đồng, vốn của HTX phần lớn đang bị chiếm dụng hoặc khoanh lại chờ
Nhà nước giải quyết. Khảo sát 15 HTX xếp loại khá bình qn vốn lưu động
có khoảng gần 200 triệu đồng, nhưng bị chiếm dụng đến 69,4%. Nhiều xã
viên nợ HTX chưa giải quyết xong nợ cũ thì nợ mới tiếp tục phát sinh trong
quá trình chuyển đổi.
Thực tế do vốn lưu động ít làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh
dịch vụ gặp nhiều khó khăn. Tình trạng đó dẫn đến HTX không mở rộng
được hoạt động dịch vụ, hiệu quả hoạt động thấp, khả năng đáp ứng nhu cầu
dịch vụ cho xã viên hạn chế. Hơn nữa, trong điều kiện mới khi HTX chuyển
sang các hoạt động gắn với cơ chế thị trường, thực hiện liên kết, hợp tác liên
doanh với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác... rất khó
khăn.
Đối với tài sản cố định sau khi được đánh giá lại từ HTX cũ chuyển
sang HTX mới, chủ yếu là cơng trình thuỷ nơng, cơng trình điện, hệ thống
máy móc cũ lạc hậu... đã xuống cấp nghiêm trọng.
Thứ ba, trình độ cán bộ quản lý HTX nơng nghiệp cịn bất cập so với
cơ chế quản lý mới. Sau chuyển đổi, bộ máy quản lý HTX đã được tinh giảm
gọn nhẹ hơn, nhưng nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý hầu hết hoạt động
theo kinh nghiệm thực tế, khơng được đào tạo cơ bản, ít được bồi dưỡng tập
huấn. Qua khảo sát 50 HTX ở các tỉnh phía Bắc (Hải Dương, Nam Định,
Hưng Yên, Bắc Giang) cho thấy trong tổng số 50 chủ nhiệm HTX có 6,3%
có trình độ đại học, 13,7% là trung cấp, 57,5% chưa qua đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ chuyên môn. Mặt khác năng lực nắm bắt thơng tin và có khả năng
dự báo thị trường, sự nhạy cảm linh hoạt để đáp ứng trước những yêu cầu đa
dạng phức tạp của cơ chế thị trường cịn có nhiều hạn chế. Một đặc điểm
khác của đội ngũ cán bộ quản lý HTX nông nghiệp là thường xun thay đổi
và vì vậy họ khơng n tâm cơng tác. Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ quản lý
ln ở trong tình trạng thiếu cán bộ có năng lực và kinh nghiệm trong công
tác quản lý.
c,Một số giải pháp:
Thứ nhất, xuất phát từ chính bản thân các HTX: Chấn chỉnh và đổi
mới trong từng HTX, Liên hiệp HTX để đảm bảo các nguyên tắc, giá trị của
HTX, theo các quy định của Luật HTX và đúng tính chất là một tổ chức
kinh tế cộng đồng theo các nguyên tắc tự chủ, tự quản và tự chịu trách
nhiệm; đổi mới cả về tổ chức, cơ chế quản lý, phương thức phân phối và
phát huy dân chủ, phục vụ tốt nhất nhu cầu đa dạng của các hộ thành viên.
Huy động mọi nguồn lực cho phát triển, trong đó chú trọng đầu tư vào ứng
dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin để phát triển sản xuất kinh
doanh. Từng bước phát triển HTX với quy mô lớn hơn, đạt hiệu quả kinh
doanh cao hơn và tăng cường tích tụ nguồn vốn sở hữu tập thể trong HTX.
Tập hợp và huy động được đội ngũ cán bộ chủ chốt HTX có năng lực và
phẩm chất, tận tâm và nhiệt tình với cơng việc. Chú trọng đào tạo bồi dưỡng
nguồn nhân lực trong HTX; bồi dưỡng cho xã viên về lý tưởng, lối sống