Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

tiểu luận cao học, Nhà nước trong hệ thống quyền lực chính trị ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.26 KB, 37 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội trong tất cả
các thời đại. Theo suốt chiều dài lịch sử phát triển của nhân loại kể từ khi nhà
nước ra đời đến nay đã có bốn kiểu nhà nước thay thế nhau và kiểu nhà nước
sau bao giờ cũng tiến bộ và hoàn thiện hơn kiểu nhà nước trước. Giai cấp cầm
quyền qua các thời đại đã dựa trên hai nguyên tắc cơ bản để tổ chức xây dựng
bộ máy nhà nước, đó là nguyên tắc tập quyền và nguyên tắc phân quyền.
Tổ chức quyền lực nhà nước trong nhà nước dân chủ dù được xây dựng
trên bất cứ nguyên tắc nào đều phải đảm bảo những cơ sở pháp lý để nhà
nước đó tiến hành có hiệu quả các hình thức hoạt động cơ bản đó là hoạt động
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chỉ có trên cơ sở đó nhà nước mới thực hiện
được đầy đủ các chức năng nhiệm vụ của mình.
Ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu một cách nghiêm túc và đầy đủ nội
dung và ý nghĩa của nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
cơng, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng trọng cả về lý luận
lẫn thực tiễn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay Đảng và Nhà nước đang từng
bước tổ chức, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân. Tư tưởng đó ln được khẳng định qua các kỳ đại hội từ năm
1946 trở lại đây và nó được thể chế hố vào Hiến pháp năm 1992 ( sửa đổi)
tại điều 2: “ Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ tri
thức... quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp”.


Đặc biệt, trong bối cảnh tồn cầu hố, hội nhập cùng phát triển như
hiện nay, đất nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn và thử thách lớn. Do


đó, để đẩy mạnh phát triển kinh tế, ổn định chính trị và nâng cao chất lượng
cuộc sống cho nhân dân, Đảng và Nhà nước ta cần có sự thống nhất, phân
cơng và phối hợp chặt chẽ hơn nữa về chức năng, nhiệm vụ của mình. Xác
định được tầm quan trọng đó, trong bài phát biểu của mình tại kỳ họp lần thức
11 Quốc hội khố VIII ( 24/03/1992). đồng chí Đỗ Mười nguyên Tổng bí thư
khẳng định: “ Quyền lực tối cao nhất của nhà nước tập trung vào Quốc
hội,nhưng có sự phân cơng, phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính phủ và Toà án
nhân dân tối cao để mỗi cơ quan thực thi có hiệu lực chức năng , quyền hạn
của mình theo quy định của Hiến pháp với sự phối hợp cộng tác chặt chẽ tạo
nên sức mạnh tổng hợp của quyền lực nhà nước”.
Tuy nhiên, vấn đề thống nhất, phân công, phối hợp quyền lực giữa các
cơ quan Nhà nước ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa rõ ràng, còn gây ra nhiều
tranh cãi là: thống nhất quyền lực là thế nào? Thống nhất vào nhân dân hay
thống nhất vào Quốc hội?... Kinh nghiệm cần rút ra và hướng thực hiện về
mặt lý luận khẳng định sự phân công, phối hợp của cơ quan Nhà nước thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhưng trên thực tế sự phân cơng,
phối hợp đó chưa rõ ràng, chặt chẽ. Vì vậy cần có sự nghiên cứu cụ thể nhằm
làm sáng tỏ các vấn đề bản chất của quyền lực Nhà nước thông qua sự phân
công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước. Đó là lý do em lựa chọn đề tài “
Nhà nước trong hệ thống quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu:
Nghiên cứu quyền lực Nhà nước và sự phân công quyền lực Nhà nước
từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả và giới lý luận , ở nước ta đã
xó nhiều cơng trình nghiên cứu vấn đề trên dưới nhiều góc độ khác nhau:
PGS. TS Đinh Văn Mậu “Quyền lực Nhà nước và quyền công dân”.
Đã phân tích , chứng minh và làm rõ vấn đề quyền lực của Nhà nước Việt
Nam, các bộ phận cấu thành quyền lực Nhà nước và vấn đề thiết lập, phân
công quyền lực Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
1



GS. TS Nguyễn Duy Gia “Quan niệm về phân công quyền lực Nhà
nước và chức năng tài phán hành chính”. Đã nêu một cách khái quát những
quan điểm về phân công quyền lực Nhà nước Việt Nam qua các kỳ đại hội.
Qua đó khẳng định lập trường thống nhất quyền lực của nước ta đồng thời có
sự phân cơng, phối hợp quyền lực giữa các cơ quan.
GS. TS Nguyễn Duy Q “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, khơng
có sự phân chia quyền lực. Chúng ta không thể áp dụng thể chế “ tam quyền
phân lập”, đối lập giữa các quyền lực, không tổ chức Quốc hội lưỡng viện,
không thực hiện chế độ tự trị địa phương. Đất nước chỉ có Quốc hội, một
Hiến pháp và một hệ thống pháp luật duy nhất”.
Bên cạnh đó cịn một số cơng trình nghiên cứu trên các tạp chí, kỷ yếu,
hội thảo về sự thống nhất, phân công và phối hợp quyền lực của các cơ quan
Nhà nước trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân – của Tơ Xn Dân và Nguyễn Thanh Bình ( trên báo Việt Nam net
( 18/01/2007).
Nhìn từ góc độ tổng thể, những nghiên cứu trên đều thống nhất ở một
điểm đó là khẳng định quyền lực Nhà nước ta là thống nhất, có sự phân cơng,
phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu:
Mục đích: Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về quyền lực Nhà nước và sự phân công quyền lực giữa các cơ
quan để làm rõ nội dung thống nhất, phân công và phối hợp quyền lực giữa
các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp ở Việt Nam, chỉ ra những kết quả đã thực hiện được và những mặt còn
hạn chế. Đồng thời đưa ra những ảnh hưởng của vấn đề trên đối với sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ: phân tích sự thống nhất , phân công và phối hợp quyền lực
của các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và

tư pháp ở Việt Nam và nêu rõ chức năng, tổ chức và hoàn thiện cơ chế quyền
lực Nhà nước là thống nhất và có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan.
2


Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu những quan điểm, lý luận,
văn bản về quyền lực Nhà nước, sự thống nhất quyền lực Nhà nước trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phạm vi nghiên cứu:
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về quyền lực Nhà nước và sự phân công quyền lực giữa các cơ quan Nhà
nước, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước ta về quyền lực
Nhà nước.
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
kết hợp với phân tích, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ vấn đề trên.
5. Kết cấu: Gồm 3 chương.
Chương I: Cơ sở lý luận về nguyên tắc thống nhất , phân công và phối
hợp trong tổ chức quyền lực của Nhà nước.
1. Khái niệm và cấu trúc của quyền lực Nhà nước.
2. Một số mơ hình tổ chức quyền lực của Nhà nước trong lịch sử.
3. Tổ chức quyền lực Nhà nước theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân do dân và vì dân.
Chương II: Tổ chức bộ máy Nhà nước theo nguyên tắc quyền lực Nhà
nước thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp quyền lực của các cơ quan Nhà
nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
1.Quan điểm về phân công quyền lực ở nước ta
2. Tập trung thống nhất quyền lực nhưng có sự phân cơng,phối hợp
giữa các cơ quan
3. Sự phân công và phối hợp quyền lực của các cơ quan Nhà nước
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Chương III: Hoàn thiện cơ chế thực hiện nguyên tắc quyền lực Nhà
nước có sự phân cơng và phối hợp quyền lực của các cơ quan Nhà nước trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
1. Sự thống nhất quyền lực của Nhà nước.
2. Sự phân công quyền lực của Nhà nước.

3


3. Hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo nhà nước nhằm đảm bảo thống
nhất, có sự phân cơng và phối hợp quyền lực

4


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SỰ THỐNG NHẤT, PHÂN CÔNG VÀ PHỐI HỢP
TRONG TỔ CHỨC QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

1. Khái niệm và cấu trúc của quyền lực Nhà nước.
Quyền lực là một trong những vấn đề cổ xưa nhất và quan trọng của tri
thức chính trị.
Ngay từ thời cổ đại , trong tác phẩm: “ chính trị Aten” Cristot cho rằng
quyền lực không chỉ là cái vốn có của mọi sự biết cảm giác, và của cả thế giới
vô cơ. Thời kỳ trung cổ ,các nhà thần học quan niệm loài người chỉ là cái phát
sinh từ quyền lực thượng đế.Các nhà không tưởng và các nhà bách khoa thời
phục hưng chỉ nhấn mạnh quyền lực nhà nước coi quyền lực nhà nước ta là “
vương quốc của lý trí”
Tới nay, vẫn chưa có một định nghĩa nào được gọi là hồn chỉnh về

quyền lực. Nhà chính trị học Mỹ, K. Dantra cho rằng nắm quyền lực là buộc
người khác phải phục tùng, còn Lebic Lipson coi quyền lực là khả năng đạt
tới kết quả nhờ một hành động phối hợp. Trong từ điển bách khoa triết học
Xô Viết quan niệm: quyền lực là khả năng thực hiện ý trí của mình có tác
động đến hành vi, phẩm hạnh của người khác nhờ một phương tiện nào đó,
như uy tín, quyền hành nhà nước, sức mạnh.
Quyền lực trong xã hội có cấu trúc phức tạp, bao gồm nhiều loại quyền
lực khác nhau như quyền lực dòng họ, quyền lực tơn giáo, quyền lực chính
trị , quyền lực nhà nước. Các loại quyền lực đó đồng thời tồn tại đan xen,
thâm nhập vào nhau và ảnh hưởng lẫn nhau tạo thành một chính thể của
quyền lực trong xã hội. Trong số các loại quyền lực trong xã hội, đáng chú ý
nhất là quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước.
Quyền lực chính trị là quyền lực của một hay của liên minh giai cấp,
tập đoàn xã hội và trong điều kiện của xã hội dân chủ thì quyền lực chính trị
5


là quyền lực của nhân dân. Trong một ý nghĩa riêng của từ, Ph Ănghen viết:
Quyền lực chính trị là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để đàn áp giai cấp
khác.
Quyền lực Nhà nước là quyền lực của giai cấp (hoặc liên minh giai
cấp)thống trị được thực hiện bằng cả một hệ thống chuyên chính do giai cấp
đó lập ra. Quyền lực nhà nước được thực hiện bằng nhiều công cụ khác nhau.
Một trong những điểm phân biệt với phương thức thực hiện quyền lực chính
trị khác là ở chỗ, quyền lực của nhà nước được tổ chức thành một hệ thống
thiết chế và có khả năng vận dụng các cộng cụ của nhà nước để buộc các giai
cấp tầng lớp trong xã hội khác phải phục tùng ý chí cuả giai cấp thống trị.
Như vậy, quyền lực nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của quyền lực
chính trị, do đố nếu có sự thay đổi căn bản của nó bằng việc chuyển chính
quyền nhà nước từ tay giai cấp này sang giai cấp khác sẽ trực tiếp dẫn đến sự

thay đổi căn bản tính chất chế độ chính trị. Bởi vì cái cốt lõi nhất trong chính
trị là tổ chức chính quyền nhà nước, việc đầu tiên trong lĩnh vực chính trị là
tham gia cơng việc nhà nước, quy định hình thức, trách nhiệm, phương hướng
và nội dung hoạt động của nhà nước.
Ở Việt Nam, từ năm 1945, xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể và phù
hợp với yêu cầu cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, các hiến pháp năm
1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992 đã quy định: tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Nghị quyết Đại hội VIII của đảng khẳng định một
trong năm quan điểm cơ bản tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước và xây dựng
hoàn thiện Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “ Quyền lực nhà
nước là thống nhất có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp: và quan điểm này đã
được đưa Điều 2 của hiến pháp 1992 sửa đổi.
* Cấu trúc của quyền lực nhà nước:
Nghiên cứu cấu trúc quyền lực của Nhà nước sẽ mở đường nhận thức
về tính chất quyền lực nhà nước, làm sáng tỏ nội dung đồng thời tạo ra khả
6


năng khái quát hoá cao hơn. Để xác định cấu trúc quyền lực nhà nước cần
khẳng định những điểm xuất phát điểm sau:
Thứ nhất, quyền lực nhà nước xuất hiện từ những mâu thuẫn xã hội
khơng thể điều hồ được và bản thân nó có sự mâu thuẫn bên trong. Trong
quyền lực nhà nước có sự pha trộn thành phần khác khác nhau của các trật tự
tâm lý xã hội và trật tự vật chất. Những cái đó địi hỏi sự phân tích từ nhiều
khía cạnh các mối liên kết về cấu trúc.
Thứ hai, quyền lực nhà nước là một hiện tượng xã hội đa dạng và năng
động gồm các cấu thành phức tạp của nó tạo nên quyền lực đó. Mỗi cấu thành
có những cấu trúc đặc biệt nằm trong mối quan hệ và chỉ quan tâm đến những
bộ phận cấu thành có liên quan đến quyền lực nhà nước mà thơi. Vì quyền lực

nhà nước là một hiện tượng xã hội cho nên các cấu thành của nó được phân
chia thành hai bộ phận.
Quyền lực Nhà nước dựa trên cơ sở kinh tế – xã hội. Trên cơ sở sức
mạnh quyền lực nhà nước được hình thành : Đảng cầm quyền, chính quyền...
Trong thực tiễn nếu khơng có bộ nhà nước không thể thực hiện được. Mối
liên hệ qua lại giữa quyền lực nhà nước và bộ máy nhà nước là rất phức tạp.
Cơ cấu quyền lực nhà nước quyết định nội dung quyền lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước gồm 3 bộ phận cấu thành: quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp.
Quyền lập pháp: là quyền ban hành các quy phạm pháp luật được thực
hiện bằng hoạt động quyết định về luật của Quốc hội và uỷ quyền của Quốc
hội cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ra pháp lệnh. Trong q trình lập pháp
có nhiều cơ cấu nhà nước tham gia, phối hợp việc thực hiện các thẩm quyền:
kiến nghị về luật, soạn thảo và trình dự án luật, thẩm tra dự án luật.
Quyền hành pháp là quyền thi hành pháp luật và tổ chức đời sống xã
hội theo pháp luật. Quyền hành pháp được thực hiện bởi các thẩm quyền: ban
hành chính sách quản lý , ra quyết định quy phạm hành chính bằng hoạt động
lập quy, áp dụng pháp luật bằng các việc ra quyết định hành chính cá biệt- cụ
7


thể, thực hiện các hành vi chính trị, tổ chức phục vụ đời sống xã hội , để đảm
bảo thực hiện lợi ích cơng cộng, lợi ích cơng dân đã được pháp luật hố.
Cịn quyền tư pháp được thực hiện khi xét sử, thẩm phán và hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nhân danh nhà nước và nhân dân
để phán quyết, không phụ thuộc vào bất cứ cơ quan hoặc cấp hành chính nào.
Trong bộ máy nhà nước Viện kiểm soát nhân dân là những cơ quan có chức
năng đặc thù, thực hiện quyền cơng tố và giám sát các hoạt động tư pháp. Vì
vậy, quyền tư pháp là quyền thống nhất – quyền lực nhà nước, không phải là
quyền của từng cộng đồng địa phương. Nói cách khác là địa phương khơng có

quyền tư pháp.
Theo thuyết phân quyền thì ba quyền này có sự phân chia và chế ước
lẫn nhau. Nhà nước việt nam thực hiện nguyên tắc tập trung quyền lực, có sự
phân công, phân định giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
2. Những luận điểm cơ bản về tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước.
a. Quyền lực nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến, quyền lực nhà nước đều
nằm trong tay một nhà quân chủ. Xét về hình thức, nhà nước ấy là nhà nước
quân chủ chuyên chế. Quyền lực của nhà vua là vô hạn. Cách giải quyết tất
yếu ấy dẫn đến sự lạm quyền và tuỳ tiện. Mác có nhận xét rất xác đáng về chế
độ đó, ơng viết: sự tuỳ tiện là quyền lực của nhà vua , hay quyền lực của vua
là sự tuỳ tiện.
Để chống lại chế độ chuyên chế, độc đốn đó, ngay từ thời cổ đại đã
xuất hiện tư tưởng phân chia quyền ở những mức độ khác nhau. Đại biểu của
tư tưởng ấy là Platno (427 347 TCN) và Aritot ( 384 – 322 TCN)
Platon cho rằng nguyên tắc cơ bản xưa “ xã hội lý tưởng” là sự phân
công lao động giữa các tầng lớp người khác nhau. Từ đó, ơng phân cơng lao
động trong bộ máy nhà nước là cần thiết. Lập pháp, hành pháp và tư pháp là

8


những hoạt động của nhà nước “ cùng nhằm vào một đối tượng , nhưng đồng
thời chúng khác nhau”.
Còn Airtot quan niệm, hình thức nhà nước phụ thuộc vào cách thức tổ
chức chính quyền lực chính trị. Theo ơng, nhà nước là một thể thống nhất
được tạo thành bởi ba bộ phận độc lập : cơ quan làm luật, cơ quan hành chính
và cơ quan xét xử. Trong đó cơ quan làm luật dữ vai trò chủ đạo.
Như vậy, ngay từ rất sớm tư tưởng phân công quyền lực đã được hình

thành giữa các bộ phận của bộ máy nhà nước.
b. Tư tưởng tổ chức quyền lực của các học giả tư sản:
Các học giải tư sản kế thừa tư tưởng phân quyền thời cổ đại và phát
triển học thuyết “phân chia quyền lực” vào thời kỳ cách mạng tư sản thể kỷ
XVI- XVIII. Đại diện là J. Locc và đỉnh cao là Montesquieu. Theo J. Locc để
đảm bảo quyền tự do cơ bản của con người cần phải hạn chế quyền lực chính
trị theo nguyên tắc phân chia quyền lực, tách quyền hành pháp khỏi quyền lập
pháp và nhà làm luật cũng phải lệ thuộc vào luật. Ông chia quyền lực nhà
nước thành: lập pháp , hành pháp và quyền lực liên bang. Ông muốn chia
quyền lực nhà nước cho những lực lượng chính trị xã hội là tư sản va quý tộc
phong kiến. Theo ông trong cơ cấu quyền lực, quyền lập pháp có vai trị chủ
đạo nhưng khơng tuyệt đối, vì mọi quyền lực tối cao cịn lại thuộc về nhân
dân là người có thể giải tán hay thay đổi thành phần cơ quan lập pháp, khi mà
hoạt động khơng cịn đảm bảo tín nhiệm với nhân dân...
Ngồi ra, Hêghen ( 1770- 1831) cịn cho rằng nhà nước là một cơ thể
thống nhất tồn vẹn, nó xuất hiện , phát triển và hoạt động là nhờ vào sự khác
biệt và quan hệ qua lại giữa các bộ phận cấu thành: quyền lập pháp , quyền
hành pháp và( quyền tư pháp) và quyền lực của chúa đất. Phân chia quyền lực
là đảm bảo sự tự do. Nhưng ông lại muốn tập trung quyền lực vào tay một
nhà quân chủ..
Như vậy, xét về mặt lịch sử của sự hình thành phát triển thuyết phân
chia quyền lực được hiểu và áp dụng thực tế ở các nước tư bản. Trong kho
9


thừa nhận phân quyền là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức hoạt động bộ máy
nhà nước thì thực tế nó lại đan xen thẩm thấu vào nhau, quyền lực bị phân
chia nhưng lại thống nhất ở mặt sau của nó là tính giai cấp và chính trị.
c. Quan điểm Mácxít về tổ chức quyền lực nhà nước.
Những người sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhận thấy và chỉ ra

những hạn chế của thuyết phân chia quyền lực về lý luận và thực tiễn, chỉ ra
bản chất bên trong và lý do tồn tại của nó. Theo Mác-Lênin nguyên tắc phân
chia quyền lực chỉ tồn tại khi có sự cạnh tranh quyền lực giữa các thế lực
trong xã hội.
Khi xem xét mối liên hệ giữa thuyết phân chia quyền với sự phân công
lao động trong bộ máy nhà nước, Ph. Ăngghen viết: “ Phân quyền được xem
như là nguyên tắc thiêng liêng và không thể xâm phạm được trên thực tế về
thực tế nó khơng có gì khác là sự phân công công việc lao động được áp dụng
đối với bộ máy nhà nước nhằm đơn giản hoá và kiểm tra”[ Mác - Ăngghen
tuyển tập, Nxb sự thật 1981] . Trên cơ sở đó Mác - Ăngghen đã đưa ra quan
niệm mới về quyền lực nhà nước đó là tính giai cấp của nó.
Lênin kế thừa, phát triển tư tưởng đó coi là sự lý luận của quá trình tổ
chức bộ máy nhà nước kiểu mới. Ơng viết: những cơ quan đại diện vẫn còn
nhưng chế độ đại nghị với tư cách là một hệ thống đặc biệt, một sự phân chia
giữa lập pháp và hành pháp được coi là địa vị đặc quyền của các nghị sĩ thì
khơng cịn nữa.
Như vậy, ở đây Mác-Lênin đã khẳng định quan điểm về tính thống
nhất của quyền lực Nhà nước, sự thống nhất nội tại bởi lợi ích thống nhất của
giai cấp, tầng lớp xã hội đó. Sự thống nhất trên cơ sở xích lại gần giữa các
quyền lực khơng phải là sự “nhập cục” tất cả quyền lực đó lại và trao cho một
cơ quan thực hiện, mà do nhiều cơ quan thực hiện. Mỗi cơ quan đảm nhiệm
một nhánh quyền lực nhưng chúng thống nhất với nhau và bản chất, mục tiêu
không trở thành những lực cản đối lập nhau.

10


3. Tổ chức bộ máy nhà nước theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền của dân do dân và vì dân.
Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là

một trong những điều kiện và môi trường kiên quyết của một quốc gia tiến
hành cơng nghiệp hố hiện đại hố và một xã hội phát triển tiên tiến.
Nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền là khẳng định cội
nguồn quyền lực nhà nước là ở nhân dân. Để đảm bảo quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân trong đó nhà nước là của nhân dân chứ không phải nhân
dân là của nhà nước, Nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp pháp
trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, nhà nước chỉ được làm những điều
pháp luật cho phép, còn nhân dân làm tất cả những điều pháp luật không cấm,
pháp luật bảo đảm cho sự phát triển tự do tối đa của nhân dân. Vai trò của
pháp luật trong việc xây dựng và duy trì một xã hội trật tự ổn định trong đó
khơng chỉ mỗi cơng dân mỗi cá nhân mà bản thân nhà nước và những người
đứng đầu chính quyền cũng phải tơn trọng pháp luật đã được khẳng định. Hai
mặt dân chủ và pháp luật trong nhà nước pháp quyền gắn bó hữu cơ, làm tiền
đề tồn tại cho nhau và tạo nên bản chất của Nhà nước pháp quyền trong lịch
sử nhân loại. C. Mác, Ph. Ănghen và V.I. Lê nin đánh giá cao giá trị nhân văn
của học thuyết Nhà nước pháp quyền mà cách mạng tư sản đã cống hiến cho
nhân loại.
Ở nước ta để đảm bảo phát huy sức mạnh toàn dân tộc tiếp tục đổi mới
đẩy mạnh sự cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh thì một trong những vấn đề
chiến lược là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy, cần làm sáng tỏ về bản chất
nội dung cũng như những đặc thù của nó, tạo thành hệ thống quan điểm lý
luận định hướng cho việc hoàn thiện nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố hiện đại hoá đất nước.

11


Hiện nay, Việt Nam đã có đủ các tiền đề về kinh tế chính trị xã hội để

từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân do dân và vì dân có sắc thái riêng, phù hợp với điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội , truyền thống, văn hố của Việt Nam. Cần nhận
thức rằng việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là quá trình lâu
dài, phải được tiến hành từng bước, chia thành nhiều giai đoạn, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Mỗi giai đoạn tương ứng với một mức độ phát triển của
xã hội và nhà nước. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cần quán triệt những vấn đề
có tính ngun tắc sau:
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì
dân là cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Đó là Nhà nước trong đó bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, vì thế quyền lực nhà nước là thống nhất khơng tam quyền phân lập
nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá
trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý
nghiêm minh kịp thời mọi phạm vi pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được
các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp
pháp của nhân dân, ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện lạm dụng quyền từ phía cơ
quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước đồng thời ngăn ngừa hiện tượng
dân chủ độc đốn, vơ kỷ luật , thiếu cương quyết. Đó là nhà nước mà mọi tổ
chức ( kể cả tổ chức đảng), hoạt động phải dựa trên cơ sở pháp luật , tuân thủ
pháp luật, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình. Vì
vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có quan hệ khăng khít
với xây dựng xã hội công dân. Xây dựng nhà nước pháp quyền dân do dân và
vì dân là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động
nội lực của toàn thể nhân dân , của tất cả các thành phần kinh tế vào sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và xây dựng nền kinh tế thị
12



trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội công dân là bộ ba hợp thành
không thể tách rời , là điều kiện và tiền đề cho nhau , là đảm bảo vào kết quả
của cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước.
Hiến pháp và pháp luật nước ta ghi nhận quyền của công dân tham gia
quản lý nhà nước , quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả
nước và địa phương, kiến nghị , đề đạt nguyện vọng u cầu của mình với các
cơ quan nhà nước. Cơng dân có quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, quyền
khiếu nại, tố cáo,... Các quyền và sự tự do đó trong nhiều trường hợp nhưng là
điều kiện để nhân dân kiểm tra hoạt động của nhà nước., nhưng trước hết đó
là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện dân chủ. Vì vậy, cần
chăm lo cho mọi người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người ; tôn
trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người Việt Nam đã ký
kết hoặc tham gia. Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp ,các
ngành, của cán bộ , công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại tố cáo
của công dân.
Quyền lực nhà nước ở nước ta là quyền lực nhà nước thống nhất. Sự
thống nhất đó là ở mục tiêu chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước,
của dân tộc. Xét theo cơ chế tổ chức thì quyền lực nhà nước tối cao, tức là
những chức năng và thẩm quyền cao nhất thuộc về những cơ quan đại diện
cho nhân dân. ở nước ta , đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc
hội có thẩm quyền lập hiến và lập pháp; quyền giám sát tối cao; quyền quyết
định kế hoạch phát triển đất nước; quyền lập ra các cơ quan và chức vụ quốc
gia cao nhất. Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương , đại diện cho ý chí , nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân
địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Một trong những điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân là quyền lực nhà nước là thống nhất trên cơ sở phân

13


công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền: quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối
hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động lập pháp đứng trước những nhiệm
vụ mới mẻ và phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế. Lập pháp phải bảo đảm tính khả thi của các của quy định pháp
luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống. Hoạt
động lập pháp phải vừa đảm bảo chất lượng vừa theo kịp yêu cầu của sự phát
triển. Muốn vậy, cần tổ chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp. Quy trình đó
phải vừa bảo đảm phản ánh được sự phát triển sống động của đời sống xã hội
trong các lĩnh vực , lại vừa đảm bảo tính chun mơn pháp lý của các quy
định để có sự phối hợp chặt chẽ giữa các khâu làm luật với việc ban hành các
văn bản dưới luật, tổ chức thực hiện pháp luật.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt
động của bộ máy hành pháp của nước ta còn nhiều nhược điểm, còn nhiều
mặt chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Tổ chức
hành pháp chưa thông suốt, còn yếu trong việc xử lý những mối liên kết dọc
và ngang thậm chí cịn có hiện tượng cục bộ. Chế độ phân cấp trách nhiệm
còn thiếu rành mạch, làm trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu và
dựa dẫm. Thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ .
Thái độ làm việc và trách nhiệm trước dân của đội ngũ cán bộ , cơng chức
vẫn cịn là vấn đề đáng nói hiện nay.
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp Hiến pháp và pháp luật của Nhà
nước ta trước sau như một khẳng định các u cầu về bình đẳng , cơng bằng,
về sự độc lập của toà án khi xét xử, bảo đảm mọi vi phạm đều bị xử lý, tăng
cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân. Trong

giai đoạn hiện nay, hoạt động tư pháp đã trở thành một hoạt động hết sức
quan trọng của Nhà nước ta, thể hiện vai trò mới , những đòi hỏi và những
14


nhiệm vụ mới của lĩnh vực hoạt động đó. Trên cơ sở những thành tựu và kinh
nghiệm đã có , cần đẩy mạnh cải cách tư pháp theo nghị quyết 08 của Bộ
chính trị (khố IX) mà những nội dung cơ bản phải là cải cách hoạt động xét
xử và cải cách các thủ tục tố tụng, nâng cao năng lực chuyên môn , đạo đức
nghề nghiệp và trách nhiệm chính trị - pháp lý của bộ tư pháp.

15


CHƯƠNG II:
TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC THEO NGUYÊN TẮC QUYỀN LỰC
NHÀ NƯỚC LÀ THỐNG NHẤT CĨ SỰ PHÂN CƠNG, PHỐI HỢP
GIỮA CÁC CƠ QUAN
1. Quan điểm về phân công quyền lực ở nước ta:
Ở nước ta , quyền lực của nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc
thống nhất, khơng phân chia nhưng có sự phân cơng rành mạch các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Quan điểm về phân công quyền lực nhà nước
được ghi nhận trong các văn kiện chính trị của Đảng, trong hiến pháp và các
luật tổ chức bộ máy nhà nước. Quá trình hình thành và phát triển, việc tổ chức
quyền lực của nhà nước ta nhất quán theo quan điểm trên.
Hiến pháp năm 1946 , thiết chế mơ hình tổ chức quyền lực theo quan
điểm phân công rõ ràng các quyền trong quyền lực nhà nước thống nhất. Nghị
viên nhân dân- cơ quan cao nhất của đất nước, duy nhất có quyền lập
pháp.Chính phủ đứng đầu là chủ tịch nước và nội các, điều hành cùng với hệ
thống chính quyền địa phương thực hiện quyền hành pháp. Toà án được tổ

chức theo cấp xét xử- khâu trọng yếu của tư pháp.
Hiến pháp năm 1959 và năm 1980 , kế thừa và hoàn thiện cơ chế của
hiến pháp năm 1956 trong điều kiện mới của cách mạng nước ta. Vị trí của cơ
quan quyền lực nhà nước( Quốc hội và hội đồng nhân dân) được nâng cao; hệ
thống hành chính nhà nước, đứng đầu là Chính phủ được tăng cường; các cơ
quan tư pháp ( Tồ án nhân dân và Viên kiểm sốt nhân dân) , thực hiện chức
năng xét xử và kiểm sát, được hoàn thiện để đảm bảo tốt hơn chức năng bảo
vệ pháp luật.
Hiến pháp năm 1992 củng cố quan điểm về phân công quyền lực Nhà
nước trong điều kiện đổi mới. Chức năng lập pháp của Quốc hội được nhấn
mạnh. Khả năng hành pháp của Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước
được khẳng định rõ rệt. Quyền xét xử, cơng tố và kiểm sốt chung của các cơ

16


quan Toà án, Kiểm sát và các cơ quan hỗ trợ tư pháp được hoàn thiện một
bước quan trọng.
2. Tập trung thống nhất quyền lực, nhưng có sự phân cơng, phối
hợp giữa các cơ quan.
Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, quyền lực Nhà nước
được thực hiện trên ba chức năng: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các chức
năng đó bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trên toàn bộ lãnh thổ
của đất nước. Vấn đề đặt ra là tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước đó như
thế nào để đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của bộ máy Nhà nước. Văn kiện Đại
hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ: Nhà nước ta “tổ chức và hoạt động.... theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực, có sự phân cơng, phân
cấp, đồgn thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương” [Đảng cộng
sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. 1991]

Quyền lực Nhà nước thống nhất, duy nhất, khơng thể phân chia vì bản
chất, quyền lực đó là quyền lực của nhân dân. Bộ máy Nhà nước có nhiều hệ
thống cơ quan tương ứng thực hiện các chức năng của quyền lực Nhà nước
những đều nhằm tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, vì lợi ích của
nhân dân.
Quyền lực Nhà nước là thống nhất không thể phân chia nhưng được
phân công rành mạch giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Phân cấp
rõ ràng giữa Nhà nước trung ương với chính quyền địa phương và cơ sở. Sự
phân công, phân cấp đó đảm bảo cho các cơ quan Nhà nước phát huy tính độc
lập, chủ động và tự chịu trách nhiệm trong quá trình thực hiện chức năng của
mình.
Như vậy, thực hiện thống nhất nhưng có sự phân cơng rành mạch trong
tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước là đảm bảo quyền lực của nhân dân
(thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp) đảm bảo hoạt động tập
trung thống nhất của cả bộ máy Nhà nước; đồng thời đảm bảo khả năng độc
17


lập, dân chủ và trách nhiệm, hoạt động có hiệu quả của mỗi hệ thống cơ quan
Nhà nước.
Nguyên tắc thống nhất quyền lực Nhà nước nhưng có sự phân cơng
được cụ thể hoá thành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa
các cơ quan Nhà nước ở Trung ương, cũng như chức năng, nhiệm vụ quyền
hạn và mối quan hệ với Nhà nước Trung ương của chính quyền các cấp.
3. Sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lực Nhà nước.
Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy
định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân do
dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức” ( điều 2) Hiến

pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 cũng quy định tại
điều 6: “ nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho nguyện vọng, ý chí của nhân
dân, do dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Hiến pháp năm 1992
đã xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trên lĩnh vực lập
pháp; quyết định các vấn đề đối nội , đối ngoại, thành lập và miến nhiệm các
chức vụ cơ quan nhà nước trung ương và bãi bỏ các văn bản sai trái ở các cơ
quan nhà nước.
Trong lĩnh vực lập pháp: Luật do Quốc hội thông qua, xong việc soạn
thảo thường do chính phủ quản lý, uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua và
cuối cùng là được Chủ tịch nước công bố. Quy trình này trong giai đoạn hiện
nay vẫn cịn phù hợp . Ngoài ra Uỷ ban thường vụ Quốc hội còn ban hành
pháp lệnh , song chỉ quy định những vấn đề được Quốc hội giao và được Chủ
tịch nước cơng bố.
Nghị định của Chính phủ về một số vấn đề cần thiết, nhưng chưa đủ
điều kiện ban hành luật hoặc pháp lệnh thì trước khi ban hành phải được sự
đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
18


Trong lĩnh vực quyết định các vấn đề đối nội, đối ngoại của các cơ
quan nhà nước cấp cao, sự phối hợp thể hiện ở chỗ:
Các quyết định của Quốc hội về vấn đề chiến tranh và hồ bình, đại xá
quyết định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về tổng động viên hoặc động viên
cục bộ tình trạng khẩn cấp do Chủ tịch nước công bố. Đối với quyết định của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nhà
nước bị xâm lược thì phải được Chủ tịch nước và được Quốc hội phê chuẩn
trong kỳ họp gần nhất. Sự phân phối này là cần thiết bảo đảm cho Uỷ ban
thường vụ Quốc hội khi giải quyết những nhiệm vụ Quốc hội giao giữa hai kỳ
họp được chính xác.

Trong lĩnh vực thành lập miễn nhiệm các chức vụ cao cấp trong các cơ
quan nhà nước: Quốc hội có trách nhiệm bầu ra Thủ tướng chính phủ, chánh
án tồ án nhân dân tối cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao theo đề
nghị của chủ tịch nước. Đây là một điểm mới so với trước kia , đảm bảo sự
phối hợp giữa quốc hội và chủ tịch nước trong việc thành lập và giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước khác. Phó thủ tướng bộ trưởng và các thành
viên khác của chính phủ do thủ tướng đề nghị quốc hội phê chuẩn và chủ tịch
nước bổ nhiệm. Việc bãi nhiệm miễn nhiệm do chủ tịch nước , thủ tướng
chính phủ quyết định tại kỳ họp. Đối với chánh án toà án nhân dân tối cao,
viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng do quốc hội quyết định. Trong thời gian
quốc hội khơng họp thì thuộc thẩm quyền của uỷ ban thường vụ quốc hội và
chủ tịch nước.
Các phó thủ tướng bộ trưởng và thành viên khác của chính phủ chịu
trách nhiệm trước quốc hội và thủ tướng chính phủ trong thời gian quốc hội
khơng họp thì uỷ ban thường vụ quốc hội phê chuẩn đề nghị của thủ tướng
chính phủ về việc miễn nhiệm, cách chức các thành viên chính phủ đó, nhưng
phải được chủ tịch nước nhất trí và báo cáo với quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

19



×