Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Quan hệ vật chất – ý thức vận dụng phân tích mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới tư duy trong công cuộc đổi mới kinh tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.93 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm là một nước nông
nghiệp, nghèo nàn lạc hậu, cuộc sống người dân gặp nhiều khó khăn. Do đó, yêu
cần đặt ra là Đảng ta phải có những chính sách đổi mới kinh tế phù hợp, đúng đắn.
Sự nghiệp đổi mới của nước ta đang diễn ra trong những điều kiện phát sinh
mới, đòi hỏi nước ta phải nhận thức và giải quyết nhiều vấn đề phức tạp khơng chỉ
trong nước, mà cịn mang tính quốc tế. Thực tế cho thấy những vấn đề kinh tế,
chính trị…nảy sinh trong q trình đổi mới khơng thể giải quyết chỉ bằng triết học,
nhưng cũng khơng thể giải quyết hồn hảo nếu thiếu tư duy biện chứng Mác –
Lênin. Vì vậy, triết học biện chứng duy vật là một trong những điều kiện quan
trọng góp phần vào thành cơng của sự nghiệp đổi mới. Khi Đảng ta nâng cao hiệu
quả vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, những phép biện
chứng duy vật khi đó cách mạng nước ta giành thắng lợi to lớn. Ngược lại, khi các
phép biện chứng duy vật không được vận dụng triệt để, sáng tạo trong việc đề ra
các quyết định chính trị và trong việc chỉ đạo thực hiện thì kết quả của cách mạng
bị hạn chế.
Việc đi sâu tìm tịi, tiếp thu quan điểm quý báu của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó nổi bật là phép biện chứng duy vật nói cung và
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức nói riêng, đồng thời phát triển sáng tạo
nó trong điều kiện mới, phù hợp với hồn cảnh Việt Nam, từ đó làm cơ sở cho
Đảng hoạch định đường lối, tổ chức thực hiện kế hoạch đổi mới đất nước là hết sức
cần thiết.
Chính vì lý do trên, nhóm chúng em đã chọn nghiên cứu đề tài: “Quan hệ
vật chất – ý thức vận dụng phân tích mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi
mới tư duy trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam”. Với mục tiêu nhận thức
1


sâu sắc mối quan hệ biện chứng vật chất – ý thức cũng như hoạt động vận dụng
sáng tạo quan hệ này vào sự thành công của công cuộc đổi mới kinh tế.


2


PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất
1.1.

Khái niệm vật chất

1.1.1. Quan điểm trước Mác về vật chất
Chủ nghĩa duy tâm quan niệm bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên của mọi
tồn tại là bản nguyên tinh thần, còn vật chất là sản phẩm của bản nguyên tinh thần
ấy. Chủ nghĩa duy tâm phủ nhận vật chất với tính cách là thực tại khách quan, cho
rằng thế giới vật chất là tạo vật của thượng đế, hoặc là “sự phức hợp” những cảm
giác của con người.
Chủ nghĩa duy vật cổ đại đã đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ thể
của vật chất. Thí dụ: nước (quan niệm của Talet); khơng khí (quan niệm
Anaximen); lửa (quan niệm của Hêraclit); nguyên tử (quan niệm của Đêmôcrit);
đất, nước, lửa, gió (quan niệm của triết học Ấn Độ); kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (quan
niệm trong Thuyết ngũ hành ở Trung Quốc).
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII đồng nhất vật chất với nguyên tử và
khối lượng. Với quan niệm vật chất là một hay một số chất tự có, đầu tiên, sản sinh
ra vũ trụ chứng tỏ các nhà duy vật trước C.Mác đã đồng nhất vật chất với vật thể.
Hạn chế này tất yếu dẫn đến quan điểm duy vật nửa vời, không triệt để. Họ chỉ duy
vật khi giải quyết những vấn đề của tự nhiên nhưng lại duy tâm thần bí khi giải
thích các hiện tượng xã hội.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một loạt phát minh khoa học làm cho các
quan điểm duy vật siêu hình rơi vào khủng hoảng. Nhiều phát minh trong vật lý

học thời kỳ này đã làm đảo lộn quan niệm cũ về vật chất. Trong hoàn cảnh đó, các
nhà triết học duy tâm chủ quan lợi dụng cơ hội này để khẳng định bản chất “phi vật
3


chất” của thế giới, khẳng định vai trò của các lực lượng siêu nhiên đối với quá
trình sáng tạo ra thế giới, cơ sở tồn tại của chủ nghĩa duy vật khơng cịn nữa.

1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, tổng kết những thành tựu khoa
học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Từ định nghĩa vật chất của Lênin có thể khẳng định:
- Thứ nhất, cần phải phân biệt “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học
với những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất. Vật chất với tư cách là phạm trù triết
học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối
liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô
tận, không sinh ra, khơng mất đi; cịn tất cả những sự vật, hiện tượng chỉ là những
dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có q trình phát sinh, phát triển và
chuyển hóa. Vì vậy, khơng thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu
hiện cụ thể của vật chất.
- Thứ hai, đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan,
tức là thuộc tính tồn tại ngồi ý thức, độc lập, khơng phụ thuộc vào ý thức con
người, dù con người có nhận thức được nó hay khơng.
- Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên
cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con


4


người. Ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái
được ý thức phản ánh.
1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức
tồn tại của vật chất; khơng gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là
một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao
gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi
vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Định nghĩa trên của Ph.Ăngghen cho thấy vận động là phương thức tồn tại
của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, thông qua vận động mà các dạng cụ
thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật chất là tự thân vận
động và sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vận động.
Vật chất chỉ có thể tồn tại trong vận động, bằng cách vận động, khơng thể có
vật chất khơng vận động, cũng như khơng thể có vận động ngồi vật chất. Các
thuộc tính của vật chất chỉ biểu hiện thơng qua vận động.
Ph.Ăngghen viết: “Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có
thể nhận thức được thơng qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận
động; về một vật thể khơng vận động thì khơng có gì mà nói cả” (Sđd, t.20, tr.743)
Dựa trên những thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ph.Ăngghen phân chia
vận động thành năm hình thức vận động cơ bản:
Vận động cơ giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong khơng gian.
Vận động vật lý là vận động của phân tử, của các hạt cơ bản, vận động của
nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh…
Vận động hóa học là sự vận động của các nguyên tử; sự hóa hợp và phân giải
của các chất.

5


Vận động sinh vật là vận động của các cơ thể sống như sự trao đổi chất, đồng
hóa, dị hóa, sự tăng trưỏng, sinh sản, tiến hóa, …
Vận động xã hội là sự thay đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa…của đời sống xã hội.
Các hình thức vận động cơ bản trên được sắp xếp theo thứ tự từ trình độ thấp
đến trình độ cao, tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận
động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật
thiết với nhau trong đó hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức
vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự
tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song
bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó
có. Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ph.Ăngghen đã đặt cơ sở
cho việc phân loại, phân ngành, hợp loại, hợp ngành khoa học.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn
nhưng điều đó khơng có nghĩa là phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song đứng im,
cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ
là một trạng thái đặc biệt của vận động.
Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy trong một số quan hệ
nhất định, chứ không phải trong tất cả mọi quan hệ. Đứng im, cân bằng chỉ xảy ra
trong một hình thức vận động.
Đứng im là tạm thời vì đứng im khơng phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ
tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ là xét trong một hay một số quan hệ nhất
định, ngay trong đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định. Đứng im
là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định,
vận động chưa làm thay đổi cơ bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Quan điểm siêu hình coi khơng gian là một cái hịm rỗng trong đó chứa vật

chất. Có khơng gian và thời gian khơng có vật chất. Có sự vật, hiện tượng khơng
tồn tại trong không gian và thời gian.
6


Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn
tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất
định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới,
bên phải hay bên trái, …) với những dạng vật chất khác.
Những hình thức tồn tại như vậy gọi là khơng gian. Mặt khác sự tồn tại của
sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển
hóa,… những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Ph.Ăngghen cho rằng: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian
và thời gian; tồn tại ngồi thời gian thì cũng hết sức vơ lý như tồn tại ở ngồi
khơng gian”, do đó có thể hiểu:
- Vật chất, khơng gian và thời gian khơng tác rời nhau, khơng có khơng gian
và thời gian khơng có vật chất cũng như khơng thể có sự vật, hiện tượng tồn tại
ngồi khơng gian và thời gian.
- Khơng gian, thời gian có những tính chất chung như những tính chất của
vật chất đó là tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính vơ tận và vơ hạn.
- Khơng gian có thuộc tính ba chiều (chiều cao, chiều dài, chiều rộng) cịn
thời gian chỉ có một chiều (từ q khứ đến tương lai). Tính ba chiều của khơng
gian và tính một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng tính và
q trình diễn biến của vật chất vận động.
2. Ý thức
2.1. Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu
óc con người, là "hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan".
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, không phải là sự sao chép đơn
giản, máy móc. Tính sáng tạo của phản ánh ý thức thể hiện ở chỗ ý thức có khả

năng phản ánh bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng; ý thức con người có khả
năng biến đổi hình ảnh (cảm tính và lý tính) của sự vật trong đầu óc của mình, tạo
ra mơ hình mới để từ đó biến đổi sự vật trong hoạt động thực tiễn.
7


Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức là hình ảnh của
thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định cả về nội dung và hình thức
biểu hiện nhưng nó khơng cịn y nguyên như thế giới khách quan mà đã được cải
biến thơng qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm,
tri thức, nhu cầu…) của con người. Theo C.Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất
được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”
Ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại
của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, không những chịu tác động của các
quy luật sinh học mà còn chủ yếu là các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã
hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý
thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.

2.2. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu phức tạp, có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu về kết cấu của
ý thức. Nếu tiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố cơ bản nhất hợp thành nó
thì ý thức bao gồm: tri thức, tình cảm, ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan trọng
nhất.
Tri thức là toàn bộ sự hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu
hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương tiện tồn tại của
ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức về tự nhiên,
tri thức xã hội, tri thức nhân văn.

Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức tri thức được chia thành: tri thức
đời thường, tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm
tính và tri thức lý tính.

8


Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các quan
hệ. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, hình thành từ sự
khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại
cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người,
là động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn. Tùy vào từng đối tượng
nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó trong các quan hệ mà
hình thành nên các loại tình cảm khác nhau như tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm
mỹ, tình cảm tơn giáo…
Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở
trong quá trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động
của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác
được mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình và ngoại cảnh để thực
hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song
tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là
nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các
yếu tố khác.

2.3. Nguồn gốc của ý thức
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng ý thức ra đời là kết quả của q trình
tiến hóa lâu dài của tự nhiên và xã hội. Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự
nhiên và nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: Thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con

người và hoạt động của bộ óc đó cùng mối quan hệ của con người với thế giới
khách quan, trong đó thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá
trình phản ánh năng động, sáng tạo.
Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ
óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc.
Bộ não người là kết quả của q trình tiến hóa lâu dài của giới sinh vật. Bộ óc càng
9


hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức con
người càng phong phú và sâu sắc. Bộ não của động vật chỉ đạt đến trình độ phản
xạ, bản năng, tâm lý động vật, trong khi đó bộ óc người có khả năng phản ánh thế
giới bằng tư duy trừu tượng.
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản
ánh năng động, sáng tạo: Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới khách
quan, thông qua hoạt động của các giác quan, thế giới khách quan tác động đến bộ
óc người, hình thành q trình phản ánh.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại với nhau giữa chúng.
Những đặc điểm được tái tạo ở dạng vật chất nhận sự tác động bao giờ cũng
mang thông tin của dạng vật chất tác động được gọi là cái phản ánh; còn dạng vật
chất tác động được gọi là cái được phản ánh. Cái phản ánh và cái được phản ánh
không tách rời nhau, không đồng nhất với nhau. Cái được phản ánh là những dạng
cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh chỉ là đặc điểm chứa đựng thông tin của dạng
vật chất đó ở một dạng vật chất khác.
Nguồn gốc xã hội của ý thức: ý thức không thể tồn tại ngồi não người; tuy
nhiên, ý thức khơng phải do não sinh ra. Não chỉ là cơ quan thực hiện chức năng
phản ánh. Để có ý thức phải có não người và thế giới khách quan. Ngồi ra cịn
phải có những điều kiện xã hội nữa đó là: lao động, ngơn ngữ.
Lao động là q trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên

nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu con người; là q trình trong
đó bản thân con người đóng vai trị mơi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa
mình với giới tự nhiên.
Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, làm
cho thế giới khách quan bộc lộ ra những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật
vận động của nó biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể
quan sát được. Những hiện tượng ấy thông qua hoạt động của các giác quan, tác

10


động vào bộ óc con người, tạo ra khả năng hình thành những tri thức nói riêng và ý
thức nói chung.
Lao động cịn là q trình phát triển bản thân con người, biến vượn thành
người. Trong lao động con người phải suy nghĩ, tính tốn đề ra mục đích, tìm kiếm
phương pháp và phương tiện thực hiện mục đích, đúc rút kinh nghiệm thành cơng
và thất bại. Đó chính là phương thức phát triển của ý thức. Như vậy, sự ra đời của
ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thơng qua q trình lao
động.
Ngơn ngữ: Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thơng tin mang
nội dung ý thức. Khơng có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện. Sự ra
đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Mối quan hệ giữa các thành viên trong quá
trình lao động làm nảy sinh nhu cầu phải có phương tiện để biểu đạt, nhu cầu này
làm ngôn ngữ nảy sinh.
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy trừu tượng, là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất, nhờ ngôn ngữ con người có thể tổng kết tri thức, kinh nghiệm, truyền
đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
3.1.


Tác động của vật chất đối với ý thức

Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là
cái có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là
sự phản ánh đối với vật chất.
Ý thức của con người không phải là sản phẩm chủ quan thuần t, cũng
khơng phải có nguồn gốc từ một lực lượng siêu tự nhiên. Nó là kết quả của sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên và xã hội của ý thức đều do bản
thân thế giới vật chất hoặc những dạng tồn tại của vật chất tạo ra, do đó vật chất là
nguồn gốc của ý thức
11


Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức; sự biến đổi của ý thức
là sự phản ánh đối với sự biến đổi của vật chất. Vật chất khơng chỉ quyết định nội
dung mà cịn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý
thức.
Trong hoạt động của con người, những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao
giờ cũng giữ vai trị quyết định, chi phối và quy định mục đích hoạt động của con
người vì nhân tố vật chất quy định khả năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia
vào hoạt động của con người, tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần hoặc nhân tố tinh
thần khác biến thành hiện thực và quy đó quy định mục đích chủ trương biện pháp
mà con người đề ra cho hoạt động của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa bổ sung
cụ thể hóa mục đích chủ trương biện pháp đó.
3.2.

Tác động của ý thức đối với vật chất

Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông

qua hoạt động thực tiễn của con người:
Vai trò của ý thức đối với vật chất thực chất là vai trò của con người. Bản
thân ý thức tự nó khơng trực tiếp làm thay đổi được hiện thực, muốn thay đổi hiện
thực cần phải có hoạt động vật chất. Song do mọi hoạt động của con người đều
được ý thức chỉ đạo, nên ý thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách
quan trên cơ sở đó giúp con người xác định mục tiêu, phương hướng, lựa chọn biện
pháp, công cụ ... để thực hiện mục tiêu của mình.
Hoạt động nhận thức của con người bao giờ cũng hướng đến mục tiêu cải
biến tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu sống. Hơn nữa, cuộc sống tinh thần của con
người xét đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào việc thỏa mãn nhu cầu vật chất và
vào những điều kiện vật chất hiện có, khẳng định vai trị cơ sở, quyết định trực tiếp
nhân tố vật chất, triết học Mác – Lênin đồng thời cũng khơng coi nhẹ vai trị của
nhân tố tinh thần, tính năng động chủ quan. Nhân tố ý thức có tác động trở lại quan
trọng đối với nhân tố vật chất. Hơn nữa, trong hoạt động của mình, con người
12


không thể tạo ra các đối tượng vật chất, cũng không thể thay đổi được những quy
luật vận động của nó.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc
tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có nghị lực, ý chí,
hành động hợp quy luật khách quan thì có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn,
cải tạo được thế giới, đạt được mục đích của mình.
Nếu ý thức phản ánh sai hiện thực khách quan, khiến cho hành động của con
người đi ngược lại quy luật khách quan thì những tác động ấy sẽ mang lại tác động
tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, kìm hãm sự phát triển xã hội.
Chính vì thế, trong hoạt động thực tiễn, ngoài việc nhận thức đúng quy luật
khách quan, cịn cần phải phát huy cao độ tính năng động chủ quan, đồng thời
chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, chống lại những tư
tưởng lạc hậu, phản động, phản khoa học.

4. Ý nghĩa phương pháp luận
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới; bản chất năng động,
sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức có thể rút ra
ý nghĩa phương pháp luận là: Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi
phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo khách quan
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan là xuất phát
từ tính khách quan của vật chất, có thái độ tơn trọng hiện thực khách quan mà căn
bản là tôn trọng quy luật; nhận thức và hành động theo quy luật khách quan. Trong
nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác
định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải
lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất,
tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trị tích cực, năng động,
sáng tạo của ý thức và nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực,
năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa
13


học, mặt khác phải tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học đồng
thời phải tu dưỡng rèn luyện bản thân mình về đạo đức, ý chí, nghị lực.
Đảm bảo nguyên tắc tính thống nhất biện chứng giữa tôn trọng khách quan
và phát huy năng động chủ quan trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải khắc phục
bệnh chủ quan duy ý chí, chủ nghĩa kinh nghiệm, coi thường tri thức khoa học, ...
trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.

14


5.

PHẦN II
VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Tình hình kinh tế Việt Nam trước thời kỳ đổi mới
Chiến thắng của Việt Nam sau 30/4/1975 là niềm vui thống nhất cả giang
sơn về một mối. Nhưng hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài để lại những khó
khăn khơng nhỏ cho nhân dân Việt Nam: 1,1 triệu liệt sĩ, 60 vạn thương binh, 30
vạn người mất tích, gần 2 triệu người dân bị thiệt mạng, hơn 2 triệu người dân bị
tàn tật và nhiễm chất độc hoá học... Hai cuộc chiến tranh biến giới phía Bắc (1979)
và biên giới phía Tây Nam (1978) lấy đi thêm nhiều tài lực, vật lực của đất nước
khiến cho nền kinh tế của Việt Nam đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Mà hậu
quả của nó là nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng tồn diện, lạm phát tăng
phi mã (774,7%) năm 1986, nền công nghiệp lạc hậu, nơng nghiệp đình đốn.
Bên cạnh đó, do những khuyết điểm chủ quan trên các lĩnh vực nhất là việc
chỉ đạo và thực hiện xây dựng kinh tế xã hội. Mô hình kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp bộc lộ nhiềukhuyết điểm yếu kém. Nền kinh tế đất nước rơi vào tình trạng
trì trệ, lạc hậu, khủng hoảng: Cơng nghiệp yếu kém, manh mún thiếu rất nhiều
ngành công nghiệp tiêu dùng... Nền nông nghiệp không đủ chi dùng trong nước,
phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thường xuyên khiến cho
cán cân xuất nhập khẩu luôn thâm hụt mất cân đối, thu không đủ chi, dẫn đến phải
đi vay từ nước ngồi. Tính chung trong năm 5 năm 1981 - 1985, nguồn vay từ
nước ngoài chiếm 22,4% thu ngân sách quốc gia. Số nợ nhiều như vậy nhưng bội
chi ngân sách vẫn lớn và tăng dần: Năm 1980 là 1,8%, năm 1985 là 36,6%. Do bội
chi nhiều như vậy nên Chính phủ buộc phải phát hành thêm tiền mặt để bù đắp.
15


Cùng với việc không cân đối được từ thu và chi, do nguồn thu khơng có vì khơng
có sản phẩm cơng nghiệp xuất khẩu. Cộng vào đó là sai lầm về chính sách cải cách
giá, lương, tiền đã làm cho nền kinh tế rơi tự do khơng kiểm sốt được dẫn đến

xuất hiện siêu lạm phát ở mức 774,7% (1986), kéo theo giá cả leo thang vơ phương
kiểm sốt.
Trong thời kỳ 1960 – 1985, nước ta đã nhận thức và tiến hành cơng nghiệp
hóa theo kiểu cũ với những đặc trưng:
- Cơng nghiệp hóa theo mơ hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên
về phát triển cơng nghiệp nặng.
- Chủ yếu dực vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ
của các nước xã hội chủ nghĩa, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà
nước và các doanh nghiệp nhà nước, việc phân bổ nguồn lực để cơng
nghiệp hóa chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu trong
nền kinh tế thị trường.
- Tiến hành cơng nghiệp hóa một cách nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý
chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã
hội.
- Xác định cơng nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá
độ nhưng chưa làm rõ mục tiêu, bước đi, biện pháp, những điều kiện cần
thiết của cơng nghiệp hóa.
Điều này dẫn đến thực trạng cơ sở vật chất kỹ thuật nước ta còn hết sức lạc
hậu, những ngành cơng nghiệp then chốt cịn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng
bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân. Lực lượng sản
xuất trong nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông nghiệp chưa đáp ứng
được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội.

16


Đời sống nhân dân nhất là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang gặp
nhiều khó khăn. Tiêu cực xã hội phát triển, công bằng bị vi phạm, pháp luật kỳ
cương xã hội không nghiêm minh, cán bộ tham nhũng lộng quyền, bọn làm ăn phi
pháp không bị trừng trị kịp thời và nghiêm khăc. Quần chúng giảm lòng tin với sự

lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước.
Cuối những năm 80, tình hình kinh tế - xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa Đơng Âu anh em cũng hết sức khó khăn và diễn ra ngày càng phức tạp.
Tình hình thế giới có nhiều thay đổi, cuộc chạy đua phát triển kinh tế đã lôi kéo
các nước vào cuộc. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta nhận biết được xu thế
của thế giới và nhìn thấy nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế so với thế giới
nếu khơng phát triển đất nước.
2. Chính sách đổi mới kinh tế đúng đắn của Việt Nam
Thực tiễn tình hình trong nước và quốc tế đặt ra một yêu cầu khách quan,
bức xúc có ý nghĩa sống cịn đối với sự nghiệp các mạng nước ta, là để làm xoay
chuyển được tình thế, tạo ra một sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định trên bước
đường đi lên. Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo và chỉ đạo một cách mạnh mẽ. Đại
hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) được chuẩn bị và đáp ứng những yêu cầu đó.
Từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, đã diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh
giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiêm khắc kiểm
điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích những sai
lầm, khuyết điểm, rút ra bốn bài học kinh nghiệm lớn và đề ra đường lối đổi mới
toàn diện, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, mở ra bước ngoặt mới trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

17


Đổi mới toàn diện ở Việt Nam bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là tư duy
kinh tế để đi đến xác định một mơ hình mới về chủ nghĩa xã hội trong thời đại mới.
Đổi mới tư duy được xác định trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để có nhận thức đúng về chủ nghĩa xã
hội khoa học và vận dụng nó trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản, phù hợp với đặc điểm tình hình của Việt Nam.

Trong quá trình đổi mới, Việt Nam coi đổi mới kinh tế là cơ bản, đổi mới
về chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa
phải làm đồng thời nhưng có bước đi vững chắc, đồng thời phải sẵn sàng đập tan
mọi âm mưu của các thế lực thù địch nhằm xuyên tạc, phá hoại công cuộc đổi mới.
Trong đổi mới về kinh tế, Việt Nam khẳng định sự nhất quán phải đổi mới cơ bản
về chính sách và cơ chế quản lý kinh tế, từng bước tạo lập trật tự và cơ chế kinh tế
mới, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Mục tiêu bao trùm đặt ra cho công cuộc đổi mới được Đại hội VI xác định
là: “ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, bảo đảm những nhu cầu thiết yếu
cho nhân dân, xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh cơng nghiệp
hố xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”, từng bước đưa đất nước thoát
khỏi tình trạng khủng hoảng và đi lên, củng cố vững chắc quốc phòng và an ninh.
Tư tưởng chủ đạo của đường lối đổi mới kinh tế là: giải phóng mạnh mẽ
mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác tốt và có hiệu quả mọi khả năng của đất
nước, của mọi thành phần kinh tế; trên cơ sở phát huy các nguồn lực trong nước là
chính, mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút mạnh mẽ và có hiệu quả các nguồn lực từ
bên ngồi; hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý; phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất đi đôi với xây dựng và đổi mới quan hệ sản xuất (cả về quan hệ sở hữu, quan
hệ quản lý và quan hệ phân phối) nhằm bảo đảm cho quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự phát
18


triển. Mọi sự tăng trưởng và phát triển đều hướng tới “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng và văn minh”.
Đại hội VI xác định những mục tiêu cụ thể về kinh tế-xã hội cho những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ;
- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất;
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính

chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
- Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội;
- Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
3. Thành tựu đạt được của công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Đổi mới ở Việt Nam là quá trình thử nghiệm, trong quá trình này cái mới và
cái cũ xen kẽ nhau, cái cũ không mất đi ngay mà lùi dần, có lúc, có nơi còn chiếm
ưu thế hơn cái mới, nhưng xu hướng chung là cái mới dần dần được khẳng định và
đưa tới thành công. Điểm nổi bật của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là ln ln
lấy sự ổn định chính trị - xã hội làm tiền đề, làm điều kiện tiên quyết cho sự nghiệp
đổi mới, phát triển và chính sự phát triển đó sẽ tạo ra sự ổn định mới vững chắc
hơn.
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội
kéo dài nhiều năm, khắc phục được nạn lạm phát có lúc trên 700% (năm 1986)
xuống mức lạm phát 12% (năm 1995) và từ đó đến nay lạm phát chỉ cịn một con
số; khắc phục được nạn thiếu lương thực trước đây và hiện nay kinh tế phát triển
liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo
thứ hai trên thế giới.
19


Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nhằm mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Cùng với tăng trưởng kinh tế, trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã chú ý
đến việc thực hiện chính sách cơng bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo. Nhờ đó, đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện một bước đáng kể. Tích cực
hội nhập quốc tế, mở cửa thị trường thương mại, thúc đẩy hoạt động xuất nhập
khẩu, tạo cơ hội tiếp cận với những khoa học công nghệ hiện đại mới, những kinh
nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới.
Một đặc điểm khác đáng chú ý nữa là sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã xác
định đổi mới kinh tế là trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về kinh tế. Nhờ

định hướng đúng đắn mà những yêu cầu cấp thiết của nhân dân ta về sản xuất và
đời sống được giải quyết, đem lại sự tin tưởng của nhân dân đối với sự nghiệp đổi
mới, tự nó trở thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới giành nhiều thắng lợi.
Điều này càng làm nổi bật lên tác động qua lại của mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức trong công cuộc đổi mới đất nước.
Đổi mới là sự nghiệp hết sức khó khăn, nhưng thực tiễn những năm qua đã
chứng minh cho đường lối đổi mới, chủ trương chính sách về đổi mới mà Đảng và
Nhà nước ta đang áp dụng là đúng đắn, thích hợp, có được điều này nhờ Đảng và
Nhà nước ngày càng nắm vững, vận dụng sáng tạo phương pháp luận triết học của
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

20



×