Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tiểu luận: VỊ THẾ CỦA ĐỒNG USD VÀ VẤN ĐỀ ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.05 KB, 15 trang )

1





\\





Tiểu luận

VỊ THẾ CỦA ĐỒNG USD VÀ VẤN ĐỀ
ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM

















2






LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, xu thế toàn cầu hóa đã đẩy mạnh xuất khẩu và đầu tư ra
nước ngoài, dẫn đến những thay đổi về qui mô và quyền lực tài chính giữa các nước
phát triển và đang phát triển.
Trong khi nền kinh tế Mỹ đã đóng vai trò chính trong nền kinh tế thế giới suốt từ sau
thế chiến thứ 2 cho đến những năm 1990, từ cuối thế kỷ qua đã chứng kiến sự nổi lên
của một số nền kinh tế lớn như: Trung Quốc, Nhật Bản….Những thay đổi về kinh tế,
chính trị đã gây ra nhiều biến động cho đồng đô la Mỹ.
Hiện nay, cả thế giới đang theo dõi từng biến động của đồng USD và đã đưa ra nhiều
kịch bản cho sự biến động của đồng tiền này. Bởi lẽ, mặc dù đang có chiều hướng đi
xuống nhưng USD vẫn là đồng tiền đóng vai trò chủ đạo trong các giao dịch quốc tế
và kinh tế của Mỹ vẫn chiếm giữ vị trí số 1 của kinh tế toàn cầu. Nhận thấy đây là một
đề tài mang tính thời sự và có “sức nóng”, nhóm tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Vị
thế đồng USD, vấn đề đô la hóa ở Việt Nam”.
1. Vị thế của đồng đô la qua các thời kỳ
1.1. Các tiêu chí để đánh giá vị thế của một đồng tiền
Vị thế một đồng tiền ảnh hưởng bởi khá nhiều các yếu tố, tuy nhiên tổng hợp bởi 4 yếu
tố sau:
- Nhân tố dự trữ ngoại hối của quốc gia: một đồng tiền có vị thế lớn sẽ có tỷ trọng
cao trong quỹ dự trữ ngoại hối của các quốc gia. Ví dụ USD chiếm 60-70% trong rổ
dự trữ của Anh. Đồng USD đã được sử dụng làm dự trữ và thanh toán quốc tế trong
một khoảng thời gian dài. Để thay đổi một thói quen không dễ dàng và càng không

đơn giản khi nó động chạm tới lợi ích của nhiều quốc gia. Như Trung Quốc đang có
dự trữ ngoại hối rất lớn bằng đồng USD, tuy họ luôn kêu gọi giảm bớt vai trò của đồng
USD nhưng khi USD giảm giá thì người thiệt hại đầu tiên là Trung Quốc
- Tỷ trọng trong thanh toán và tín dụng quốc tế: Các giao dịch nhiều quốc gia được
quy đổi ra đồng tiền đó, và số lượng giao dịch và lớn. Nhiều thập kỷ qua, đồng đôla
vẫn là đồng tiền các nước trên thế giới có xu hướng sử dụng trong kinh doanh. Hầu hết
các ngân hàng trung ương trên thế giới giữ phần lớn lượng dự trữ ngoại tệ bằng đồng
đôla, mặt khác, hầu hết các hàng hóa được giao dịch trên toàn cầu (như dầu lửa) cũng
được định giá bằng đồng tiền của nước Mỹ này
- Yếu tố lòng tin của người dân vào giá trị đồng tiền đó: Đồng yếu đó được nhiều
quốc gia chấp nhận và sử dụng nhiều trong giao dịch quốc tế.
- Lãi suất Trái phiếu Chính phủ mà nước đó ban hành
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến vị thế của đồng USD
a) Thông tin kinh tế
3

Chỉ số kinh tế là những con số thể hiện sức khỏe của nền kinh tế, của các thị
trường riêng biệt (thị trường nhà, thị trường bán lẻ)…của một quốc gia/nhóm các quốc
gia. Tuy nhiên, không phải chỉ số kinh tế nào cũng quan trọng và có tác động mạnh
đến thị trường.
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): Bất cứ một quốc gia nào cũng muốn duy trì
một nền kinh tế tăng trưởng cùng với sự ổn định tiền tệ và công ăn việc làm cho dân
cư mà GDP là một trong những tín hiệu cụ thể của những nỗ lực của chính phủ. Vì thế
việc nghiên cứu khuynh hướng của sự tăng trưởng GDP, tỉ lệ thất nghiệp cũng như tỉ
lệ lạm phát giúp chính phủ có thể thay đổi chính sách tiền tệ để đạt được những mục
tiêu đã đề ra. Ví dụ khi có thông tin GDP của nước nào đó tăng lên thì đó là tin tốt cho
đồng tiền nước đó… Thêm vào đó, khi nghiên cứu GDP, cần chú ý đến các chỉ số sau:
 Sản lượng công nghiệp (Industrial Production): Vì giá trị của ngành công
nghiệp chiếm một tỉ trọng lớn trong GDP nên một sự thay đổi nhỏ của
chỉ số này cũng có thể gây ra những thay đổi lớn về tốc độ tăng trưởng

GDP và vì thế sẽ ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ của mỗi quốc gia.
 Số lượng hàng hóa bán lẻ (Retail sales): Bằng việc theo dõi số lượng
hàng hóa bán lẻ trong một thời gian nhất định chính phủ có thể đánh giá
được một cách gần chính xác sự tăng trưởng của việc tiêu dùng cá nhân
của dân cư, mà việc tiêu dùng của xã hội đóng góp rất lớn vào giá trị của
GDP.
- Chỉ số giá cả tiêu dùng(CPI): Là một trong những chỉ số kinh tế quan trọng
của một quốc gia. Vì vậy sự gia tăng nhanh hoặc giảm nhanh của lạm phát là một dấu
hiệu cho thấy rất có khả năng có một sự thay đổi trong chính sách tiền tệ.
- Hàng tồn kho (Inventories): Tỉ lệ hàng tồn kho là một yếu tố quan trọng đối
với sự phát triển của nền kinh tế. Ví dụ nếu tỉ lệ tồn kho tăng cao tức là sức mua trong
nền kinh tế đang có chiều hướng giảm sút sẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
hàng hóa trong nền kinh tế và ngược lại.
- Ngoài ra trên thị trường còn có rất nhiều các chỉ số quan trong khác mà bất cứ
một dealer nào cũng quan tâm như: cung tiền M2, chỉ số thất nghiệp, doanh số nhà
mới khởi công, doanh số bán nhà hiện có, đơn hàng nhà máy, đơn hàng hoá lâu bền,
chi tiêu tiêu dùng, thu nhập cá nhân, bảng lương phi nông nghiệp, chỉ số ISM ngành
sản xuất và dịch vụ, cán cân thương mại…
b) Các chính sách lãi suất
Federal Reserve Bank ( FED): Cục dự trữ liên bang Mỹ.
Được toàn quyền thiết lập chính sách tiền tệ của Mỹ với mục tiêu tăng trưởng
kinh tế cao và lạm phát thấp. chính sách chính của FED được thể hiện ở hoạt động thị
trường mở, lãi suất chiết khấu ( Discuont rate), lãi suất mục tiêu (Fed Fund rate).
Federal Open Market Committee ( FOMC): ủy ban điều hành thị trường mở,
chịu trách nhiệm ra quyết định điều hành chính sách tiền tệ, quan trọng là công bố lãi
suất cơ bản 8 lần/ năm. 12 thành viên của hội đồng bao gồm 7 thành viên của hội đồng
thống đốc ( Board of Governors), chủ tịch của ngân hàng dự trữ New York ( Federal
Reserve Bank of New York), và 4 thành viên còn lại được luân phiên giữa chủ tịch 11
Ngân hàng dự trữ còn lại.
4


Fed fund Rate (lãi suất mục tiêu, lãi suất cơ bản của đồng USD): đây là mức lãi
suất quan trọng nhất, nó là mức lãi suất mà các tổ chức tài chính sử dụng cho những
khoản vay nợ hay gửi tiền qua đêm. Thông thường khi có sự thay đổi trong mức lãi
suất này ám chỉ dấu hiệu sự thay đổi trong chính sách tiện tệ của Fed. Những thông
báo liên quan tới vấn đề này gây ảnh hưởng rất lớn lên thị trường chứng khoán, trái
phiếu, thị trường ngoại hối.
Discount rate (lãi suất chiết khấu): lãi suất mà Fed áp dụng cho ngân hàng
thương mại khi vay lại Fed, sự thay đổi trong mức lãi suất này cũng ám chỉ đến chính
sách tiền tệ của Fed. Thông thường discount rate thấp hơn Fed Fund rate.
Công bố của Cục dự trư Liên bang Mỹ (FED):
Uỷ ban kiểm soát thị trường tự do của Fed thường bỏ phiếu biểu quyết 8 năm
một lần.
Kết quả của các cuộc bỏ phiếu của (BoE; ECB hay FED) sẽ được công bố
nhanh chóng. Nó thường đi kèm với một vài lời bình luận vắn tắt về tình hình kinh tế
và các nhân tố tác động. Mức lãi suất thường được quyết định dựa trên tình hình lạm
phát. Mục đích là để giữ cho giá cả ổn định, vì thế khi lạm phát tăng trên mức lãi suất
của năm 2% thì các ngân hàng này thường cũng tăng lãi suất để kìm giá xuống. Mức
lãi suất cao sẽ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, làm gia tăng nhu cầu chuyển đổi
ngoại tệ để lấy nội tệ. Có thể nói rằng xu hướng gia tăng của lãi suất có tác động tích
cực lên nền kinh tế của quốc gia.
*)Trái phiếu và lãi suất kỳ hạn 3 tháng của USD
-10 year treasury note: lãi suất trái phiếu 10 năm.
Sau khi phát hành trái phiếu kỳ hạn 30 năm chấm dứt vào tháng 10/2001. Trái
phiếu kỳ hạn 10 năm trở thành tiêu chuẩn cho mức lãi suất dài hạn. Đó là dấu hiệu
quan trọng nhất trên thị trường về tín hiệu lạm phát. Thông thường thị trường dùng
mức lợi tức ( hơn là giá) để xác định mức độ trái phiếu. Giá trái phiếu có tỷ lệ nghịch
chiều với tỷ lệ lãi suất.
Không có mối quan hệ rõ ràng giữa trái phiếu dài hạn và đồng USD tuy nhiên có thể
sử dụng ý tưởng sau: một sự sụt giảm trong giá trị của trái phiếu ( do lợi tức tăng)

thông thường do tác động của lạm phát tăng có thể gây áp lực lên USD.
- Lợi tức 10 năm trái phiếu: thị trường trái phiếu ngoại hối thường đánh giá sự
khác biệt giữa lợi tức trái phiếu kỳ hạn 10 năm với các loại trái phiếu cùng kỳ hạn của
các nước khác như Đức ( German 10 year bund), Nhật (10 year JGB), Anh (10 year
gilt), sự chênh lệnh có thể tác động đến biến động tỷ giá, thường thì một sự gia tăng
của lợi tức 10 năm của trái phiếu Mỹ làm cho đồng USD tăng giá.
c) Những nhân tố chính trị ( ví dụ điển hình)
Những nhân tố chính trị đôi khi có thể tác động và gây ra ảnh hưởng lớn đến
biến động tỷ giá. Nó làm tỷ giá biến động khá nhanh và mạnh tùy theo từng trường
hợp có thể kéo dài hay chấm dứt nhanh chóng.
Các thành viên chính phủ hay những người đứng đầu các ngân hàng trung
ương, chính những người này có thể gây ảnh hưởng tới giá trị của một loại tiền tệ nào
đó qua những gì họ noí, những gì họ làm. Các chức vụ quan trọng như: tổng thống, thủ
tướng, thống đốc hay chủ tịch các ngân hàng… luôn có sự thay đổi theo nhiệm kỳ hay
5

có lý do khác. Nhưng chúng luôn được quan tâm chặt chẽ từ các nhà đầu tư, dù ai ngồi
vào các vị trí đó thì những quyết sách của họ đều rất quan trọng và đều có những thay
đổi, những tác động nhất định tới thị trường ngoại hối.
Ở NHTW, đối với Mỹ là Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) thì khi tỷ giá biến động theo
một chiều hướng bất lợi tác động xấu tới nền kinh tế, NHTW có thể can thiệp vào
nhằm ổn định tỷ giá và đưa tỷ giá trở về tầm kiểm soát theo hướng có lợi cho chính
sách tiền tệ. Việc can thiệp này trong những năm gần đây thường thực hiện bằng hai
cách: can thiệp miệng ( verbal intervention) hoặc can thiệp trực tiếp vào thị trường
1.3. Vị thế của đô la qua các thời kỳ
Đồng đô la Mỹ là đơn vị tiền tệ chính thức của Hoa Kỳ, hiện nay ngoài Hoa Kỳ có một
vài quốc gia dùng đô la Mỹ làm đơn vị tiền tệ chính thức và nhiều quốc gia cho phép
dùng đô la trong thực tế (nhưng không chính thức). Vị thế của đô la Mỹ được thể hiện
qua các thời kỳ như sau:
 Trước chiến tranh thế giới thứ nhất

Nền kinh tế thế giới vận hành theo hệ thống bản vị vàng. Hệ thống này dẫn tới các tỷ
lệ hối đoái cố định. Tỷ giá hối đoái cố định khuyến khích thương mại thế giới phát
triển bằng việc xóa đi tính không chắc chắn liên quan tới dao động tỷ giá, nhưng có hai
nhược điểm: (i) các nước có thể không kiểm soát được các mức cung tiền của mình;
(ii) chính sách tiền tệ ở các nước bị ảnh hưởng mạnh bởi việc sản xuất vàng.
 Trong giai đoạn này đồng USD chỉ đơn thuần đóng vai trò là 1 đồng tiền
quốc gia.
 Giữa hai cuộc đại chiến thế giới
Trong giai đoạn này, đồng đô la Mỹ từ đồng tiền quốc gia đã bắt đầu tiến dần đến
việc trở thành đồng tiền có vị thế trong giao dịch quốc tế: Khi chiến tranh thế giới
nổ ra, các nước đều in thêm tiền để phục vụ chiến tranh, không thể duy trì tỷ giá cố
định giữa đồng tiền nước mình và vàng, hệ thống tỷ giá cố định nhường chỗ cho hệ
thống tỷ giá thả nổi. Nền kinh tế các nước đều rơi vào lạm phát, nước Anh đã cố gắng
ấn định giá trị đồng tiền nước mình với vàng nhưng sau đó đã không thành công vì
định giá quá cao giá trị đồng bảng Anh. Trong khi Mỹ vẫn duy trì chuyển đổi USD ra
vàng, đồng thời không chịu tổn thất gì mà lại hưởng lợi lớn khi chiến tranh thế giới kết
thúc, sức cạnh tranh quốc tế tăng lên nhanh chóng, làm cho đồng đô la ngày càng được
sử dụng nhiều và chiếm lĩnh ưu thế trong các giao dịch quốc tế.
 Thời kỳ Bretton Woods sau chiến tranh thế giới II
Hệ thống bản vị vàng sụp đổ hoàn toàn trong cuộc Đại khủng hoảng những năm 1930,
dẫn đến sự hình thành các liên minh tiền tệ do một số nước tư bản đầu sỏ cầm đầu.
Khu vực đồng đô la do Mỹ cầm đầu tồn tại bên cạnh các “đối thủ không hơn kém” là
khu vực đồng Bảng Anh và khu vực đồng Phơ-răng Pháp. Nhưng sau Đại chiến thế
giới thứ II, Mỹ trở thành một cường quốc mạnh nhất thế giới về ngoại thương, về tín
dụng quốc tế và là nước có dự trữ vàng lớn nhất thế giới (chiếm khoảng ¾ tổng dự trữ
vàng của toàn bộ thế giới tư bản). Đây chính là những yếu tố tạo nên thế mạnh cho
đồng đô la Mỹ trên trường quốc tế, đưa đồng tiền này “lên ngôi” đồng tiền chủ
chốt của thế giới.
Tháng 7 năm 1944, Hoa Kỳ triệu tập Hội nghị tiền tệ - tài chính quốc tế tại thành phố
Bretton-woods với sự tham gia của 44 nước để thoả thuận về việc thiết lập các quan hệ

6

tài chính tiền tệ quốc tế mới cho thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ II. Được gọi là
chế độ tiền tệ Bretton-woods với nội dung chủ yếu:
- Thừa nhận USD là đồng tiền chuẩn, làm trụ cột cho chế độ tiền tệ này. Là
phương tiện dự trữ và thanh toán quốc tế, đóng vai trò chủ chốt trong các quan hệ tiền
tệ, thanh toán và tín dụng quốc tế.
- Việc sử dụng USD trong thanh toán quốc tế và các quan hệ đối ngoại khác
không hạn chế, các đồng tiền của các nước khác phải liên hệ chặt chẽ với USD theo
chế độ tỷ giá cố định.
- Các nghiệp vụ về vàng được thực hiện theo 1 giá chính thức là 35 USD = 1
ounce vàng. Đô la Mỹ được tự do chuyển đổi ra vàng theo giá đó. Ngân hàng trung
ương của các nước thành viên phải can thiệp vào thị trường vàng để giữ giá vàng chính
thức luôn ở mức 35 USD = 1 ounce vàng.
- Các nước phải thực hiện ngay các biện pháp thiết thực để loại trừ chế độ kiểm
soát và quản chế ngoại hối, đồng thời thiết lập chế độ tiền tệ tự do chuyển đổi.
- Thiết lập một tổ chức tiền tệ quốc tế nhằm điều chỉnh các quan hệ tiền tệ - tài
chính quốc tế theo những nguyên tắc của chế độ tiền tệ Bretton-woods.
 Đồng đô la Mỹ theo các điều khoản của BWS trở thành đồng tiền giữ vị trí
độc tôn trong hệ thống tiền tệ quốc tế, biến chế độ bản vị vàng gần như bị hiểu là
chế độ “bản vị đồng đô la”.
 Giai đoạn từ năm 1973 đến những năm 1980
Qua 2 lần phá giá USD, năm 1973, Mỹ và các quốc gia khác đã chấp thuận cho phép
tỷ giá hối đoái thả nổi. Chế động tiền tệ Bretton Woods sụp đổ. Hệ thống tiền tệ thế
giới hình thành nên 1 số chế độ tiền tệ mới:
- Chế độ tiền tệ Gia-mai-ca ra đời trên cơ sở Hiệp định ký kết giữa các nước
thành viên IMF tại Gia-mai-ca vào những năm 1976-1978. Chế độ tiền tệ này thừa
nhận SDR là cơ sở của chế độ tiền của các nước. SDR trở thành một đơn vị tiền tệ tính
toán quốc tế mới. Giá trị của nó được xác định theo phương pháp rổ tiền tệ, lúc đầu rổ
tiền tệ gồm 16 đồng tiền mạnh nhất của thế giới. Hiện nay, tham gia “rổ tiền tệ” là 5

đồng tiền mạnh của những quốc gia có tiềm lực về kinh tế, tài chính. Như vậy, chế độ
tiền tệ Gia-mai-ca thực chất là chế độ bản vị SDR.
- Chế độ tiền tệ châu Âu: là một chế độ tiền tệ quốc tế khu vực, được xây dựng
trên cơ sở Hiệp định tiền tệ do các nước trên lục địa châu Âu ký kết tháng 3-1979. Chế
độ tiền tệ châu Âu dựa vào ECU - một đơn vị tiền tệ quốc tế khu vực của các nước
châu Âu. Giá trị của ECU được đảm bảo bằng dự trữ vàng và ngoại hối của các nước
thành viên.
 Trong thời kỳ này USD đã mất dần vị trí độc tôn, nhưng do tiềm lực kinh
tế của Mỹ rất lớn, cho nên USD vẫn còn là một đồng tiền mạnh, vẫn chiếm 1 tỷ
trọng đáng kể trong quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia của các nước.
 Giai đoạn 1980 – 1985
Trong khoảng thời gian từ 1/1980 đến 3/1985, USD không ngừng tăng giá, tỷ giá danh
nghĩa và tỷ giá thực tăng gần 50%. Nguyên nhân chính là vì Chính phủ Mỹ áp dụng
chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng nới lỏng chính sách tài khoá dẫn đến thâm hụt ngân
sách (từ 16 tỷ $ năm 1979 lên 204 tỷ $ năm 1986). Tuy nhiên việc USD liên tục lên
7

giá làm phát sinh nhiều mối quan tâm lớn đó là ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu và
thâm hụt cán cân vãng lai.
 Từ Hiệp định Plaza đến Hiệp định Louvre
Trước sự tăng giá của đồng USD, các nước đã đi đến nhóm họp đưa ra Hiệp định
Plaza cam kết hợp tác để giảm giá đồng USD. Đồng USD giảm giá mạnh. Hiệp định
Louvre được nhóm các nước G7 thông qua tại Bảo tàng Louvre, Paris, Pháp đã tuyên
bố chấm dứt những thỏa thuận nhằm phá giá USD trong hiệp định Plaza.
 Sau sự kiện khủng bố 11/09/2001
Sự kiện 11/9/2001 và cuộc chiến chống khủng bố đã tác động xấu đến cán cân thanh
toán của Mỹ, mà đỉnh cao là đổ vỡ tín dụng tại Mỹ và dẫn đến khủng hoảng tài chính
toàn cầu. Chính sự mất cân đối ngân sách kỷ lục tại Mỹ và sự nổi lên của các nền kinh
tế mới nổi đã khiến cho USD mất giá 16% tính từ tháng 3/2009 và trên 20% tính từ
năm 2002 và còn tiếp tục xuống giá. Tỉ trọng USD trong dự trữ thế giới giảm từ

72% vào năm 1999 (đồng euro bắt đầu lưu hành) xuống còn 62,8% vào quí
2/2009.
 Vị thế của đồng USD trong giai đoạn hiện nay
Vị thế của USD đang giảm dần, bởi thực tế hiện nay cho thấy:
- Giá trị Đồng USD đang bị xói mòn: tỷ giá USD có xu hướng giảm so với một
số đồng tiền mạnh. Điển hình tháng 10/2010, Tại thị trường New York và London,
USD đã sụt giảm nhanh so với đồng Yên của Nhật, rơi xuống 80,85 yên đạt mức thấp
kỷ lục trong vòng 15 năm trở lại đây.
- Kim ngạch trao đổi hàng hóa trên thế giới bằng USD có chiều hướng giảm.
Các nước tìm cách giảm giao dịch bằng USD, điển hình Nga và Trung Quốc đã quyết
định sử dụng đồng tiền của mình trong thương mại song phương và loại bỏ đồng USD
ra khỏi giao dịch. Brazil và Trung Quốc đã bắt đầu sử dụng đồng tiền riêng của hai
nước để giao thương kể từ khi Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của
Brazil. Kim ngạch trao đổi hàng hóa giữa Nga và Trung Quốc giảm từ 55 tỷ USD năm
2008, xuống 39,51 tỷ USD năm 2009,7 tháng đầu năm 2010, là 30,6 tỷ USD.
- Vị thế đồng tiền dự trữ của USD cũng suy giảm: Tỷ lệ USD trong rổ tiền tệ
dự trữ thế giới do IMF qui định giảm từ 69% năm 2002 xuống 62% năm 2008 và còn
42% từ 2011. Các quốc gia đã thay đổi vị thế USD trong cơ cấu dự trữ ngoại tệ của
nước mình, USD từ là một đồng tiền dự trữ tuyệt đối thì hiện chỉ chiếm 60-70% trong
tổng dự trữ ngoại tệ của nhiều quốc gia.
Nguyên nhân:
- Do những chính sách tiền tệ từ nước Mỹ: nới lỏng tiền tệ để tăng cạnh tranh
xuất khẩu, làm cho đồng USD ngày càng mất giá.
- Lòng tin vào giá trị đồng USD giảm sút do những tồn tại trong nền kinh tế Mỹ:
thâm hụt thương mại và ngân sách lớn kéo dài, chi phí quân sự tốn kém, tỷ lệ thất
nghiệp tăng cao,…
- Vị thế tăng lên của Trung Quốc, gây ra những lo ngại về đồng USD. Mỹ hiện là
“con nợ” lớn của thế giới, Trung Quốc là chủ nợ lớn nhất của Mỹ. Trung Quốc nắm
767,9 tỷ USD nợ chính phủ Mỹ tính đến tháng 3/2009. Nhật năm 686,7 tỷ USD. Brazil
nắm 126,6 tỷ USD còn Nga nắm 138,4 tỷ USD.

8

- Với những bất ổn của hệ thống tiền tệ quốc tế, các nước có xu hướng đa dạng
hóa dự trữ tiền tệ của quốc gia. IMF đã kêu gọi cải tổ G20, trao thêm những quyền lực
mới gồm: tạo ra một hệ thống tiền tệ mới ít phụ thuộc hơn vào đồng USD và phụ thuộc
nhiều hơn vào các đồng tiền quốc tế mạnh khác và quyền rút vốn đặc biệt của IMF
(SDR).
- Sự nổi lên của các đồng tiền khác làm giảm vị thế độc tôn của USD: euro,
NDT…
- Đồng Euro với sự hậu thuẫn của liên minh châu Âu, tuy hiện nay chỉ có những
nước thành viên của EU sử dụng đồng euro, nhưng những nước châu Âu phù hợp với
điều kiện gia nhập EU cũng sẽ vứt bỏ đồng tiền riêng của họ sau khi nghiên cứu sự
phát triển kinh tế và nhân tố chính trị. Biên giới của đồng euro theo đó sẽ ngày càng
mở rộng, phạm vi sử dụng của đồng euro sẽ mở rộng hơn, tăng thêm tính lưu thông và
sự chấp nhận sử dụng.
- Sự phát triển kinh tế của Trung Quốc và khả năng tăng giá của đồng NDT cũng
khiến cho đồng tiền này trở thành một sự lựa chọn mới trong giao dịch và đầu tư.
Tuy nhiên USD vẫn chiếm vị trí số 1 thế giới trong giai đoạn hiện nay
- Mỹ vẫn là nền kinh tế đứng đầu thế giới
- Dù các nước giảm giao dịch bằng USD song đồng đôla tiếp tục duy trì vai trò
chính trong các giao dịch ngoại hối, thương mại, và thị trường ngân hàng quốc tế
- USD vẫn đóng vai trò chủ yếu của đồng tiền dự trữ quốc tế
=> Đến nay chưa có đồng tiền nào có thể đủ mạnh thay thế được USD
1.4. Những dự đoán vị thế của đồng đô la trong tương lai
Một câu hỏi đang đặt ra: Liệu rằng Đồng USD sẽ mất vị thế đồng tiền dự trữ của thế
giới sau 25 năm nữa? Tính từ đầu năm 2011 đến nay, đồng USD đã mất giá 5% và
giao dịch ở sát mức thấp nhất so với giỏ các loại tiền tệ lớn. Nước nắm dự trữ USD
lớn, đáng kể nhất phải nói đến Trung Quốc, cho đến nay đã đa dạng ra khỏi đồng tiền
này. 4 tháng đầu năm nay, ¾ trong dự trữ ngoại hối của Trung Quốc được đầu tư vào
tài sản không phải USD (theo ước tính của ngân hàng Standard Chartered).

Dự báo về đồng tiền đa cực thay thế cho sự thống trị của đồng USD hiện nay
giống với suy nghĩ của một số nhà hoạch định chính sách hàng đầu thế giới. Ngân
hàng Thế giới, trong năm 2010 đã đề xuất về một hệ thống tiền tệ mới trong đó bao
gồm nhiều đồng tiền lớn của thế giới bao gồm đồng USD, đồng euro, yên, bảng Anh
và nhân dân tệ.
1.5. So sánh với vị thế của đồng EURO trong giai đoạn hiện nay
Giá trị đồng EURO đang bị suy yếu:
Thế giới đang hòa nghi về sức mạnh và sự tồn tại của đồng tiền này khi cuộc khủng
hoảng nợ công bắt đầu từ Hy Lạp vào cuối năm 2009 sau đó lan rộng ra toàn bộ
Eurozone. Nguyên nhân cơ bản là việc các nước EU thiếu kỷ luật trong thu chi ngân
sách và chính sách tài khóa
Điều đáng lo ngại hơn cả là cuộc khủng hoảng nợ công dai dẳng này đang đe dọa sự
tồn tại của đồng euro, khiến cho chính trường nhiều nước châu Âu chao đảo, buộc
nhiều chính phủ phải giải tán và tác động tiêu cực đến quá trình hồi phục của kinh tế
9

toàn cầu vốn dĩ đã mong manh và trì trệ. Và nếu như 10 năm về trước, châu Âu hồ hởi
với sự ra đời của đồng tiền chung, đánh dấu cho sự hội nhập sâu, mạnh hơn của các
thành viên trong khối bao nhiêu thì một thập kỷ sau, các nước sử dụng đồng tiền này
lại đang đứng trước cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và nguy cơ tan rã của đồng euro
ngày càng lớn.
Giá Euro giảm mạnh:
Giá Euro trong tháng 11/2011 đã giảm mạnh hơn 1.300đ/Euro so với cuối tháng 10.
Do những ảnh hưởng tiêu cực từ nợ công của khu vực đồng tiền chung châu Âu chưa
đi đến hồi kết nên giá trị của nó giảm so với nhiều ngoại tệ khác. Thực tế tại một số
Chi nhánh ngân hàng thương mại, tỉ giá Euro trong tháng đã giảm đáng kể. Đầu tháng
11-2011, một Euro có giá bán ra tại Chi nhánh Vietcombank Hải Dương là 29.931
đồng; đến ngày 30-11 giá giao dịch mua vào bằng tiền mặt chỉ còn 28.163đ/Euro,
chuyển khoản 28.247đ/Euro và bán ra là 28.625đ/Euro, giảm 1.306đồng/Euro.
Tỷ trọng sử dụng đồng tiền thanh toán là EURO vẫn còn thấp

Kết quả điều tra do ngân hàng HSBC tiến hành ở hơn 6.000 doanh nghiệp trên 21 thị
trường khắp toàn cầu cho thấy việc sử dụng đồng EUR trong thanh toán chỉ chiếm
25%, trong khi đó đồng USD chiếm tỷ lệ cao nhất là 60% được sử dụng trong thanh
toán.
Như vậy, mặc dù USD đang được giảm giao dịch trên các nước trên thế giới, nhưng
nhìn chung, đồng EURO hay bất cứ đồng tiền nào khác cũng khó có thể chiếm lĩnh
được vị trí của đồng tiền này trong giao dịch ngoại thương và thương mại quốc tế.
2.Khái niệm và phân loại đô la hóa:
2.1. Khái niệm đô la hóa
“ Đô la hóa” là hiện tượng trong một nền kinh tế khi ngoại tệ được sử dụng một
cách rộng rãi thay thế cho đồng nội tệ trong toàn bộ hoặc một số chức năng tiền tệ thì
nền kinh tế đó bị coi là đô la hóa toàn bộ hoặc một phần.
Tiêu chí đánh giá tình trạng đô la hóa: một nền kinh tế được coi là có tình trạng
đô la hoá cao khi tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối
tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ.
2.2.Phân loại đô la hóa
2.2.1. Phân loại đô la hóa theo hình thức:
- Đô la hóa thay thế tài sản: Thể hiện qua tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng tổng
khối tiền tệ mở rộng (FCD/M2). (phương tiện cất giữ giá trị).
- Đô la hóa phương tiện thanh toán: Là mức độ sử dụng ngoại tệ trong thanh toán.
- Đô la hóa định giá, niêm yết giá: Là việc niêm yết, quảng cáo, định giá bằng
ngoại tệ.
2.2.2. Phân loại đô la hóa theo phạm vi
- Đô la hóa không chính thức: đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế,
mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận
10

- Đô la hóa bán chính thức: đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, và
thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng

vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày
- Đô la hóa chính thức: đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu
hành. Các nước chỉ áp dụng đô la hoá chính thức sau khi đã thất bại trong việc
thực thi các chương trình ổn định kinh tế.
2.3. Tác động của đô la hóa đến nền kinh tế
a. Những tác động tích cực:
- Tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm
phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định.
+ Do có một lượng lớn đô la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự
bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi
chính thức.Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ,
họ sẽ duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn
đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn.
+ Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng
phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không
thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật
về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ
mang tính tích cực hơn.
- Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế.
Với một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ
có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ
nước ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương đối
với luồng ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt
động đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị
trường quốc tế.
- Hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá chính thức, các chi phí như
chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền
khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết,
các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh.
- Thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có

thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến
khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể
được, chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách
tiảm xuống và thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư.
- Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phí chính thức. Tỷ
giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển
các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính
thức (thị trường hợp pháp).
b. Những tác động tiêu cực:
- Thứ nhất: Ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô.
Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách
11

kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều
ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xẩy ra các cuộc khủng
hoảng kinh tế,
- Thứ hai: làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ :
+ Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do
đó dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong
lưu thông kém chính xác và kịp thời.
+ Làm cho đồng nội tệ nhậy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó
những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế
thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả.
+ Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể
thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không
ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm
cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.
+ Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền,
thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của
khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái.

+ Ở trong các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn
định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ
có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người
dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất
trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này
sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó
khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và
có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng.
+ Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm
cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng
cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô
la hoá cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ.
- Thứ ba: Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường
hợp đô la hoá chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền
khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một
nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự
khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi
phải có những chính sách tiền tệ khác nhau.
- Thứ tư: Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung
ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát
triển chưa bị đô la hoá hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song
công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại
các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với
các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ
không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với vác nước đô la hoá hoàn
toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng
thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối
cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất.
12




2.4. Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam
Đồ thị 1: Diễn biến đô la hóa ở Việt Nam
0
5
10
15
20
25
30
35
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
T10/2010
%
Tiền gửi ngoại tệ/M2 Tín dụng ngoại tệ/M2


(Nguồn: www.sbv.gov.vn)
a. Nhìn nhận dưới góc độ đô la hóa tiền gửi:
Mức độ đô la hóa ở Việt Nam có xu hướng giảm xuống, từ trên 30% vào cuối
những năm 90 xuống dưới 20% hiện nay. Phân tích theo các giai đoạn mức độ đô la
hóa biến động: giảm mạnh trong giai đoạn 1991 - 1993 và khá ổn định trong giai đoạn
1994 - 1996
Trong giai đoạn 2000 – 2001: tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh
toán tăng lên và ở mức khoảng 30%.
Từ năm 2002 đến 2007: đô la hóa có xu hướng giảm trở lại nhờ lợi tức của VND
hấp dẫn hơn ngoại tệ
Từ năm 2008 cho đến nay: mức độ đô la hóa khá ổn định (khoảng 20%) là do tỷ
lệ lạm phát đã tăng cao trở lại, tỷ giá có sức ép tăng, lãi suất ngoại tệ tăng cao.
b. Nhìn nhận dưới góc độ đô la hóa tiền vay (tín dụng ngoại tệ/M2): Mức độ đô la
hóa có sự biến động khá mạnh, giảm mạnh từ mức 31% trong năm 1995 xuống 13 -
16% trong giai đoạn 2000 - 2005, tăng lên khoảng 20% trong mấy năm trở lại đây
c. Dưới góc độ đô la hóa tiền mặt thì mức độ đô la hóa tăng dần qua các năm.
2.4.1. Nguyên nhân gây ra hiện tượng đô la hóa tại Việt Nam
2.4.1.1. Nguyên nhân chung
a. Do địa vị kinh tế chung của các nước có đồng tiền mạnh
- Xuất phát nhu cầu sử dụng một “ đồng tiền quốc tế” trong giao dịch thương mại
- Một số nước dựa vào lợi thế kinh tế chủ trương đưa đồng tiền của mình ra thế giới
- Sau chiến tranh thế giới thứ 2 đồng USD được sử dụng rộng rãi, chiếm 70% kim
ngạch giao dịch thương mại trên thế giới. (Vẽ biểu đồ).
b. Do đồng nội tệ có giá trị thấp và không ổn định
c. Do trình độ quản lý Nhà Nước và chính sách tiền tệ quốc gia
13

- Quản lý tiền tệ của Nhà Nước lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ, không kiểm soát được chi tiêu
trên thị trường

- Nhiều nước chủ động theo đuổi lợi ích của đô la hóa
- Chính sách tiền tệ làm đồng nội tệ yếu và bất ổn
2.4.1.2. Nguyên nhân riêng tại Việt Nam.
a. Nguồn ngoại tệ ở nước ta không ngừng tăng nhanh vì nước ta có rất nhiều kênh
huy động ngoại tệ
- Nguồn kiều hối ngày càng xu hướng tăng mạnh với mức tăng bình quân
10%/năm
- Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài cũng tăng
nhanh cùng với lượng khách du lịch đến Việt Nam
- Tiền lương của người Việt Nam làm việc trong các dự án liên doanh, dự án
100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam… được
trả bằng ngoại tệ
- Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức từ thiện, tổ chức phi chính
phủ nước ngoài v.v…
- Hoạt động đầu tư ở nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu
tư gián tiếp.
- Kim ngạch xuất khẩu ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế
- Ngoại tệ từ hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua hoạt động kinh tế
ngầm khác mà Chính phủ chưa thể quản lý.
b. Yếu tố tâm lý: Xuất phát từ tâm lý chuộng ngoại và sợ VNĐ mất giá ; Có thói
quen sử dụng ngoại tệ trong thanh toán và giao dịch quan trọng như mua nhà cửa, ô
tô…….
c. Tình trạng buôn lậu qua biên giới diễn ra mạnh làm phát sinh nhu cầu lớn về sử
dụng ngoại tệ.
d. Đô la hóa do chưa cân bằng lợi ích nắm giữ giữa đồng VND và USD, chủ yếu
do biến động về tỷ giá, lãi suất thực tế và kỳ vọng, nhất là khi đồng Việt Nam chưa
phải là đồng tiền chuyển đổi, lạm phát của Việt Nam tương đối cao so với các nước
trên thế giới và khu vực.
2.4.2. Chính sách khắc phục đô la hóa
Để thực hiện mục tiêu đề ra trong nghị quyết số 11, trong năm 2011 NHNN đã liên tục

có các biện pháp để chống đô la hóa. Các chính sách đưa ra đều tác động đến cung
và/hoặc cầu đô la Mỹ. Cụ thể là các chính sách sau:
1.Chính phủ ban hành Nghị định 95/2011 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng.
Nội dụng: Theo Nghị định, mức phạt tiền đối với hành vi niêm yết giá, quảng cáo hàng
hóa, dịch vụ, quyền sử dụng đất… bằng ngoại tệ, vàng không đúng quy định của pháp
luật lên đến 500 triệu đồng (mức kịch trần của chế tài hành chính).
14

Tác động của chính sách: Biện pháp hành chính cứng rắn đã có hiệu quả tức thời, thị
trường tiền tệ ngay lập tức giảm nhiệt, các cửa hàng giao dịch ngoại tệ không còn tự
do đưa đẩy tỷ giá, hạn chế được hoạt động đầu cơ USD, giảm cầu USD.
2. Ban hành Thông tư số 14/2011/TT-NHNN quy định trần lãi suất vốn huy động bằng
đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng là 2%/năm, giảm 1% so với trước
đó. Quy định này nhằm giảm nhu cầu nắm giữ USD của các cá nhân và doanh nghiệp
từ đó giảm cầu USD, giảm tỷ giá, kiềm chế lạm phát và kết quả là chống đô la hóa
3. Tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với ngoại tệ, trực tiếp tác động đến chi phí huy động
vốn bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng, theo đó đẩy lãi suất cho vay USD lên,
giảm nhu cầu vay bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp, giảm cầu USD.
4. Nghị quyết số 02/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, NHNN thực hiện điều chỉnh tăng tỷ giá
Về mức điều chỉnh, giá USD trong giao dịch liên ngân hàng đã tăng 1.700 đồng, từ
mức 18.932 VND lên mức 20.693 VND/USD
Về biên độ, thu hẹp biên độ giao dịch xuống mức gần như tối thiểu, chỉ còn +- 1%.
Tác dụng của chính sách:
+ Hạn chế, giải tỏa tình trạng găm giữ, kỳ vọng đầu cơ, góp phần cân đối theo nguyên
tắc thị trường cung – cầu ngoại tệ, kích thích xuất khẩu từ đó kiềm chế lạm phát.
+ Điều chỉnh tỷ giã thu hẹp chênh lệch tỷ giá chính thức với tỷ giá trên thị trường tự
do sẽ giúp cải thiện dự trữ ngoại hối của Việt Nam do không phải gia tăng bán USD
theo tỷ giá thấp, giảm bớt kỳ vọng đầu cơ và cả hoạt động buôn bán vốn và ngoại tệ

lòng vòng kiếm lời dựa trên chênh lệch giữa 2 tỷ giá, giảm cầu USD

-Hết-
— o0o —
DANH SÁCH NHÓM 2
Nguyễn Trọng Anh
Nguyễn Bích Hạnh
Phạm Thị Bích Ngọc (CH200571)
Bùi Thị Mai Phương
Trần Thị Thoan
Hà Thị Hải Yến
— o0o —
TÀI LIỆU THAM KHẢO


http://www cafef.vn/
Bài “Đô la hóa và điu hành chính sách tin t  Vit Nam” – http//www.sbv.gov.vn
15


Giáo trình Tài chính quốc tế - NXB Thống kê 2010

×