Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Hoạt động huy động vốn tại ngân hàng NHNN&PTNT chi nhánh Thanh Xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.33 KB, 59 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA T I CH NH NG N H NG –À Í Â À
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNo&PTNT – CN
THANH XUÂN
Giáo viên hướng dẫn: TS. NguyÔn Phó Giang
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Huyền
Ngày sinh: 24/09/1987
Lớp : QHE – 2005 - TCNH
Hà Nội – Tháng ….Năm ..
1
Phụ lục 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA T I CH NH NG N H NG –À Í Â À
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNo&PTNT – CN
THANH XUÂN
Giáo viên hướng dẫn: TS NguyÔn Phó Giang
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Huyền
Ngày sinh: 24/09/1987
Lớp: QHE – 2005 - TCNH
Hà Nội – Tháng …. Năm ..
2
Phụ lục 3
Mục lục
Lời mở đầu 5
Chương I: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại 7
1.1 Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường 7
1.2 Vốn của NHTM 13


1.3 Các hình thức huy động vốn của NHTM 14
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM 17
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại NHNo & PTNT – CN
Thanh Xuân 23
2.1 Khái quát chung về NHNo & PTNT – CN Thanh Xuân 23
2.2 Thực trạng huy động vốn tại NHNo & PTNT – CN Thanh Xuân 26
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường công tác huy động
vốn tại NHNo&PTNT – CN Thanh Xuân 37
3.1 Định hướng hoạt động huy động vốn tại NHNo&PTNT – CN Thanh
Xuân 37
3.2 Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Chi nhánh NHNo&PTNT
Thanh Xuân 38
3.3 Một số kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tại Chi nhánh NHNo
Thanh Xuân 49
Kết luận 58
3
Phụ lục 4
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Chữ viết tắt Nguyên nghĩa
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHNo&PTNT CN Thanh
Xuân
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Chi nhánh Thanh Xuân
4
Lời mở đầu
Nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu hướng hội nhập
kinh tế khu vực và toàn cầu. Một trong những vấn đề có vị thế quan trọng

hàng đầu trong sự nghiệp mà chúng ta đang theo đuổi là vấn đề vốn – Đây
chính là cơ sở “ hạ tầng mềm” cho đầu tư phát triển. Vốn mang tính cấp
thiết, nguồn vốn đầy biến động đòi hỏi phải gây dựng, thường xuyên được
xử lý, điều chỉnh nhằm đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế, giải
quyết được những thiếu hụt trong chi tiêu của Chính phủ. Ngân hàng
thương mại với chức năng của mình cần phải có biện pháp thích hợp tập
trung mọi nguồn vốn còn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức
kinh tế, đặc biệt là các hình thức huy động trung và dài hạn để cho vay và
đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, đổi
mới công nghệ,... Hệ thống ngân hàng thương mại đang phấn đấu nhằm
thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động vốn trong nước và tranh thủ các
nguồn vốn từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, đẩy mạnh
cho vay, khắc phục tình trạng ứ đọng vốn trong hệ thống ngân hàng, đồng
thời tập trung giảm tỷ lệ nợ quá hạn, vốn không được thực hiện (non-
performing loans) và kiểm soát chất lượng tín dụng.
Nằm trong hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam,
NHNo Thanh Xuân đã và đang hoàn thiện, phát huy hơn nữa vai trò và thế
mạnh của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
NHNo Thanh Xuân trong thời kì đổi mới đã có bước chuyển mình quan
trọng từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, kinh
doanh vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần vào công cuộc cải cách nền kinh tế
đất nước. Vì vậy, em chọn đề tài “ Hoạt động huy động vốn tại NHN
&PTNT CN Thanh Xuân” làm chuyên đề báo cáo trong thời gian thực tập
của mình.
5
Chuyên đề bao gồm có 3 chương như sau :
Chương I: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại.
ChươngII: Thực trạng công tác huy động vốn tại NHNo&PTNT CN
Thanh Xuân

Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tại
NHNo&PTNT CN Thanh Xuân
Do thời gian nghiên cứu lý luận và thực tập ngắn cộng với trình độ
hiểu biết còn hạn chế do vậy chuyên đề này còn có nhiều thiếu sót. Rất
mong nhận được sự đóng góp và chỉ bảo của các thầy cô. Em xin chân
thành cảm ơn TS. Nguyễn Phú Giang đã tận tình hướng dẫn cùng các cô
chú, anh chị công tác phòng kế hoạch – kinh doanh, phòng hành chính –
nhân sự và các cán bộ nhân viên khác trong ngân hàng đã giúp đỡ em hoàn
thành chuyên đề thực tập này.
Em xin chân thành cảm ơn !
6
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường
1.1.1 Khái niệm NHTM
Theo luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ tháng 10/ 1998, NHTM
được định nghĩa như sau: “ NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt
động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết
khấu và làm phương tiện thanh toán”. NHTM là một doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực tiền tệ, trong đó có hai mặt cơ bản:
- Nhận ký thác của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức, cơ
quan nhà nước.
- Sử dụng các khoản ký thác đó để cho vay và chiết khấu.
Các loại hình NHTM :
+ NHTM quốc doanh: là NHTM được thành lập bằng 100% vốn nhà
nước.
+ NHTM cổ phần: là NHTM được thành lập dưới hình thức công ty
cổ phần.
+ Chi nhánh NHTM nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo

luật pháp nước ngoài nhưng hoạt động theo luật pháp nước sở tại.
+ Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp
của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại
Việt Nam và hoạt động theo luật pháp Việt Nam.
Quá trình phát triển của NHTM gắn liền với quá trình phát triển của
thị trường tài chính thông qua các giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản
7
đến phức tạp. Khi mới ra đời, tổ chức và nghiệp vụ của NHTM hoạt động
rất đơn giản nhưng càng về sau, theo đà phát triển của kinh tế hàng hoá, tổ
chức cũng như các nghiệp vụ của các ngân hàng càng phát triển và hoàn
thiện hơn. Ngày nay các NHTM có xu hướng phát triển ngày càng toàn
diện với quy mô rộng cùng nhiều loại hình dịch vụ huy động tối đa các
nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư cho vay. Sự phát triển của các
ngân hàng không còn nằm trong phạm vi một quốc gia mà mang tính chất
toàn cầu. Ví dụ: Ngân hàng Thế Giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB), … việc áp dụng công nghệ thông tin và hệ thống trang thiết bị hiện
đại càng làm cho hoạt động ngân hàng trở nên hoàn thiện .
Hệ thống NHTM Việt Nam từ khi ra đời cho tới nay đã dần khẳng
định được vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong việc
thực thi chính sách tài chính - tiền tệ nói riêng. Vẫn với chức năng nhận
tiền gửi để cho vay đối với nền kinh tế, với vai trò trung gian tài chính
trong hoạt động của mình, NHTM vẫn phải tuân theo sự quản lý của Nhà
nước mà trực tiếp là Ngân hàng Nhà nước. Chính dưới sự quản lý này, hệ
thống NHTM đã thực hiện được chức năng của mình đối với nền kinh tế.
1.1.2 Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
- NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp cá nhân, tổ chức kinh tế
muốn sản xuất, kinh doanh thì cần phải có vốn để đầu tư mua sắm tư liệu
sản xuất, phương tiện để sản xuất kinh doanh mà nhu cầu về vốn của
doanh nghiệp, cá nhân luôn luôn lớn hơn vốn tự có do đó cần phải tìm đến

những nguồn vốn từ bên ngoài. Mặt khác lại có một lượng vốn nhàn rỗi do
quá trình tiết kiệm, tích luỹ của cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức khác... Do
vậy NHTM là chủ thể đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
đó và sử dụng nguồn vốn huy động được cấp vốn cho nền kinh tế thông
qua hoạt động tín dụng. NHTM trở thành chủ thể chính đáp ứng nhu cầu
8
vốn cho nền kinh tế. Nhờ có hoạt động ngân hàng và đặc biệt là hoạt động
tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy
móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
- NHTM là cầu nối doanh nghiệp và thị trường.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh
nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như: quy luật
giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và sản xuất phải trên cơ sở
đáp ứng nhu cầu thị trường, thoả mãn nhu cầu thị trường về mọi phương
diện không chỉ giá cả, khối lượng, chất lượng mà còn đòi hỏi thoả mãn trên
phương diện thời gian, địa điểm. Để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của
thị trường doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động,
củng cố và hoàn thiện cơ cấu kinh tế, chế độ hạch toán kinh tế mà còn phải
không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đưa công nghệ mới vào sản xuất,
tìm tòi và sử dụng nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách
thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn,
nhiều khi vượt quá khả năng của doanh nghiệp. Do đó để giải quyết khó
khăn này doanh nghiệp đến ngân hàng xin vay vốn để thoả mãn nhu cầu
đầu tư của mình. Thông qua hoạt động cấp tín dụng cho doanh nghiệp
ngân hàng là cầu nối doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của
ngân hàng cung cấp cho doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh,
đáp ứng nhu cầu của thị trường và từ đó tạo cho doanh nghiệp chỗ đứng
vững chắc trong cạnh tranh .

- NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
9
Hệ thống NHTM hoạt động có hiệu quả sẽ thực sự là công cụ để nhà
nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động thanh toán giữa các
ngân hàng trong hệ thống, NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền
cung ứng cho lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế,
NHTM đã thực hiện việc dẫn dắt các nguồn tiền, tập hợp và phân phối vốn
trên thị trường, điều khiển chúng một cách hiệu quả và thực thi vai trò điều
tiết gián tiếp vĩ mô. Cùng với các cơ quan khác, Ngân hàng luôn được sử
dụng như một công cụ quan trọng để nhà nước điều chỉnh sự phát triển của
nền kinh tế.
Khi nhà nước muốn phát triển một ngành hay một vùng kinh tế nào
đó thì cùng với việc sử dụng các công cụ khác để khuyến khích thì các
NHTM luôn được sử dụng bằng cách NHNN yêu cầu các NHTM thực hiện
chính sách ưu đãi trong đầu tư, sử dụng vốn như: giảm lãi suất, kéo dài kỳ
hạn vay, giảm điều kiện vay vốn hoặc qua hệ thống NHTM Nhà nước cấp
vốn ưu đãi cho các lĩnh vực nhất định. Khi nền kinh tế tăng trưởng quá
mức nhà nước thông qua NHNN thực hiện chính sách tiền tệ như: tăng tỷ
lệ dự trữ bắt buộc để giảm khả năng tạo tiền từ đó giảm khả năng cấp tín
dụng cho nền kinh tế để nền kinh tế phát triển ổn định vững chắc.
Việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua hệ thống NHTM thường
đạt hiệu quả trong thời gian ngắn nên thường được Nhà nước sử dụng.
- NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia và nền tài chính quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường, khi các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ
ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các
quốc gia trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát
triển kinh tế ở các quốc gia luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế
thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy nền tài
chính của mỗi quốc gia cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế và
NHTM với các hoạt động của mình đã đóng góp một vai trò vô cùng quan

10
trọng. Với các nghiệp vụ như thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp
vụ khác NHTM tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển.
Thông qua hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối quan hệ tín dụng
với các NHTM nước ngoài NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài
chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế .
NHTM ra đời và ngày càng phát triển dựa trên cơ sở nền sản xuất lưu
thông hàng hoá và nền kinh tế càng phát triển càng cần đến sự hoạt động
của NHTM. Với vai trò quan trọng của mình NHTM trở thành một bộ
phận quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.3 Các nghiệp vụ của NHTM:
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà, cung cấp vốn
cho nền kinh tế. Với sự phát triển kinh tế và công nghệ hiện nay, hoạt động
ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh, đa dạng và phong phú hơn
song ngân hàng vẫn duy trì các nghiệp vụ cơ bản sau:
a) Nghiệp vụ huy động vốn:
Đây là nghiệp vụ cơ bản, quan trọng nhất, ảnh hưởng tới chất lượng
hoạt động của ngân hàng. Vốn được ngân hàng huy động dưới nhiều hình
thức khác nhau như huy động dưới hình thức tiền gửi dân cư, tiền gửi các
TCKT,phát hành giấy tờ có giá. Mặt khác trên cơ sở nguồn vốn huy động
được, ngân hàng tiến hành cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển sản
xuất, cho các mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương và cho cả nước.
Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng được mở rộng, tạo uy
tín của ngân hàng ngày càng cao, các ngân hàng chủ động trong hoạt
động kinh doanh, mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế
và các tổ chức dân cư, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó các
NHTM phải căn cứ vào chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của đất
nước, địa phương để từ đó đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp
11
nhất là các nguồn vốn trung, dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sự

nghiệp CNH – HĐH đất nước.
b) Nghiệp vụ sử dụng vốn:
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp
vụ sử dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của ngân
hàng, quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Do
vậy các NHTM cần phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của
mình sao cho hợp lý nhất.
* Nghiệp vụ ngân quỹ:
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của NHTM được dùng
với mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán hiện thời cũng
như khả năng thanh toán nhanh của NHTM và thực hiện quy định về dự
trữ bắt buộc do Ngân hàng Nhà nước đề ra.
* Nghiệp vụ cho vay:
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại.
NHTM đi vay để cho vay, do đó có cho vay được hay không là vấn đề mà
mọi NHTM đều phải tìm cách giải quyết. Thông thường lợi nhuận từ hoạt
động cho vay này chiếm tới 65- 70% trong tổng lợi nhuận của ngân hàng.
Nghiệp vụ cho vay có thể được phân loại bằng nhiều cách: theo thời gian
có cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; theo hình thức đảm bảo có cho
vay có đảm bảo, cho vay không có đảm bảo; theo mục đích có cho vay bất
động sản, cho vay thương mại, cho vay cá nhân, cho vay nông nghiệp, cho
vay thuê mua,...
* Nghiệp vụ đầu tư tài chính:
Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các NHTM còn dùng số vốn huy động
được từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội để đầu tư vào nền kinh tế
12
dưới các hình thức như: hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên
thị trường... và trực tiếp thu lợi nhuận trên các khoản đầu tư đó.
* Nghiệp vụ khác:
NHTM thực hiện các hoạt động kinh doanh như: kinh doanh ngoại tệ,

vàng bạc và kim khí, đá quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân
quỹ; nghiệp vụ uỷ thác và đại lý; kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm...
c) Nghiệp vụ trung gian khác:
Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản trên ngân hàng còn thực hiện một số
nghiệp vụ khác như:
* Dich vụ thanh toán:
Có thể nói ngân hàng là thủ quỹ của nền kinh tế. Các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế sẽ không phải mất thời gian sau khi mua hoặc bán hàng hoá
và dịch vụ bởi việc thanh toán sẽ được ngân hàng thực hiện một cách
nhanh chóng và chính xác.
* Dịch vụ tư vấn, môi giới:
Ngân hàng đứng ra làm trung gian mua bán chứng khoán, tư vấn cho
người đầu tư mua bán chứng khoán, bất động sản...
* Các dịch vụ khác:
Ngân hàng đứng ra quản lý hộ tài sản; giữ hộ vàng, tiền; cho thuê két
sắt, bảo mật...
1.2 Vốn của NHTM:
1.2.1 Khái niệm vốn:
NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau các trung
gian tài chính là khác nhau. Tuy nhiên, luôn tồn tại một điểm chung là vai
trò chủ đạo của các NHTM đóng góp khối lượng tài sản và tầm quan trọng
đối với nền kinh tế. Để có được vị trí đó NHTM phải đặt yếu tố lợi nhuận
lên hàng đầu và công cụ duy nhất mà NHTM phải có trước tiên là vốn.
13
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo
lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch
vụ kinh doanh khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của NHTM, quyết định
sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
1.2.2.Cơ cấu vốn:
* Vốn tự có của NHTM: là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập

được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Nó mang tính ổn định và là căn cứ để
quyết định đến khả năng và khối lượng vốn huy động của ngân hàng.
* Vốn huy động: là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được
từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội và được dùng làm vốn để
kinh doanh. Vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng và phải hoàn trả đúng gốc và lãi khi đến hạn.
Nguồn vốn này luôn biến động, tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan trọng
đối với mọi hoạt động của ngân hàng.
* Vốn đi vay: là phần vốn các Ngân hàng đi vay NHNN, các ngân hàng
khác, hoặc các tổ chức tín dụng,...để bổ sung vào vốn hoạt động của mình
trong trường hợp tạm thiếu vốn khả dụng. Nó có chi phí tương đối cao cho
nên chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.
*Vốn khác: là phần vốn phát sinh trong quá trình thực hiện các nghiệp
vụ thanh toán, bảo lãnh, chuyển tiền…
1.3 Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại:
1.3.1 Phân loại theo thời gian huy động:
- Vốn ngắn hạn: là hình thức NHTM huy động vốn không kỳ hạn và có kỳ
hạn với thời gian ngắn. Nguồn vốn này tối đa là một năm.
- Vốn trung hạn: có thời gian huy động từ một năm đến ba năm. Nguồn
vốn này được các NHTM sử dụng để cho các doanh nghiệp vay trung hạn
đối với các dự án đầu tư chiều sâu mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng
sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho bản thân doanh nghiệp.
14
- Vốn dài hạn: nguồn vốn này có thời gian huy động trên ba năm và đựơc
NHTM sử dụng vào nhiệm vụ đầu tư phát triển theo định hướng phát triển
kinh tế của Đảng và Nhà nước như: đầu tư vào các dự án quốc tế dân sinh,
các dự án đổi mới thiết bị công nghệ, xây mới các nhà máy… Lãi suất mà
NHTM phải trả cho chủ sở hữu các nguồn vốn này thường rất cao.
1.3.2 Phân loại theo đối tượng huy động:
- Huy động từ các tổ chức kinh tế: với tư cách là trung tâm thanh toán,

các NHTM thực hiện việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho các khách
hàng. Từ đó một lượng tiền khổng lồ được chuyển qua NHTM để thực
hiện chức năng thanh toán của nó theo yêu cầu của chủ tài khoản. Do có sự
đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản phải trả, cho nên hệ thống
tài khoản thanh toán của ngân hàng luôn hình thành một số dư tiền gửi
nhất định và nó đã trở thành nguồn vốn huy động có chi phí thấp, nếu biết
khai thác sử dụng thì nguồn vốn này sẽ mang lại hiệu quả rất lớn cho hoạt
động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
- Huy động từ các tầng lớp dân cư: mỗi một gia đình và cá nhân
trong xã hội đều có những khoản tiền tiết kiệm dự phòng để chi tiêu trong
tương lai. Khi xã hội càng phát triển thì các khoản dự phòng này càng cao.
Nắm được tình hình đó, các NHTM đã tìm mọi hình thức nhằm huy động
tối đa các khoản tiết kiệm này, từ đó tạo ra một nguồn vốn không nhỏ để
đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế và thu được lợi nhuận cho bản thân
ngân hàng.
- Vốn vay từ NHNN và các tổ chức tín dụng khác: đây là nguồn vốn
ngân hàng có được nhờ quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHNN, giữa
các NHTM với nhau và với các tổ chức tín dụng khác. Nguồn vốn này
ngân hàng phải chịu với chi phí cao hơn, vì vậy chỉ trong trường hợp ngân
hàng thiếu vốn khả dụng trong thời gian ngắn thì ngân hàng mới đi vay.
1.3.3 Huy động vốn từ tài khoản tiền gửi của khách hàng:
15
- Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân
hàng mà không có sự thoả thuận trước về thời gian rút tiền. Với loại tiền
gửi này ngân hàng chỉ phải trả với một mức lãi suất thấp. Bởi vì tiền gửi
loại này rất biến động, khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào, do đó ngân
hàng không chủ động sử dụng nguồn vốn này, ngân hàng phải dự trữ một
số tiền đảm bảo để có thể thanh toán ngay khi khách hàng có nhu cầu.
- Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân hàng có
sự thoả thuận trước về thời hạn rút tiền. Loại tiền gửi này tương đối ổn

định vì ngân hàng xác định được thời gian rút tiền của khách hàng. Do đó
ngân hàng có thể chủ động sử dụng nguồn vốn này vào mục đích kinh
doanh trong thời gian ký kết. Đối với loại tiền gửi này, ngân hàng có rất
nhiều thời hạn từ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng,…mục đích là tạo cho khách
hàng có nhiều kỳ hạn gửi phù hợp với thời gian nhàn rỗi của khoản tiền mà
họ có. Lãi suất tiền gửi kỳ hạn cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
1.3.4 Huy động vốn bằng phát hành các giấy tờ có giá:
- Trái phiếu ngân hàng: là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ ( cả
gốc và lãi ) của ngân hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu.
Mục đích của ngân hàng khi phát hành trái phiếu là nhằm huy động vốn
trung và dài hạn. Việc phát hành trái phiếu, ngân hàng chịu sự quản lý của
NHNN, của các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán và có thể bị
chi phối bởi uy tín của ngân hàng.
- Kỳ phiếu ngân hàng: đây là loại giấy tờ có giá ngắn hạn ( trong 1
năm ). Nó có đặc điểm giống như trái phiếu nhưng có thời gian ngắn hạn
hơn trái phiếu, vì vậy nó được dùng để huy động nguồn vốn ngắn hạn của
ngân hàng.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi: nó là những giấy tờ xác nhận tiền gửi
định kỳ ở một ngân hàng, người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán định
16
kỳ lãi và nhận đủ vốn khi đến hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu
thông trên thị trường.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM
1.4.1. Các nhân tố khách quan
Đây là các yếu tố mà khi tác động đến ngân hàng sẽ không thể tránh
được. Ngân hàng chỉ có thể nhận thức, dự báo và tìm cách giảm thiểu các
rủi ro khi nó xảy ra. Các nhân tố khách quan bao gồm:
1.4.1.1. Pháp luật, chính sách của Nhà nước:
Nghiệp vụ huy động vốn của các NHTM chịu sự điều chỉnh rất lớn
của môi trường pháp lý. Có những Bộ luật tác động trực tiếp mà chúng ta

thường thấy như: Luật các TCTD, Luật NHNN... Những Luật này qui định
tỷ lệ huy động vốn của ngân hàng so với vốn tự có, qui định việc gửi và sử
dụng tài khoản tiền gửi... Có những Bộ Luật tác động gián tiếp đến hoạt
động ngân hàng nhờ Luật đầu tư nước ngoài hoặc các NHTM không được
nhận tiền gửi hoặc cho vay bằng cách tăng giảm lãi suất, mà phải dựa vào
lãi suất do NHNN đưa ra và chỉ được xê dịch trong biên độ nhất định mà
NHNN cho phép... Bên cạnh những Bộ luật đó thì chính sách tài chính tiền
tệ của một quốc gia cũng ảnh hưởng rất lớn tới nghiệp vụ tạo vốn của
NHTM. Nó được thể hiện ở mục tiêu của chính sách tiền tệ, chẳng hạn khi
nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà nước có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng
cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó NHTM
huy động vốn dễ dàng hơn. Nhờ vậy, môi trường pháp lý là nhân tố khách
quan có tác động rất lớn tới quá trình huy động vốn của NHTM. Mục tiêu
hoạt động của NHTM được xây dựng vào các quy định, quy chế của Nhà
nước để đảm bảo an toàn và nâng cao niềm tin từ khách hàng. Lĩnh vực
hoạt động của ngân hàng là vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, vì vậy
các hoạt động của ngân hàng luôn được Nhà nước quản lý chặt chẽ bằng
các văn bản pháp quy. Mỗi văn bản đều có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt
17
động của Ngân hàng, cụ thể là hoạt động huy động vốn. Chính phủ đề ra
chính sách tiền tệ quốc gia và hệ thống ngân hàng là công cụ đắc lực để
thực hiện. Chẳng hạn khi lạm phát tăng, Nhà nước có chính sách thắt chặt
tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc
đó NHTM huy động vốn dễ dàng hơn. Hoặc khi Nhà nước có chính sách
khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất thì ngân hàng khó huy động vốn
hơn vì người có tiền nhàn rỗi họ bỏ tiền vào sản xuất, kinh doanh có lợi
hơn gửi ngân hàng
Các quy định của pháp luật đòi hỏi các NHTM luôn phải tuân thủ.
Pháp luật quy định số tiền huy động của ngân hàng không được lớn hơn 20
lần vốn chủ sở hữu, hoặc thông qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc chính phủ điều

chỉnh việc cung ứng tiền cho nền kinh tế. Việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt
buộc hay lãi suất tái chiết khấu là tuỳ theo định hướng phát triển của từng
thời kỳ. Các chính sách đầu tư, ưu đãi, ưu tiên phát triển mũi nhọn... cũng
ảnh hưởng sâu sắc tới việc huy động vốn của NHTM. Nói chung bất cứ
ngân hàng thương mại nào khi cần huy động vốn đều phải xem xét các quy
định của luật pháp.
1.4.1.2 Tình hình kinh tế - chính trị – xã hội trong và ngoài nước
Có thể nói đây là yếu tố khách quan đối với tất cả các ngành nghề kinh
tế, không riêng gì ngân hàng. Sự ổn định chính trị cả trong và ngoài nước
có tác động rất rõ. Các cuộc bãi công, biểu tình, sụp đổ chính phủ luôn kéo
theo tình trạng huy động vốn của ngân hàng bị trì trệ bởi người dân không
còn tin tưởng. Ngược lại, sự đồng tâm, nhất trí, ổn định trong bộ máy lãnh
đạo sẽ làm cho các ngân hàng thương mại huy động vốn được dễ dàng.
Như Argentina năm 2002, sau khi có những vấn đề về chính trị, người dân
kéo đến ngân hàng rút tiền ồ ạt làm cho cả hệ thống ngân hàng chao đảo.
18
Và cuộc chiến Irac gần đây cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới trong
đó có sự khó khăn về huy động vốn của NHTM.
Nền kinh tế ở vào trạng thái tăng trưởng hay suy thoái đều tác động
tới việc huy động vốn của ngân hàng. Ở tình trạng tăng trưởng, người dân
cần nhiều vốn để đầu tư mở rộng quy mô, trang thiết bị. Các ngân hàng
phải huy động nhiều vốn và càng có điều kiện để huy động do tích luỹ
được nhiều hơn. Ngược lại ở tình trạng suy thoái, sản xuất đình trệ, đầu tư
bị thu hẹp, ngân hàng huy động vốn khó khăn.
1.4.1.3. Tâm lý, thói quen tiêu dùng của người gửi tiền
Tập quán tiêu dùng của người dân có tầm ảnh hưởng rất quan trọng đối
với việc huy động vốn của ngân hàng. Rõ ràng ở những vùng người dân
thường có thói quen gửi tiền vào ngân hàng thì việc huy động sẽ dễ dàng
hơn nhiều ở những vùng người dân thường hay cất trữ tiền trong nhà bằng
vàng, bất động sản... Đồng thời ngay thói quen thanh toán khi mua hàng hoá

cũng góp phần làm tăng hay giảm nguồn vốn huy động của ngân hàng. Ở
nhiều nước phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt là phổ biến, hầu
như người dân nào cũng có tài khoản trong ngân hàng và ngân hàng là một
hoạt động không thể thiếu trong cuộc sống. Ngược lại, ở một số nước, thói
quen thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn ăn sâu thì nguồn vốn huy động của
ngân hàng sẽ gặp khó khăn. Các tập quán tiêu dùng này khó có thể được
thay đổi ngay một sớm một chiều. Do đó để mở rộng nguồn huy động, các
ngân hàng phải nỗ lực hết mình: cải cách quy trình, thủ tục, phát triển chính
sách khách hàng...
Một trong những đặc tính của cộng đồng dân cư đó là tính lan truyền
nhanh chóng. Cuộc đổi tiền năm 1985 – 1986 với tốc độ lạm phát chóng
mặt 600-700 % đã khiến người gửi tiền kéo ồ ạt đến ngân hàng để rút.
Điều này đã kéo theo sự sụp đổ của hơn 7500 quỹ tín dụng nhân dân và
19
làm cả hệ thống ngân hàng lao đao. Đồng thời gần đây các vụ bê bối, tham
nhũng liên quan đến các ngân hàng như dệt Nam Định, vụ Tamexco, Minh
Phụng-Epco...đã làm suy giảm uy tín của các ngân hàng trong con mắt của
người gửi tiền. Nó không tạo cho người gửi tiền cảm giác an toàn và làm
hạn chế khả năng hoạt động của các ngân hàng.
Một trong những lý do nữa là người dân chưa hiểu biết nhiều về các
hoạt động của ngân hàng, các tiện ích mà ngân hàng có thể cung cấp. Điều
này đòi hỏi các ngân hàng phải tăng cường tuyên truyền sâu rộng, quảng
cáo, quảng bá về các hoạt động của mình, các lợi ích của người gửi tiền
cũng như các thủ tục cần thiết.
1.4.2. Yếu tố chủ quan
1.4.2.1. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Chiến lược kinh doanh có thể nói là đường lối, phương hướng hoạt
động cho một ngân hàng. Mỗi ngân hàng có một chiến lược kinh doanh
khác nhau. Điều này phụ thuộc vào từng điểm mạnh, điểm yếu, khả năng
cũng như hạn chế của ngân hàng. Chiến lược kinh doanh xác định quy mô

huy động có thể mở rộng hay thu hẹp, cơ cấu vốn có thể thay đổi về tỷ lệ
các loại nguồn, chi phí hoạt động có thể tăng hay giảm .
Chiến lược kinh doanh có liên quan đến huy động vốn bao gồm: Chính
sách về giá cả, lãi suất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng và phí dịch vụ. Đây là các
yếu tố quan trọng. Với việc lãi suất huy động tăng thì sẽ dẫn đến nguồn
vốn vào ngân hàng tăng rất lớn. Nhưng đồng thời thì hiệu quả của việc huy
động vốn có thể giảm do chi phí huy động tăng. Do đó số lượng nguồn vốn
huy động được sẽ phụ thuộc chủ yếu vào chiến lược kinh doanh hay đúng
hơn là phụ thuộc vào chính bản thân ngân hàng.
1.4.2.2. Năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng
20
Không chỉ riêng ngân hàng mà trong bất cứ hoạt động nào, ngành
nghề nào, yếu tố con người cũng phải được đặt lên hàng đầu. Các cán bộ
nhân viên ngân hàng có năng lực sẽ phán đoán, xử lý chính xác các tình
huống sẽ làm cho các hoạt động huy động vốn được thực hiện một cách tốt
đẹp. Trình độ của cán bộ ngân hàng cao sẽ làm cho các thao tác nghiệp vụ
được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả. Thái độ trong tiếp xúc của nhân
viên với khách hàng cũng rất quan trọng. Nó có thể lôi kéo khách hàng làm
tăng nguồn vốn huy động đồng thời cũng có thể làm khách hàng rời bỏ gây
ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng trong hoạt động của ngân hàng,
trước hết là trong khâu huy động vốn. Các nhân viên ngân hàng là những
người mang hình ảnh cho cả ngân hàng. Do đó, để tăng cường huy động
vốn thì một điều cực kỳ quan trọng là các nhân viên ngân hàng phải có đủ
những tiêu chí của một nhân viên ngân hàng chuyên nghiệp: Hiểu biết
khách hàng, hiểu biết nghiệp vụ, hiểu biết quy trình, hoàn thiện phong cách
phục vụ.
1.4.2.3. Uy tín của ngân hàng
Đó là hình ảnh của ngân hàng trong lòng khách hàng, là niềm tin của
khách hàng đối với ngân hàng. Uy tín của mỗi ngân hàng được xây dựng,
hình thành trong cả một quá trình lâu dài. Người gửi tiền khi gửi thường

lựa chọn những ngân hàng lâu đời chứ không phải là những ngân hàng mới
thành lập. Ngân hàng lớn thường được ưu tiên lựa chọn so với các ngân
hàng nhỏ. Hình thức bảo hiểm tiền gửi làm tăng độ an toàn, tăng uy tín của
ngân hàng. Một điều quan trọng ở nước ta là hình thức sở hữu cũng có ảnh
hưởng quan trọng tới huy động vốn. Các ngân hàng quốc doanh bao giờ
cũng có độ an toàn cao hơn cho người gửi tiền, uy tín của các ngân hàng
thương mại quốc doanh cao hơn so với các ngân hàng khác. Những ngân
hàng có uy tín luôn chiếm được lòng tin của khách hàng là tiền đề cho việc
21
họ huy động được những nguồn vốn lớn hơn với chi phí rẻ hơn và tiết
kiệm được thời gian.
1.4.2.4. Trình độ công nghệ ngân hàng
Có thể nói công nghệ ngân hàng hiện đại khác xa so với trước đây.
Việc áp dụng máy tính là một cuộc cách mạng trong hoạt động của ngân
hàng. Nhờ có hệ thống tin học hiện đại, ngân hàng có thể thu thập thông
tin về khách hàng, về thị trường tốt. Từ đó, có thể hoạch định ra các hình
thức huy động, thời gian huy động, hình thức trả lãi... Mặt khác, nhờ hệ
thống thông tin tốt khiến cho ngân hàng có thể nâng cao hiệu quả huy động
vốn. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng trở nên phổ
biến, đó là một xu thế tất yếu. Việc thanh toán không dùng tiền mặt sẽ
khiến cho các ngân hàng ngày càng gắn liền với các hoạt động xã hội.
Ngoài ra mạng lưới phục vụ cho việc huy động vốn cũng tác động tới việc
huy động vốn của ngân hàng. Mạng lưới huy động rộng rãi, tạo điều kiện
cho người gửi tiền. Mạng lưới hẹp thì sẽ gây khó khăn cho khách hàng có
tiền nhàn rỗi gửi vào ngân hàng, chi phí giao dịch lớn, mất nhiều thời gian.
Nhìn chung có rất nhiều những yếu tố ảnh hưởng đến việc huy động
vốn của ngân hàng. Các yếu tố này tác động đến mọi hoạt động, ảnh hưởng
đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Mỗi ngân hàng khi hoạt động đều
cần phải tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu. Những yếu tố tác động này có tính
hai mặt: có thể có tác động tích cực đồng thời có thể tác động tiêu cực tới

ngân hàng. Ngân hàng nào xác định đúng, chính xác các yếu tố tác động sẽ
huy động được vốn lớn với chi phí rẻ, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động.
22
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NHNo & PTNT - CN THANH XUÂN.
2.1 Khái quát chung về NHNo & PTNT – CN Thanh Xuân:
2.1.1 Quá trình hình thành và cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT CN Thanh
Xuân:
a) Quá trình hình thành:
NHNo&PTNT CN Thanh Xuân được thành lập năm 1996 tiền thân là
một chi nhánh của NHNo&PTNT – TP Hà Nội. Đến 01/01/2008 được
nâng cấp lên thành chi nhánh cấp I trực thuộc NHNo & PTNT Việt Nam.
Với tư cách là một chi nhánh trực thuộc, Ngân hàng nông nghiệp
(NHNo&PTNT) Thanh Xuân là một đại diện uỷ quyền của Ngân hàng
nông nghiệp Việt Nam, có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của
NHNo&PTNT, chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi với
NHNo&PTNT. Về pháp lý, chi nhánh Thanh Xuân cũng có con dấu riêng,
được ký kết các hợp đồng kinh tế, dân sự, chủ động kinh doanh, tổ chức
theo phân cấp uỷ quyền của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam.
Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh Xuân có nhiệm vụ khai thác và huy
động vốn trong và ngoài nước, huy động các nguồn vốn ngắn hạn, trung và
dài hạn từ các thành phần kinh tế như: Chính Phủ, các tổ chức tín dụng,
các doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức nước ngoài bằng USD và VNĐ để
tiến hành các hoạt động cho vay ngắn, trung và dài hạn, đầu tư và tham gia
hoạt động trên thị trường chứng khoán.
b) Cơ cấu tổ chức:
Là một Ngân hàng nông nghiệp mới được thành lập từ năm 1996 đến
nay, quy mô hoạt động của chi nhánh Thanh Xuân chưa lớn, nhân sự hạn
chế, bởi vậy phương châm của Ngân hàng là cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động
hiệu quả và an toàn. Với đội ngũ cán bộ công nhân viên chức được phân

theo sơ đồ sau:
23
Mỗi phòng ban thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình theo sự phân công
và chỉ đạo của Ban giám đốc.
2.1.3 Những thuận lợi và khó khăn của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp
Thanh Xuân:
Ngay từ khi mới thành lập, chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Thanh
Xuân đã phải chứng tỏ mình trước không ít những thuận lợi và thách thức,
khó khăn.
Ngành Ngân hàng nói chung và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn nói riêng thực hiện chấn chỉnh hoạt động tín dụng Ngân hàng
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh của các Ngân hàng thương
mại và uy tín của ngành. Uy tín của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam được nâng cao hơn có tác dụng tích cực tới công tác
thu hút khách hàng và đa dạng hoá hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp
Thanh Xuân.
Là một chi nhánh mới được thành lập, tuy còn bỡ ngỡ non trẻ trong
hoạt động, nhưng Ngân hàng có thể tranh thủ kế thừa, học hỏi những kinh
nghiệm rút ra từ những thành công thất bại của các NHTM khác. Bên cạnh
đó, trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, Ngân hàng luôn nhận
được sự chỉ đạo, giúp đỡ có hiệu quả và rất kịp thời từ NHNo&PTNT Việt
Nam, sự quan tâm ủng hộ của chính quyền thành phố. Một thuận lợi hết
Ban Giám Đốc
Phòng hành
chính – nhân
sự
Phòng kế
hoạch - kinh
doanh
Phòng kiểm

tra kế toán
nội bộ
Phòng kế toán
và ngân quỹ
24
sức quan trọng nữa đối với Ngân hàng trên bình diện vĩ mô là sự phục hồi
phát triển cuả nền kinh tế thế giới và khu vực. Nền kinh tế Việt Nam, nền
kinh tế mà trước đây một vài năm trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của
khu vực vẫn có mức tăng trưởng dương, nhịp độ tăng trưởng kinh tế
(GDP) năm 1997 đạt 6,5% và 5,8% năm 1998, tăng trưởng nông nghiệp
4,5% năm 1997 và 3% năm 1998, tăng trưởng công nghiệp năm 1997 là
14% và 11% năm 1998 thì nay dưới sự phục hồi của nền kinh tế khu vực
sẽ có điều kiện thuận lợi hơn trong việc phát triển kinh tế trên tất cả các
ngành, lĩnh vực hoạt động của đất nước. Trong đó đặc biệt có ngành Ngân
hàng, một ngành mà bản thân nó đã chịu ảnh hưởng lớn và sâu sắc nhất
trong cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực vừa qua.
Một tín hiệu tốt đẹp đối với hoạt động của ngành Ngân hàng là sự
đang hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
Với hai sàn giao dịch tại Hà Nội và thành phố HCM và khi sở giao dịch
chính thức hình thành thì hoạt động của nền kinh tế chắc chắn sẽ sôi động.
Khi đó lĩnh vực kinh doanh trên thị trường chứng khoán sẽ đem lại tỷ phần
thu không nhỏ trong thu nhập và trong tăng trưởng nguồn vốn kinh doanh
của Ngân hàng.
Bên cạnh những thuận lợi trên, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn cũng gặp không ít khó khăn bao gồm cả những khó khăn chung
của ngành Ngân hàng và khó khăn riêng do đặc điểm của chi nhánh Thanh
Xuân khi mới bắt đầu thành lập.
Nhìn chung năm 1996-1997 khi Ngân hàng mới thành lập, kinh tế thủ
đô có tăng trưởng nhanh hơn với các tỉnh khác, tuy nhiên tốc độ này đã
sớm bị chững lại. Bên cạnh những thiệt hại về thiên tai lũ lụt, nền kinh tế

còn chịu sự tác động, chi phối của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu
vực gây tâm lý bất ổn cho khách hàng dẫn đến co hẹp về hoạt động, sự
cạnh tranh giữa các Ngân hàng trong nước, Ngân hàng nước ngoài, đặc
25

×