Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý chi thường xuyên ngân sách Nhà nước cho giáo dục Tiểu học và THCS ở huyện Từ Liêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.15 KB, 87 trang )

Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
MỤC LỤC
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03

Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
LỜI MỞ ĐẦU
Giáo dục đào tạo có vị trí quan trọng đặc biệt trong sự phát triển kinh tế xã
hội của mỗi quốc gia. Chỉ có tri thức mới đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc
hậu, hội nhập với nền kinh tế thế giới, làm chủ được khoa học công nghệ. Để
giáo dục vừa là động lực, vừa là mục tiêu phát triển kinh tế xã hội chúng ta phải
phát triển giáo dục cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Thấy được tầm quan trọng của
giáo dục, thời gian qua Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư cho lĩnh vực giáo dục.
Chi ngân sách Nhà nước cho lĩnh vực này tăng lên cả về tỷ trọng lẫn số tuyệt
đối, điều đó đó gúp phần tạo điều kiện cải tạo, tăng cường cơ sở vật chất trường
học, mở rộng quy mô đào tạo, nâng cao chất lượng dạy và học trên phạm vi cả
nước.
Xét trên phạm vi một huyện, chi ngân sách Nhà nước cho lĩnh vực giáo
dục có một vị trí quan trọng. Từ Liêm là một huyện kinh tế dựa vào nông nghiệp
là chính, đất chật, người đông, trình độ phát triển kinh tế còn thấp, khả năng
XHH chưa nhiều nên ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp giáo dục vẫn giữ vai
trò chủ đạo. Sự nghiệp giáo dục được coi là một trong những động lực để phát
triển nền kinh tế xã hội của huyện và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ,
chi ngân sách cho giáo dục hàng năm chiếm tỷ lệ lớn trong tổng chi ngân sách
huyện. Tuy vậy chất lượng giáo dục còn thấp, chưa xứng đáng với nguồn vốn mà
huyện đã đầu tư. Trong khi thực hiện các khoản chi của ngân sách nhà nước cho
sự nghiệp giáo dục còn bộc lộ nhiều hạn chế và bất hợp lý đặc biệt là công tác
quản lý chi thường xuyên ngân sách Nhà nước. Vì vậy, việc chọn đề tài “ Một số
giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý chi thường xuyên ngân sách Nhà
nước cho giáo dục Tiểu học và THCS ở huyện Từ Liêm ” là cần thiết cả về mặt
lý luận và thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp duy vật biện chứng; duy vất lịch


sử.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nội dung chi và công tác quản lý chi
ngân sách Nhà nước cho giáo dục Tiểu học và THCS ở huyện Từ Liêm.
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
1
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được kết cấu
gồm 3 chương:
Chương 1: Sự nghiệp giáo dục và những vấn đề cơ bản về chi thường
xuyên ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục.
Chương 2: Thực trạng quản lý chi thường xuyên ngân sách Nhà nước
cho sự giáo dục Tiểu học và THCS ở huyện Từ Liêm.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý chi
thường xuyên ngân sách Nhà nước cho giáo dục Tiểu học và THCS ở huyện
Từ Liêm.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, được sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy
Bùi Tiến Hanh cùng với sự giúp đỡ của các cô chú, anh chị trong Phòng Tài
chính – Kế hoạch, Phòng giáo dục huyện Từ Liêm đã tạo điều kiện cho việc
nghiên cứu đề tài.
Do trình độ hiểu biết còn hạn chế, thời gian thực tập chưa dài nên bài luận
văn không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các thầy cô cùng các bạn quan tâm đến đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy Bùi Tiến Hanh, các thầy
cô giáo, các cô chú, anh chị trong Phòng Tài chính - Kế hoạch, Phòng giáo dục
huyện Từ Liêm.
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
2
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
CHƯƠNG 1
SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHI

THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC
1.1 Sự nghiệp giáo dục đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1 Khái niệm và nội dung hoạt động của sự nghiệp giáo dục
Giáo dục là tất cả các dạng học tập của con người và có thể coi là dạng
quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng con người theo nhiều nghĩa khác
nhau. Hay nói cách khác, giáo dục là quá trình bồi dưỡng, nâng đỡ sự trưởng
thành về nhận thức của con người, tạo ra những con người có đầy đủ kiến thức,
năng lực hành vi, có khả năng sang tạo. Ở góc độ hẹp hơn, giáo dục được hiểu
đó là việc trang bị những kiến thức và hình thành nhân cách con người.
Nhận rõ tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục đối với việc phát triển
kinh tế - xã hội, kiến thức là chìa khóa để mở cửa tiến vào tương lai. Hội nghị
lần thứ hai (khoá VIII) của Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
đã đưa ra những định hướng chiến lược của Đảng ta về phát triển giáo dục – đào
tạo trong thời kỳ mới. Giáo dục có vai trò quyết định đối với việc hình thành quy
mô và chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Giáo dục là sự nghiệp chung,
Nhà nước chăm lo xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục và ban hành những
chính sách phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; các
doanh nghiệp, mọi tầng lớp nhân dân có trách nhiệm tích cực góp phần vào sự
nghiệp phát triển giáo dục, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo
dục... và mọi người được tạo cơ hội tiếp cận với học vấn phổ thông và nghề
nghiệp
Lịch sử phát triển của loài người đã chứng minh rằng trải qua quá trình
lao động hàng triệu năm mới trở thành con người ngày nay và trong quá trình đó,
mỗi giai đoạn phát triển của con người lại làm tăng thêm sức mạnh chế ngự tự
nhiên, tăng thêm động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong xã hội cổ xưa,
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
3
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
thì giáo dục chỉ dừng lại ở sự truyền dạy cách sống, kinh nghiệm đấu tranh và

sản xuất ở phạm vi một bộ tộc, một bộ lạc… nhưng trong xã hội ngày nay, giáo
dục được tổ chức thành một hệ thống hoàn chỉnh với những cấp bậc và chương
trình giảng dạy khác nhau.
Theo Luật Giáo dục năm 2005 thì hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
1.Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo;
2. Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông;
3.Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề;
4.Giáo dục đại học và sau đại học (sau đây gọi chung là giáo dục đại học) đào
tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.
Thời gian qua dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo của các cấp ủy
đảng và chính quyền ngành giáo dục Việt Nam đã khắc phục và hoàn thiện rất
nhiều, quy mô giáo dục ngày càng được mở rộng, chất lượng được nâng cao:
Về quy mô giáo dục: Nhìn chung quy mô giáo dục Việt Nam đang trên đà
phát triển. Mạng lưới trường, lớp được duy trì và phát triển với hình thức đa
dạng, rộng khắp. Về cơ bản đã xóa được "xã trắng" về giáo dục mầm non;
trường tiểu học đã có ở tất cả các xã, trường trung học cơ sở có ở xã hoặc cụm
liên xã, trường trung học phổ thông có ở tất cả các huyện. Quy mô giáo dục
không ngừng tăng lên và đang được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực
tế, khắc phục tình trạng mất cân đối về cơ cấu lớp học, bậc học. Đội ngũ giáo
viên tiếp tục được tăng cường theo hướng chuẩn hóa. Cơ sở vật chất kỹ thuật tuy
còn nhiều khó khăn nhưng cũng đã được củng cố và nâng cấp. Hệ thống giáo
dục đang từng bước được xã hội hóa đa dạng về loại hình, phương thức và huy
động nguồn lực cho phát triển giáo dục. Nền giáo dục ở Việt Nam cơ bản đáp
ứng được mục tiêu nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực và đào tạo nhân tài góp
phần đắc lực để phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện sự nghiệp công nghiệp
hóa-hiện đại hoá cho đất nước.
Tuy nhiên để mở rộng qui mô Giáo dục Việt Nam còn phải mở thêm nhiều
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
4
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công

loại hình với nhiều cấp bậc, theo nhiều thể chế và trong mỗi trường hợp phải có
nhiều phương án tương đương. Đặc biệt phải khắc phục tình trạng mất cân đối
trong phân công đội ngũ giáo viên. Việc thiếu giáo viên phổ biến là ở miền núi,
vùng sâu, vùng xa và nhất là với cấp tiểu học.
Về chất lượng giáo dục:
Chất lượng giáo dục đã có những chuyển biến tích cực theo hướng giáo
dục toàn diện. Nội dung dạy học và kiến thức của học sinh phổ thông đã có tiến
bộ, toàn diện hơn. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ
phận học sinh, sinh viên được nâng cao. Hệ thống trường, lớp ngày càng mở
rộng và được bố trí hợp lý nên số học sinh bỏ học giảm rõ rệt thể hiện qua công
tác duy trì sĩ số. Tỷ lệ hoàn thành cấp học qua các năm học có xu hướng tăng
lên. Trong những năm gần đây ngành giáo dục đã củng cố và tăng cường xây
dựng nhiều trường dân tộc nội trú để thu hút các con em dân tộc thiểu số đến
trường.
Đồng thời với sự đổi mới chương trình, sách giáo khoa và tài liệu dạy học
theo Nghị quyết 40/2000/QH của Quốc hội, phương pháp giáo dục ở các nhà
trường đã bước đầu được đổi mới theo tinh thần phát huy tính năng động, chủ
động và tích cực của người học, đồng thời tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin vào quá trình dạy và học. Chuẩn nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên ở
các cấp học và trình độ đào tạo đã và đang được xây dựng làm cơ sở cho việc
đánh giá và bồi dưỡng giáo viên theo chuẩn.
Tuy nhiên, nhìn chung tỷ lệ hoàn thành các cấp học không ổn định qua các
năm học, không đồng đều giữa các cấp học do công tác đổi mới phương pháp
dạy và học đã được triển khai nhưng chưa đồng bộ; cơ sở vật chất, kỹ thuật,
nhất là đồ dùng dạy học, phòng thí nghiệm, thiết bị thực hành còn thiếu thốn;
công tác phụ đạo, kèm cặp học sinh yếu một số trường chưa được quan tâm đúng
mức. Ngoài ra trong những năm qua, các khối tiến hành thay sách giáo khoa theo
quy định của Bộ Giáo dục - Đào tạo nhưng việc tiếp cận và triển khai giảng dạy
theo nội dung sách mới của không ít giáo viên còn lúng túng. Trong giáo dục
chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển số lượng với nâng cao chất

Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
5
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
lượng.
Tóm lại sự phát triển nhanh chóng của hệ thống giáo dục đào tạo đã đáp
ứng được yều cầu to lớn về cán bộ khoa học kỹ thuật cho các ngành kinh tế quốc
dân. Hoạt động trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo hiện nay rất đa dạng và toàn
diện, ở nhiều cấp bậc ngành học với nhiều lĩnh vực khác nhau để nhằm mục đích
đào tạo con người phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ
và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, phần
nào đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2 Vai trò của giáo dục đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Giáo dục là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt, có vai trò rất quan trọng
trong đời sống xã hội, sản phẩm của giáo dục là tạo ra những con người có kiến
thức, năng lực, hành vi phù hợp với yêu cầu xã hội và mục tiêu kinh tế trong
từng giai đoạn cụ thể. Phát triển giáo dục là một trong những nền tảng và động
lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững.
Ngày nay giáo dục đang trở thành một bộ phận đặc biệt của cấu trúc hạ
tầng xã hội, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực xã hội
như chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng và an ninh, bởi lẽ, con người được
giáo dục tốt và biết tự giáo dục thường xuyên mới có khả năng giải quyết một
cách sáng tạo và có hiệu quả những vấn đề do sự phát triển của xã hội đặt ra.
Con người được giáo dục và biết tự giác giáo dục được coi là nhân tố quan trọng
nhất cho sự phát triển bền vững của xã hội. Chính bởi vậy, giáo dục là một bộ
phận hữu cơ quan trọng nhất trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, trong đó mục tiêu giáo dục phải được coi là một trong những
mục tiêu quan trọng nhất của sự phát triển.

Giáo dục đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cùng
với khoa học – công nghệ, vốn đầu tư, nguồn lực con người đóng vai trò quyết
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
6
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế – xã hội. Kinh tế
nước ta có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới, thu hút
được mạnh mẽ các nguồn đầu tư, đều phụ thuộc phần lớn vào nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người và là một trong những nguồn lực rất
quan trọng đối với quá trình CNH – HĐH đất nước. Nói đến phát triển nguồn
nhân lực chính là phát triển nguồn lực con người cả về số lượng và chất lượng để
đảm bảo phát triển bền vững nền kinh tế. Như vậy vấn đề đặt ra là một nhà
trường trong một thời gian, một giai đoạn cụ thể phải đào tạo những ngành nghề
gì? Trình độ nào? Số lượng bao nhiêu là phù hợp? để giảm bớt tình trạng nguồn
nhân lực dồi dào nhưng chất lượng lao động thấp chủ yếu là lao động thô sơ. Vì
vậy, một nền giáo dục phát triển toàn diện sẽ góp tạo ra một đội ngũ lao động có
đủ phẩm chất, trình độ, kỹ thuật nghề nghiệp có khả năng tiếp thu khoa học,
công nghệ của nền sản xuất hiện đại.
Đối với lĩnh vực khoa học công nghệ : Trong xã hội hiện đại ngày nay, khi
khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ thì lực lượng lao động, nhất là lực lượng
lao động kỹ thuật có tay nghề cao càng có ý nghĩa to lớn đối với việc tăng trưởng
kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, với đường lối đa phương hoá, đa
dạng hoá quan hệ quốc tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp thu và áp dụng
phương tiện kỹ thuật hiện đại của các nước trên thế giới để đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội. Tận dụng những thành tựu của cách mạng khoa học – công
nghệ hiện đại, nước ta có thể đi thẳng vào những công nghệ hiện đại để rút ngắn
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và khoảng cách phát triển kinh tế so với
các nước đi trước. Do vậy, giáo dục phát triển tạo ra nguồn nhân lực có trình độ
đáp ứng sự phát triển của khoa học – công nghệ. Đồng thời để thúc đẩy đổi mới

công nghệ trong nền kinh tế, nhất là trước sức ép cạnh tranh trong điều kiện hội
nhập khu vực và quốc tế thì nguồn lực chất lượng cao đóng vai trò rất quan
trọng. Qua đó thấy được vai trò của giáo dục đối với việc phát triển khoa học –
công nghệ. Do đó để tăng cường nguồn tri thức cho khoa học – công nghệ cũng
như việc tăng cường ứng dụng khoa học – công nghệ mới đòi hỏi chúng ta phải
đầu tư phát triển nguồn lực con. Việc đào tạo đội ngũ tri thức có đủ trình độ để
áp dụng những kỹ thuật hiện đai của các nước đồng thời phát triển đội ngũ khoa
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
7
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
học – công nghệ ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết.
Đối với sự nghiệp văn hoá: giáo dục có vai trò cực kì quan trọng, nó giúp
cho con người lưu giữ được các văn hoá kết tinh qua các thời kì từ những gì đã
được rèn luyện ở tiểu học và đó là cơ sở để rèn luyện tốt hơn trong môi trường
giáo dục khác. Những giá trị do con người sáng tạo ra được tập hợp lại, hệ thống
hoá, khái quát hoá (tri thức hoá) trở thành kiến thức trong các giáo trình bài
giảng của nhà trường. Văn hoá mang đến cho giáo dục những nội dung thiết yếu,
những hiểu biết cần truyền đạt và là yếu tố quan trọng để phát triển tri thức con
người một cách toàn diện hơn. Sự sáng tạo trong quá trình giáo dục làm phong
phú thêm những giá trị văn hoá vốn có và làm nảy sinh những giá trị văn hoá
mới. Quan trọng hơn nữa là nó tạo ra được những thế hệ người có khả năng sáng
tạo không chỉ trong lĩnh vực văn hoá.
Như vậy, giáo dục có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã
hội: Như góp phần tạo nguồn lực con người, nguồn lực đó là con người lao động
có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, từ đó tạo nguồn lực
cho đất nước, đội ngũ lao động cho khoa học công nghệ. Bên cạnh đó, giáo dục
còn có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động xã hội và chính trị tạo nên một xã hội
lành mạnh, văn minh và ổn định.
1.2 Các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục và vai trò của chi ngân sách Nhà
nước cho sự nghiệp giáo dục

1.2.1 Các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục
Giáo dục cũng như các ngành khác trong nền kinh tế cần được duy trì, củng
cố và phát triển. Để làm được như vậy thì cần phải có nguồn lực đầu tư cho giáo
dục. Nguồn lực đầu tư cho giáo dục góp phần tăng cường cơ sở vật chất thông
qua việc xây dựng mới và nâng cấp các trường lớp; chi trả các khoản lương cho
cán bộ giáo viên; đồng thời cũng là nguồn lực quan trọng để hỗ trợ các em có
hoàn cảnh khó khăn có thể đi học… Trong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế
đang trên đà phát triển, cần phải đào tạo được một đội ngũ nhân lực có chất
lượng cao để đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển. Do vậy nguồn lực để đầu
tư cho giáo dục ngày càng phải được nâng cao.
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
8
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
Hiện nay, Bộ Giáo dục Đào tạo đang triển khai nhiều đề án nhằm tiếp tục
thực hiện Nghị quyết 14/2005/NĐ-CP của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn
diện giáo dục Việt Nam đến năm 2020. Có nhiều vấn đề đặt ra nhằm mong muốn
tìm ra giải pháp khả thi để nâng cao chất lượng giáo dục trong thời gian sắp tới.
Một trong những vấn đề cơ bản nhất là làm thế nào để tăng cường nguồn lực đầu
tư cho giáo dục trong điều kiện nước ta vẫn là một nước nghèo, ngân sách nhà
nước còn hạn chế. Vấn để tăng nguồn lực tài chính cho giáo dục được coi là một
trong những nhân tố quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, điều đó
có nghĩa là phải tăng cường đầu tư nhiều hơn cho giáo dục. Nhưng hiện nay do
nguồn lực hạn chế nên đòi hỏi phải cân nhắc trong việc đầu tư cho các công trình
xây dựng các trường học mới. Phải ưu tiên cho các địa phương có hoàn cảnh khó
khăn, điều kiện kiện cơ sở vật chất còn thấp.
Một trong những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước để tăng
nguồn lực đầu tư cho giáo dục là XHH giáo dục. Như chúng ta được biết: dưới
thời phong kiến ở nước ta mức độ XHH có thể xem rất cao xét theo khía cạnh
người dân làm giáo dục, trường lớp công không tồn tại, giáo dục được thực hiện
trong các lớp học ở làng do các thày đồ và dân làng tổ chức. Nhưng trong điều

kiện nền kinh tế kế hoạch tập trung, người dân tham gia vào các hoạt động giáo
dục do Nhà nước quản lý rất hạn chế. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng trong
thời gian đó, doanh nghiệp nhà nước giúp được nhiều hơn đối với giáo dục trong
việc tạo cơ sở cho học sinh thực tập mà không phải trả bất cứ khoản chi phí nào.
Đến ngày nay, người dân lại có điều kiện để tham gia vào quá trình giáo dục và
tổ chức giáo dục nhiều hơn. XHH giáo dục không chỉ là những đóng góp vật
chất mà cả những ý kiến góp ý của người dân cho quá trình đổi mới giáo dục.
XHH giáo dục là cách tiếp cận mang tính dân chủ nhiều hơn.
Như vậy, có thể xem XHH giáo dục là sự huy động nguồn lực trong xã hội
để làm giáo dục, để đấu tranh với nghèo nàn và lạc hậu, là tạo điều kiện tốt hơn
cho người dân được hưởng dịch vụ giáo dục có chất lượng và nhiều cơ hội học
tập, đóng góp sáng kiến với giáo dục…
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
9
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
Nguồn vốn đầu tư cho giáo dục hiện nay bao gồm nguồn vốn NSNN và
nguồn vốn ngoài ngân sách.
Nguồn vốn NSNN
Để thực hiện được quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, Nhà
nước phải có trách nhiệm xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển giáo dục ban
hành các chính sách ưu tiên đối với sự nghiệp giáo dục. Đầu tư cho giáo dục
cũng chính là đầu tư cho phát triển. Cần có chính sách phát huy sức mạnh đầu tư
ưu tiên của Nhà nước, huy động sự đóng góp của toàn xã hội và phát huy tiềm
lực sẵn có của ngành giáo dục. Cần kết hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, xã hội và
các cơ sở giáo dục, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo đồng thời tạo ra hành
lang pháp lý để khuyến khích tính năng động sáng tạo của xã hội, của các cơ sở
giáo dục trong sự phát triển giáo dục.
Đầu tư cho giáo dục từ ngân sách Nhà nước bao gồm các khoản chi sau :
- Chi đầu tư phát triển : Đây là những khoản chi mang tính chất không ổn
định từ ngân sách Nhà nước nhằm để xây dựng mới, cải tạo và mở rộng trang

thiết bị kỹ thuật tại các cơ sở thuộc ngành giáo dục.
Chi xây dựng bao gồm các khoản chi để xây dựng mới trường lớp, các cơ
sở giáo dục kết quả làm tăng thêm tài sản cố định năng lực hoạt động cho ngành
giáo dục.
Chi đầu tư cải tạo mở rộng, trang bị lại kỹ thuật bao gồm các khoản chi để
mở rộng cải tạo lại những tài sản hiện có nhằm tăng thêm công suất và hiện đại
hoá tài sản cố định.
- Chi thường xuyên : Đây là khoản chi mang tính chất thường xuyên, ổn
định nhằm mục đích duy trì sự hoạt động bình thường của sự nghiệp giáo dục.
Thuộc khoản chi này bao gồm chi cho con người ; chi nghiệp vụ giảng dạy; chi
mua sắm, sửa chữa và chi khác. Đây là khoản chi mang tính chất tiêu dùng vì nó
không tạo ra cơ sở vật chất mới vâ là khoản chi lớn hàng năm từ ngân sách Nhà
nước cho giáo dục.
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
10
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
- Chi chương trình mục tiêu cho sự nghiệp giáo dục : Nhằm để thực hiện
các chương trình, dự án về phát triển giáo dục của Nhà nước như : Chương trình
xoá mù chữ, chương trình phổ cập giáo dục, chương trình thực hiện kiên cố hoá
trường lớp, chương trình cải tiến sách giáo khoa…
Nguồn vốn ngoài NSNN :
Hiện nay, ngoài nguồn vốn quan trọng từ ngân sách Nhà nước thì nguồn
ngoài ngân sách góp phần không nhỏ cho sự phát triển chung của ngành giáo
dục. Với chủ trương của Nhà nước ta hiện nay là tăng cường XHH giáo dục thì
nguồn vốn này ngày càng tăng lên. Nguồn vốn huy động này bao gồm : Nguồn
thu học phí và một số khoản thu sự nghiệp khác.
- Nguồn thu học phí: Đây là nguồn rất quan trọng đối với sự phát triển của
giáo dục. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng số chi cho sự
nghiệp giáo dục, đây là khoản đóng góp của gia đình người học hoặc người học
để góp phần đảm bảo cho các hoạt động giáo dục. Số tiền thu từ học phí so với

số tiền ngân sách nhà nước cấp là một khoản tiền không nhỏ và được để lại nhà
trường, một phần để tăng thu nhập cho giáo viên, một phần để chi mua sắm thiết
bị giảng dạy.
- Các khoản thu sự nghiệp khác : Nguồn thu này bao gồm thu từ tiền đóng
góp xây dựng trường, thu hỗ trợ Tiểu học, thu học 2 buổi/ ngày, thu từ kinh
doanh dịch vụ của các cơ sở giáo dục, thu từ đóng góp của các tổ chức cá nhân…
So với học phí thì khoản thu này chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng cũng đảm bảo một
phần nhu cầu chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục.
Trong điều kiện nền kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, việc huy động
các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế khác cho sự nghiệp giáo dục còn nhiều
hạn chế thì chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục đóng vai trò quyết
định đến sự phát triển của hệ thống giáo dục, song việc huy động các nguồn vốn
khác cho giáo dục cũng đóng vai trò rất quan trọng góp phần giảm nhẹ gánh
nặng của ngân sách nhà nước trong điều kiện nguồn thu còn hạn chế mà nhu cầu
chi lại rất lớn.
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
11
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
1.2.2 Vai trò của chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục
Để ngành giáo dục tồn tại và phát triển thì cần phải có nguồn lực tài trợ
cho các hoạt động của ngành. Chi ngân sách Nhà nước có vai trò rất quan trong
để đảm bảo kinh phí chủ yếu cho sự nghiệp giáo dục duy trì và phát triển theo
đúng định hướng của Nhà nước. Ngoài ra ở nước ta hệ thống các trường công lập
còn chiếm tỷ lệ lớn, đời sống nhân dân nhiều vùng còn khó khăn, thu nhập bình
quân đầu người còn thấp các hình thức XHH giáo dục thông qua mở rộng các
loại hình đào tạo tuy đạt kết quả bước đầu nhưng còn ở diện hẹp, chưa thu hút
được nhiều nguồn vốn đầu tư cho giáo dục mà phần lớn nguồn đầu tư cho giáo
dục là từ ngân sách Nhà nước. Đây là nguồn tài chính cơ bản, to lớn nhất để duy
trì và phát triển hệ thống giáo dục theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và
Nhà nước.

Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, khi những khoản thu ngoài ngân
sách để đầu tư cho giáo dục còn hạn hẹp thì nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước
vẫn giữ một vai trò quan trọng đối với sự phát triển giáo dục:
Chi ngân sách Nhà nước là một nhân tố quan trọng trong việc đảm bảo duy
trì sự tồn taị và hoạt động của sự nghiệp giáo dục. Để duy trì sự tồn tại và hoạt
động ngành giáo dục cần phải có nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi
tiêu. Phần lớn nhu cầu chi tiêu của ngành giáo dục được đảm bảo bằng nguồn từ
ngân sách Nhà nước. Bằng việc chi ngân sách Nhà nước, Nhà nước thực hiện
việc cung cấp các phương tiện vật chất cần thiết đảm bảo việc trang trải những
chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động và phát triển của sự nghiệp giáo dục.
Một phần chi của ngân sách Nhà nước dùng để đảm bảo đời sống vật chất cho
đội ngũ cán bộ giáo viên và những người làm công tác quản lý trong nghành giáo
dục. Khoản chi này bao gồm các khoản chi lương, phụ cấp lượng, các khoản
phúc lợi tập thể và có chế độ khen thưởng phù hợp với từng đối tượng. Đây là
khoản chi không thể thiếu, để bù đắp và tái sản xuất sức lao động cho đội ngũ
cán bộ trong ngành. Đồng thời nó là khoản chi để nhằm nâng cao được đời sống
vật chất và khuyến khích họ nâng cao tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt huyết với
nghề.
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
12
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
Chi ngân sách Nhà nước là khoản chi lớn trong việc tạo ra cơ sơ vật chất,
mua sắm, sửa chữa trang thiết bị, đồ dùng giảng dạy. Hàng năm do quy mô giáo
dục được mở rộng, do nhu cầu hoạt động và sự xuống cấp tất yếu của các tài sản
cố định nên thường phát sinh nhu cầu xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, hiện đại
hoá các trang thiết bị giảng dạy. Đây là khoản chi hết sức cần thiết nhằm tạo ra
tài sản cố định, nâng cao công suất hoạt động của các tài sản hiện có và có ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục. Một cơ sở vật chất khang trang với
những đồ dùng giảng dạy hiện đại sẽ là cơ sở quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng dạy và học. Chi cho khoản này được lấy một phần từ nguồn thu đóng

góp xây dựng từ học sinh tuy nhiên chiếm tỷ lệ nhỏ và nguồn kinh phí từ ngân
sách Nhà nước, chiếm tỷ trọng rất lớn giữ vai trò quan trọng trong tổng nguồn
vốn đầu tư.
Chi ngân sách Nhà nước có tác dụng điều chỉnh cơ cấu ngành giáo dục
theo cấp học, theo vùng miền khác nhau. Mỗi một cấp học, một vùng đều có
những điều kiện nhất định về chất lượng giảng dạy và điều kiện trang thiết bị cho
học tập. Hàng năm theo định hướng chủ trương của Đảng và Nhà nước trong
từng giai đoạn nhất định nguồn chi cho sự nghiệp giáo dục có sự khác nhau giữa
các vùng và các cấp học. Trong đó luôn luôn dành sự ưu tiên đặc biệt cho vùng
còn khó khăn. Thể hiện tỷ lệ đầu tư của ngân sách Nhà nước vào các vùng có
điều kiện kinh tế còn khó khăn, trình độ dân trí thấp ngày càng tăng. Tăng đầu tư
các vùng này có thêm nguồn lực để xây dựng thêm cơ sở vật chất, thu hút được
đội ngũ giáo viên có trình độ cao về dạy ở các vùng còn khó khăn. Điều đó nhằm
nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục một cách toàn diện. Thông qua chi
ngân sách sẽ điều tiết được cơ cấu chi cho các vùng miền khác nhau từ đó cơ cấu
ngành giáo dục sẽ phát triển theo định hướng của Nhà nước.
Chi ngân sách Nhà nước là điều kiện quan trọng quyết định sự phát triển
của giáo dục. Sự nghiệp giáo dục được coi là yếu tố quan trọng đối với quá trình
phát triển kinh tế, do vậy phát triển sự nghiệp giáo dục được coi là mục tiêu,
động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, đòi hỏi phải có sự nỗ lực,
cố gắng của toàn bộ xã hội. Tuy vậy hiện nay do nguồn thu ngoài ngân sách còn
hạn chế thì kinh phí từ ngân sách Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
13
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
việc hiện đại hoá cơ vật chất, thực hiện tốt các chủ trương chính sách về phát
triển giáo dục của Nhà nước nói cách khác nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà
nước có vai trò chủ yếu nhất trong việc đưa sự nghiệp giáo dục phát triển để đáp
ứng được các nhu cầu phát triển của nền kinh tế hiện nay.
Mặc dù ngân sách Nhà nước hiện nay cũng còn hạn hẹp lại được sử dụng

chi cho nhiều lĩnh vực khác nhau, song với tầm quan trọng của giáo dục hàng
năm Nhà nước giành sự ưu tiên rất lớn đầu tư để phát huy vai trò quyết định của
nó đến sự phát triển kinh tế của đất nước.
1.3 Nội dung chi và quản lý chi thường xuyên ngân sách Nhà nước cho sự
nghiệp giáo dục
1.3.1 Nội dung chi thường xuyên của Ngân sách nhà nước cho giáo dục
Nội dung chi thường xuyên Ngân sách nhà nước cho giáo dục gắn liền
với nhiệm vụ và cơ chế quản lý tài chính của sự nghiệp giáo dục đào tạo trong
từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu cho giáo dục,
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đặt ra cho sự ngiệp giáo dục theo định hướng chung
của Nhà nước “đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố
quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục đào tạo. Do vậy đã hình thành
nên khoản chi thường xuyên ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục. Chi
thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục bao gồm :


Chi thanh toán cho cá nhân
Thuộc nhóm mục chi này bao gồm các khoản chi về lương, phụ cấp lương,
BHXH, BHYT, phúc lợi tập thể cho giáo viên, cán bộ công nhân viên của
trường. Khoản chi này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số chi của NSNN cho
sự nghiệp giáo dục.
Mục đích của khoản chi này nhằm đáp ứng trực tiếp các nhu cầu về đời
sống sinh hoạt cho giáo viên, cán bộ công nhân viên của trường, từ đó nhằm duy
trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy trong lĩnh vực giáo dục. Nhóm chi này có
tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của hệ thống giáo dục trong cả
nước. Mức độ chi cho khoản chi này nhiều hay ít phụ thuộc vào chế độ của Nhà
nước quy định cho từng đối tượng. Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào chất lượng, số
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
14

Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
lượng biên chế và trình độ học vấn của giáo viên cũng như cán bộ quản lý trong
ngành giáo dục.

Chi cho nghiệp vụ chuyên môn
Thuộc nhóm mục chi này gồm các khoản chi về giảng dạy, học tập, chủ
yếu là dùng để mua sắm sách vở, tài liệu tham khảo,… cho giáo viên; đồ dùng
học tập, vật liệu hóa chất thí nghiệm,… cho học sinh.
Nhóm chi này không lớn nhưng có quyết định trực tiếp đến chất lượng
giáo dục. Do vậy khoản chi này cần được đầu tư thích đáng để ngày càng hiện
đại hóa chất lượng giáo dục, phục vụ cho sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.

Chi mua sắm, sửa chữa
Đây là khoản chi dung để mua sắm thêm các tài sản và sửa chữa các tài
sản đang trong quá trình sử dụng, nhằm phục vụ kịp thời cho nhu cầu hoạt động
và nâng cao hiệu suất sử dụng các tài sản đó. Mức chi cho nhóm mục chi này
phụ thuộc vào: tình trạng tài sản của các trường thuộc diện được sử dụng vốn
ngân sách Nhà nước và khả năng nguồn vốn ngân sách Nhà nước có thể đáp ứng
cho nhu cầu này.

Chi khác
Đây là một khoản chi nằm trong cơ cấu chi thường xuyên của NSNN và là
khoản chi có thời hạn tác động ngắn nhưng chưa đề cập đến trong 3 nhóm mục
chi trên. Nó thường bao gồm các mục chi như: Chi kỷ niệm các ngày lế lớn; Chi
các khoản phí và lệ phí của các đơn vị dự toán; Chi tiếp khách;…
1.3.2 Nội dung quản lý chi thường xuyên ngân sách Nhà nước cho sự
nghiệp giáo dục
Quản lý chi thường xuyên ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục là
quá trình phân phối, sử dụng ngân sách nhằm duy trì các hoạt động của sự
nghiệp giáo dục, là công cụ điều chỉnh các hoạt động của sự nghiệp giáo dục sao

cho có hiệu quả nhất.
Nội dung quản lý chi thường xuyên ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp
giáo dục bao gồm 3 khâu: Lập dự toán (kế hoạch) chi thường xuyên, chấp hành
dự toán chi thường xuyên và quyết toán các khoản chi thường xuyên.
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
15
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
1.3.2.1 Lập dự toán chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục
Dự toán chi thường xuyên là một bộ phận rất quan trọng của dự toán chi
ngân sách Nhà nước. Đây là khâu mở đầu của một chu trình ngân sách, nhằm
mục đích để phân tích, đánh giá giữa khả năng và nhu cầu các nguồn tài chính
của Nhà nước nhằm xác lập các chỉ tiêu thu chi ngân sách Nhà nước hàng năm
một cách đúng đắn, có căn cứ khoa học và thực tiễn.
Căn cứ lập dự toán chi ngân sách Nhà nước cho sự giáo dục hàng năm:
+ Chủ trương của Nhà nước về duy trì và phát triển sự nghiệp giáo dục cụ
thể của năm kế hoạch.
+ Dựa vào các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phát triển sự
nghiệp giáo dục.
+ Khả năng nguồn kinh phí có thể đáp ứng cho nhu cầu chi thường xuyên
cho sự nghiệp giáo dục kỳ kế hoạch.
+ Các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo
dục của ngân sách Nhà nước hiện hành và dự đoán những điều chỉnh hoặc thay
đổi có thể xảy ra trong kỳ kế hoạch.
+ Chỉ thị của thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội trong đó có kế hoạch cho phát triển giáo dục và dự toán chi
thường xuyên ngân sách Nhà nước cho giáo dục năm sau.
+ Tình hình thực hiện dự toán các năm trước, đặc biệt là năm báo cáo.
Quy trình lập dự toán ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục
Theo phương pháp lập từ cơ sở lên, các cơ sở của ngành giáo dục là đơn vị
trực tiếp sử dụng ngân sách có trách nhiệm tổng hợp, xác định nhu cầu chi để lập

dự toán chi năm kế hoạch cho đơn vị mình gửi lên cơ quan tài chính cùng cấp
xét duyệt theo những căn cứ đã nêu ở trên. Trong quá trình tổng hợp, lập dự toán
ngân sách, cơ quan tài chính có trách nhiệm làm việc với các cơ sở giáo dục trực
thuộc để điều chỉnh dự toán kinh phí mà các cơ sở giáo dục lập.
Cơ quan tài chính xem xét tính hợp lệ, đúng đắn của dự toán cho các cơ sở
giáo dục trực thuộc và trình Uỷ ban nhân dân đồng cấp phê duyệt, sau đó trình
lên cơ quan tài chính cấp trên. Cơ quan tài chính địa phương có trách nhiệm xem
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
16
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
xét dự toán kinh phí cho các cơ quan cùng cấp, Bộ tài chính có trách nhiệm lập
dự toán ngân sách Trung ương, tổng hợp ngân sách Nhà nước trình Chính phủ
xem xét sau đó chình Quốc hội phê duyệt.
1.3.2.2 Chấp hành dự toán chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục
Chấp hành dự toán chi thường xuyên là một trong những nội dung quan
trọng của chấp hành dự toán chi ngân sách Nhà nước – là khâu thứ hai của chu
trình quản lý ngân sách Nhà nước. Thời gian tổ chức chấp hành ngân sách Nhà
nước ở nước ta được tính từ ngày 01 tháng 1 đến hết ngày 31 tháng 12 năm
dương lịch.
Mục tiêu cơ bản của việc tổ chức chấp hành dự toán chi thường xuyên là
đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguồn kinh phí của ngân sách Nhà nước cho hoạt động
giáo dục một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả. Để đạt được mục tiêu cơ bản đó,
trong việc chấp hành dự toán chi thường xuyên cần phải thực hiện đầy đủ các
yêu cầu sau :
+ Đảm bảo phân phối nguồn vốn một cách hợp lý, tập trung có trọng điểm
trên cơ sở dự toán chi đã được xác định. Do đó cần phải quy định lại chế độ lập
và duyệt kế hoạch cấp phát hàng quí vừa đơn giản vừa khoa học đảm bảo cấp
phát theo kế hoạch với thứ tự ưu tiên đựợc quy định bằng pháp luật. Đồng thời
phải thực hiện nghiêm ngặt khoản dự trữ tài chính để xử lý khi có nhu cầu hoặc
mất cân đối giữa thu và chi trong quá trình chấp hành.

+ Phải đảm bảo việc cấp phát vốn, kinh phí một cách kịp thời, chặt chẽ
tránh mọi sơ hở gây lãng phí, tham ô làm thất thoát nguồn vốn của ngân sách
Nhà nước.
+ Tuân thủ nguyên tắc thanh toán trực tiếp qua kho bạc nhà nước. Mọi
khoản kinh phí chi trả từ ngân sách Nhà nước của các cơ sở giáo dục phải do kho
bạc trực tiếp thanh toán:
Các cơ sở giáo dục căn cứ vào giấy rút dự toán kinh phí đã được duyệt để
đến Kho bạc Nhà nước trực tiếp rút tiền. Kho bạc Nhà nước thực hiện việc thanh
toán chi trả khoản chi ngân sách nhà nước căn cứ vào dự toán được giao và có
quyền từ chối thanh toán các khoản chi không đủ điều kiện. Các điều kiện là:
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
17
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
+ Đã có trong dự toán ngân sách được giao.
+ Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quy định
+ Đã được Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được uỷ
quyền quyết định chi.
Cùng với việc cấp phát các nguồn kinh phí thì cơ quan tài chính phối hợp
với Kho bạc Nhà nước kiểm tra, giám sát việc thực hiện chi tiêu và sử dụng ngân
sách tại các cơ sở giáo dục. Trường hợp phát hiện các khoản chi vượt quá nguồn
cho phép, sai chính sách, chế độ hoặc đơn vị không chấp hành chế độ báo cáo thì
có quyền yêu cầu Kho bạc Nhà nước tạm dừng thanh toán.
Trong quá trình sử dụng các khoản vốn, kinh phí do ngân sách Nhà nước
cấp phải hết sức tiết kiệm nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của mỗi
khoản chi đó. Do nguồn ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp nên để phát triển sự
nghiệp giáo dục một cách toàn diện thì việc đảm bảo yêu cầu này rất quan trọng.
Đó là cơ sờ để tăng nguồn lực đầu tư cho giáo dục, giảm bớt gánh nặng của ngân
sách và nâng cao hiệu quả công tác quản lý chi thường xuyên.
1.3.2.3 Quyết toán chi thường xuyên ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp
giáo dục

Công tác quyết toán các khoản chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước
là công việc cuối cùng trong mỗi chu trình quản lý các khoản chi thường xuyên
nói riêng và chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục nói chung. Nó là
quá trình nhằm kiểm tra, rà soát, chỉnh lý lại các số liệu đã được phản ánh sau
một kỳ chấp hành dự toán để phân tích, đánh giá kết quả chấp hành dự toán rút
ra những kinh nghiệm và bài học cần thiết cho kỳ chấp hành dự toán tiếp theo.
Vì vậy, trong quá trình quyết toán các khoản chi thường xuyên ngân sách Nhà
nước cho giáo dục phải chú ý tới các yêu cầu cơ bản :
- Phải lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và gửi kịp thời các loại báo cáo
đó cho các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt theo đúng chế độ quy định:
Việc xét duyệt quyết toán năm đối với những khoản chi thường xuyên cho
sự nghiệp giáo dục phải được thực hiện theo nguyên tắc sau:
+ Xét duyệt từng khoản phát sinh tại đơn vị
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
18
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
+ Các khoản chi phải đảm bảo đủ các điều kiện chi
+Các khoản chi phải hạch toán theo đúng chế độ kế toán, đúng mục lục
ngân sách Nhà nước và đúng niên độ ngân sách.
+ Các chứng từ chi phải hợp pháp. Sổ sách và báo cáo quyết toán phải
khớp với chứng từ và khớp với số liệu của Kho bạc Nhà nước
- Số liệu trong báo cáo đảm bảo tính chính xác, trung thực. Nội dung các
báo cáo tài chính phải theo đúng các nội dung ghi trong dự toán được duyệt và
theo đúng mục lục ngân sách đã quy định.
- Báo cáo quyết toán năm của các đơn vị dự toán các cấp và của ngân sách
các cấp chính quyền trước khi trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn,
phải có xác nhận của kho bạc đồng cấp và phải được cơ quan nhà nước kiểm
toán.
- Báo cáo quyết toán của các đơn vị dự toán không được để xảy ra tình
trạng quyết toán chi lớn hơn thu.

Chỉ một khi các yêu cầu trên được tôn trọng đầy đủ thì công tác quyết
toán chi thường xuyên ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo mới được tiến
hành thuận lợi. Đồng thời, các yêu cầu này mới tạo cơ sở vững chắc cho việc
phân tích đánh giá quá trình chấp hành dự toán một cách chính xác, trung thực
và khách quan.
Chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục sẽ được thực hiện tại các
đơn vị cụ thể. Do đó việc quyết toán chi thường xuyên ngân sách Nhà nước cho
sự nghiệp giáo dục thuộc về trách nhiệm của các đơn vị dự toán và cơ quan tài
chính.
Sau khi thực hiện xong công tác khoá sổ cuối ngày 31 tháng 12 hàng năm,
số liệu trên sổ sách của mỗi đơn vị phải đảm bảo cân đối và khớp đúng với số
liệu của Kho bạc cả về tổng số và chi tiết. Khi đó đơn vị mới được tiến hành lập
báo cáo quyết toán năm để gửi xét duyệt.
Đơn vị dự toán cấp dưới lập báo cáo quyết toán năm gửi đơn vị dự toán
cấp trên. Trong thời gian tối đa 20 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo quyết
toán của các đơn vị dự toán cấp dưới, đơn vị dự toán cấp trên có trách nhiệm xét
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
19
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
duyệt quyết toán và thông báo kết quả xét duyệt quyết toán cho đơn vị dự toán
cấp dưới. Sau 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo xét duyệt quyết toán của
đơn vị dự toán cấp trên, đơn vị dự toán cấp dưới không có ý kiến gì thì coi như
đã chấp nhận để thi hành.
Trình tự phê chuẩn và gửi báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách Nhà
nước hàng năm của một cấp ngân sách chẳng hạn ngân sách Huyện như sau:
Phòng tài chính huyện có trách nhiệm thẩm định báo cáo quyết toán thu,
chi ngân sách cho toàn ngành giáo dục trên địa bàn Huyện trình UBND huyện
xem xét để gửi Sở Tài chính, đồng thời UBND huyện trình Hội đồng nhân dân
huyện phê duyệt. Sau khi Hội đồng nhân dân phê duyệt, báo cáo quyết toán năm
được lập thành 4 bản gửi đến các cơ quan sau:

- 01 bản gửi Hội đồng nhân dân huyện
- 01 bản gửi Uỷ ban nhân dân huyện
- 01 bản gửi Sở Tài chính Thành phố
- 01 bản lưu lại Phòng tài chính huyện.
Đồng thời gửi Kho bạc Nhà nước huyện nghị quyết phê chuẩn quyết toán
của Hội đồng nhân dân cấp huyện .
Trình tự lập, gửi, xét duyệt các báo cáo tài chính đã được quy định như
trên vừa phản ánh một quy trình bắt buộc phải tuân thủ, vừa phản ánh yêu cầu
cần phải tôn trọng về thời gian tại mỗi cấp, mỗi đơn vị. Chỉ có như vậy thì công
tác quyết toán mới đảm bảo được tính kịp thời, chính xác, trung thực, khách
quan.
CHƯƠNG 2
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
20
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
THỰC TRẠNG CHI VÀ QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC CHO GIÁO DỤC TIỂU HỌC VÀ THCS
Ở HUYỆN TỪ LIÊM
2.1 Khái quát đặc điểm kinh tế - xã hội và tình hình giáo dục ở huyện Từ
Liêm
2.1.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội
Huyện Từ Liêm được thành lập ngày 31/05/1961, là một huyện ven đô,
nằm ở phía Tây Bắc của thủ đô Hà Nội. Trước đây, Từ Liêm là một huyện rất
lớn, do nhu cầu phát triển chung của thành phố Hà Nội, huyện đã tách dần và
đến nay, huyện chỉ còn 15 xã và một thị trấn với diện tích tự nhiên là 75 km
2
, với
24,24 vạn người, chủ yếu sống bằng nghề nông. Với vị trí địa lý thuận lợi, nguồn
lao động dồi dào tạo điều kiện cho phát triển kinh tế nói chung và cho sự nghiệp
giáo dục nói riêng.

Từ xưa ở Từ Liêm đã có đường giao thông thuỷ bộ thuận tiện. Phía bắc có
sông Hồng và hai nhánh là sông Tô Lịch và sông Nhuệ chảy dọc theo chiều dài
của huyện. Đường bộ có quốc lộ 32 chạy ngang giữa huyện, đường 70. Đẩu thế
kỷ XX có thêm các đường hàng tỉnh như đường 23, đường 65, đường 69. Nay có
nhiều tuyến giao thông huyết mạch như: đường Phạm Hùng - Phạm Văn Đồng -
cầu Thăng Long đi sân bay quốc tế Nội Bài; đường Láng – Hoà Lạc. Những năm
qua, hệ thống giao thông ngày càng được nâng cấp, sửa chữa nhằm đạt được các
mục tiêu cho phát triển kinh tế.
Cùng với phát triển chung của Thành Phố Hà Nội, trong những năm gần
đây, kinh tế Từ Liêm có xu hướng phát triển ngày càng đi lên. Những năm gần
đây nền kinh tế của huyện đã có chiều hướng phát triển nhanh. Để giải quyết
việc làm cho người dân, Từ Liêm đang đẩy mạnh đầu tư xây dựng các chợ -
trung tâm thương mại và đang xin làm thêm 2 khu ở xã Phú Diễn (khoảng 5 ha)
với tinh thần ưu tiên xét cho các hộ mất đất có địa điểm kinh doanh. Huyện chỉ
đạo xã Xuân Phương lập dự án xây dựng khu sản xuất, chuyển giao công nghệ
cây ăn quả đặc sản cam Canh, bưởi Diễn và trồng hoa cây cảnh tại 4 ha nằm
trong khu đô thị mới Xuân Phương để cùng với dự án vùng hoa Tây Tựu, đưa Từ
Liêm thành điểm du lịch sinh thái của Thủ đô. Bên cạnh đó thương nghiệp dịch
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
21
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
vụ cũng phát triển mạnh mẽ gắn liền giữa sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, sản
xuất nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới theo hướng đô thị hoá. Kinh tế
phát triển, thu nhập người dân trong Huyện ngày càng cao đã góp phần nâng cao
mức sống của người dân trên địa bàn Huyện, hộ giàu tăng nhanh so với các
huyện khác trong khu vực thành phố Hà Nội.
Đời sống của nhân dân được từng bước cải thiện, lại được sự quan tâm của
Đảng bộ, Uỷ ban nhân dân và các ban ngành, trong những năm gần đây huyện
Từ Liêm đã thúc đẩy các hoạt động Văn hoá- Xã hội phát triển phong phú, đa
dạng, hoạt động văn hoá, thể thao của Huyện thường xuyên giành được nhiều

thành tích nổi trội và tạo được phong trào sôi động. Thực hiện cuộc vận động
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá", hàng năm huyện đã tổ chức tốt
Hội nghị đại biểu nhân dân bàn việc xây dựng đời sống văn hoá với 100% khu
dân cư, thôn làng tham gia. Chỉ đạo điểm xây dựng 3 khu dân cư, thôn làng văn
hoá: tổ dân phố số 9 (thị trấn Cầu Diễn), thôn Ngọc Đại (xã Đại Mỗ), thôn Tân
Nhuệ (xã Thụy Phương). Tổ chức rà soát đăng kí thi đua và vận động nhân dân
đăng kí xây dựng gia đình văn hoá, thôn làng, khu dân cư văn hoá, đã có tới 95%
gia đình tham gia.
Trong tình hình huyện đô thị hoá nhanh, trên địa bàn huyện tập trung
nhiều cơ quan, xí nghiệp và đặc biệt tập trung nhiều trung tâm giáo dục lớn của
thành phố và cả nước như : Học Viện Tài Chính, Đại học Cảnh Sát Nhân Dân,
Đại học Mỏ... Điều này đã có tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế, văn hoá
xã hội của địa phương, nhất là trong việc tạo ra một môi trường nhằm thúc đẩy
sự nghiệp Giáo dục của huyện phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng của ngành Giáo dục trong sự nghiệp đổi
mới đất nước nói chung và của huyện Từ Liêm nói riêng, mặc dù còn nhiều khó
khăn, nhưng ngành Giáo dục trên địa bàn huyện vẫn không ngừng được sự quan
tâm đầu tư, tạo điều kiện phát triển đồng bộ theo định hướng của Đảng - UBND
và các ban ngành.
2.1.2. Tình hình giáo dục ở huyện Từ Liêm
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
22
Luận văn tốt nghiệp Khoa Tài Chính Công
2.1.2.1 Quy mô phát triển
Hoà mình với sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện thì ngành giáo dục
cũng đã có những chuyển biến đáng mừng. Nó thể hiện ở quy mô các cấp học, ở
vùng của huyện đều phát triển vượt bậc, với tốc độ cao. Điều này có thể thấy rõ
hơn trong bảng sau:
Bảng 2.1: Quy mô phát triển giáo dục Tiểu học và THCS
ở huyện Từ Liêm giai đoạn 2006 – 2008

Chỉ tiêu Số trường Số lớp Số học sinh
Năm học
Ngành học
06-07 07-08 06-07 07-08 06-07 07-08
Tiểu học 22 23 511 543 17.890 17.981
THCS 20 20 415 430 15.432 15.718
Nguồn: Phòng giáo dục huyện Từ Liêm
Đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của con em cán bộ công nhân, nhân dân
trên địa bàn huyện, thực hiện quy chế đổi mới quy mô, chất lượng giáo dục của
nhà nước ta, trong những năm gần đây huyện không ngừng đầu tư, tập trung
nhiều nguồn kinh phí để cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới nhiều phòng học,
trường học cao tầng. Mua sắm thêm nhiều trang thiết bị phục vụ tốt cho công
việc dạy và học. Huyện đã đạt được nhiều thành tích trong công tác giáo dục.
Quy mô giáo dục đã phát triển ở tất cả các vùng, các cấp học thể hiện ở báo cáo
tổng kết năm học của các năm như sau:
Đối với cấp Tiểu học đã được đầu tư xây dựng mới trường Tiều học
Mônôxốp nên tổng số trường Tiểu học của huyện tăng lên từ 22 lên 23 trường
(trong đó có 20 trường công lập và 03 trường ngoài công lập) trong năm 2007 –
2008. Cùng với đó số lớp và số học sinh cũng đã tăng lên đáng kể, toàn huyện đã
huy động được hầu hết số trẻ 6 tuổi đi học lớp 1, không có học sinh bỏ học; huy
động được 85% trẻ khuyết tật còn sức khoẻ ra lớp hoà nhập. Số lớp tăng lên sẽ
đảm bảo cho chất lượng dạy và học được nâng cao; đáp ứng 100% học sinh các
trường Tiểu học được học 2 buổi/ngày.
Khối trường THCS số trường vẫn dừng lại ở 20 trường (trong đó có 17
trường công lập và 03 trường ngoài công lập). Nhưng để đáp ứng nhu cầu số học
Sinh viên: Vũ thị Hằng Lớp: K43/01.03
23

×