Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Tình trạng nghèo đói của đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta trong những năm gần đây và một số kiến nghị đối với công tác xóa đói giảm nghèo ở vùng núi của Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.36 KB, 70 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU............................................................................................................................1
CHƯƠNG 1................................................................................................................................3
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO........................................................................3
1.1.Các cách tiếp cận về nghèo đói trên thế giới và Việt Nam................3
1.4. Các phương pháp đánh giá đói nghèo............................................9
2. Nguyên nhân của đói nghèo trên thế giới và ở Việt Nam..................13
2.2.1. Nguyên nhân thuộc về điều kiện tự nhiên: ............................15
2.2.2. Nguyên nhân xuất phát từ điểm yếu của người nghèo:.........16
2.2.3. Nguyên nhân về phía cơ chế chính sách của Việt Nam:...........17
3. Sự cần thiết phải xóa đói giảm nghèo..................................................17
3.1. Những tác hại mà đói nghèo gây ra:................................................17
3.3. Ý nghĩa của XĐGN đối với sự phát triển chung của toàn xã hội:..19
THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO, XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO CHO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
VIỆT NAM...............................................................................................................................21
3.1.Chương trình 135...............................................................................28
4. Đánh giá chung về thực trạng nghèo đói của các DTTS ở Việt Nam
..................................................................................................................36
KẾT LUẬN...............................................................................................................................66
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ LĐTBXH: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
BTB: Bắc Trung Bộ
CĐ: Cao đẳng
DHNTB: Duyên hải Nam Trung Bộ
ĐB: Đông Bắc
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH: Đồng bằng sông Hồng


ĐH: Đại học
ĐNB: Đông Nam Bộ
LTTP: Lương thực thực phẩm
PTTH: Phổ thông trung học
TB: Tây Bắc
TCTK: Tổng cục thống kê
THCS: Trung học cơ sở
TN: Tây Nguyên
XĐGN: Xóa đói giảm nghèo
DTTS: Dân tộc thiểu số
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
LỜI NÓI ĐẦU............................................................................................................................1
CHƯƠNG 1................................................................................................................................3
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO........................................................................3
1.1.Các cách tiếp cận về nghèo đói trên thế giới và Việt Nam................3
1.4. Các phương pháp đánh giá đói nghèo............................................9
2. Nguyên nhân của đói nghèo trên thế giới và ở Việt Nam..................13
2.2.1. Nguyên nhân thuộc về điều kiện tự nhiên: ............................15
2.2.2. Nguyên nhân xuất phát từ điểm yếu của người nghèo:.........16
2.2.3. Nguyên nhân về phía cơ chế chính sách của Việt Nam:...........17
3. Sự cần thiết phải xóa đói giảm nghèo..................................................17
3.1. Những tác hại mà đói nghèo gây ra:................................................17
3.3. Ý nghĩa của XĐGN đối với sự phát triển chung của toàn xã hội:..19
THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO, XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO CHO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở
VIỆT NAM...............................................................................................................................21
3.1.Chương trình 135...............................................................................28
4. Đánh giá chung về thực trạng nghèo đói của các DTTS ở Việt Nam
..................................................................................................................36

KẾT LUẬN...............................................................................................................................66
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Đối với tất cả các nước trên thế giới, đói nghèo luôn là vấn đề được xã
hội quan tâm. Ở các nước phát triển, dù có mức sống cao song vẫn luôn tồn
tại tình trạng phân hóa giàu nghèo. Còn ở những nước đang phát triển với thu
nhập trung bình và thấp, trong đó bao gồm Việt Nam, thì một bộ phận không
nhỏ dân cư vẫn sống ở mức nghèo khổ, đặc biệt còn có những người sống
trong hoàn cảnh rất khó khăn vẫn phải chịu tình trạng thiếu đói, không đủ ăn
trong khi đây là nhu cầu thiết yếu của con người.
Mức độ đói nghèo cũng có sự chênh lệch khác nhau giữa các vùng miền
trong cả nước do những đặc điểm khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội. Trong đó, đói nghèo ở các khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa trầm
trọng hơn các khu vực miền xuôi. Tình trạng đó đã gây ảnh hưởng rất xấu tới
chất lượng cuộc sống nhân dân vùng núi. Trong những năm gần đây, Nhà
nước ta đã dành nhiều sự quan tâm, nhiều chủ trương chính sách tích cực giúp
xóa đói giảm nghèo cho vùng núi và đã đạt những kết quả nhất định. Song
trên thực tế, tình hình đói nghèo nơi đây vẫn còn khá nghiêm trọng bởi những
chính sách này chưa thật sự hoàn thiện và phù hợp với tình hình địa phương,
và do đó sự tác động của chúng tới việc khắc phục đói nghèo miền núi chưa
thật sự hiệu quả. Xuất phát từ thực tế đó, ở đây, bài viết với đề tài: “Tình
trạng nghèo đói của đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta trong những
năm gần đây và một số kiến nghị đối với công tác xóa đói giảm nghèo ở
vùng núi của Nhà nước” đi vào nghiên cứu thực trạng nghèo đói ở miền núi
phía bắc Việt Nam trong những năm gần đây như một ví dụ điển hình cho đói
nghèo ở vùng núi nói chung, từ đó đánh giá những ưu điểm và nhược điểm
của các chính sách xóa đói giảm nghèo cho vùng núi của Nhà nước để đưa
ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả, phát huy tác dụng của các chính

SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
1
Chuyên đề tốt nghiệp
sách có ý nghĩa thiết thực này.
Căn cứ vào yêu cầu của đề tài, nội dung của chuyên đề được kết cấu
thành ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung về đói nghèo
- Chương 2: Thực trạng đói nghèo, xóa đói giảm nghèo cho dân tộc thiểu
số ở Việt Nam
- Chương 3: Giải pháp tăng cường xóa đói giảm nghèo đối với dân tộc
thiểu số ở Việt Nam
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO
1. Những khái niệm cơ bản về đói nghèo
1.1.Các cách tiếp cận về nghèo đói trên thế giới và Việt Nam
Trên thế giới tồn tại nhiều định nghĩa về đói nghèo. Nhìn chung, trên
bình diện quốc tế, hai khái niệm “đói” và “nghèo” thường được gộp chung
thành khái niệm “đói nghèo” và được hiểu như là “nghèo khổ”. Đó là tình
trạng thiếu “một cái gì đó” ở mức tối thiểu cần thiết. Sự cụ thể hóa “cái gì đó”
đã hình thành nên những cách tiếp cận khác nhau về nghèo đói. Có thể tập
hợp các quan niệm về nghèo đói trên thế giới vào bốn cách tiếp cận cơ bản
sau đây:
a. Cách tiếp cận tiền tệ:
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, cách tiếp cận tiền tệ thường được sử dụng kết
hợp với ngưỡng nghèo (sẽ được giải thích trong phần 1.2.a) và dựa trên chỉ
tiêu thu nhập hoặc tiêu dùng để quy cho đói nghèo một giá trị tiền tệ. Những
người có thu nhập nằm dưới ngưỡng nghèo thì được coi là nghèo.

Đại biểu cho cách tiếp cận này là Martin Ravallion, coi tình trạng đói
nghèo của một xã hội là tình trạng một hay nhiều cá nhân trong xã hội đó
không có được một mức phúc lợi kinh tế cần thiết để đảm bảo cuộc sống tối
thiểu hợp lý theo tiêu chuẩn của xã hội đó. “Cái gì đó”, theo ông, chính là
“mức phúc lợi kinh tế”, thường được đo lường bằng mức sống mà chỉ tiêu quan
trọng nhất là thu nhập, đặc biệt là thu nhập từ tiền mặt. Ngoài ra còn có thể đo
lường qua giá trị của lượng hàng hóa và dịch vụ được tiêu dùng bời một hộ gia
đình có xem xét tới quy mô và thành phần nhân khẩu của hộ gia đình đó.
Tổ chức Y tế Thế giới WHO cũng định nghĩa nghèo theo tiêu chí thu
nhập. Theo đó, một người được coi là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
3
Chuyên đề tốt nghiệp
một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm của quốc gia (chỉ
số Per Capita Income, PCI).
Cách tiếp cận này có ưu điểm là dễ đo lường vì số lượng tiền tệ dễ xác
định, vì vậy nó được sử dụng khá phổ biến mặc dù chỉ xem xét đói nghèo
theo nghĩa hẹp. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm ở chỗ nó dựa vào giả thiết
người nghèo sử dụng thu nhập của mình theo cách hiệu quả nhất để mua
những hàng hóa như thực phẩm, nhà ở, quần áo, giáo dục, y tế ở mức cơ bản
chứ không bao gồm những hàng hóa mà không thật sự thiết yếu cho cuộc
sống. Ngoài ra, thu nhập thực tế của người nghèo có thể dao động lên trên
hoặc xuống dưới ngưỡng nghèo ở những thời điểm khác nhau do nhiều yếu tố
tác động nên có khi họ được coi là người nghèo, có lúc không.
Như vậy, với quan niệm của trường phái này thì để loại bỏ đói nghèo,
các biện pháp xóa đói giảm nghèo (XĐGN) cần định hướng vào mục đích
tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người nghèo như tạo công ăn việc làm,
cải tiến nâng cao năng suất lao động.
Sở dĩ cách tiếp cận tiền tệ được cho là chỉ tìm hiểu đói nghèo theo nghĩa
hẹp bởi trên thực tế, những nhu cầu của con người không chỉ bao gồm yếu tố

vật chất, thu nhập mà còn gồm nhiều yếu tố phi tiền tệ khác. Đói nghèo còn
được biểu hiện ở phương diện tinh thần hoặc những hình thái trừu tượng khác
không thể lượng hóa thành tiền - những nhu cầu bậc cao hơn của con người -
không được đáp ứng. Hiểu đói nghèo theo ý nghĩa này được gọi là đói nghèo
theo nghĩa rộng. Với cách hiểu này, chúng ta có ba cách tiếp cận khác về đói
nghèo.
b. Cách tiếp cận về năng lực:
Cách tiếp cận về năng lực chú trọng vào sự tự do của con người và một
cuộc sống có giá trị thì định nghĩa đói nghèo là sự thất bại trong việc đạt tới
những khả năng, năng lực cơ bản và tối thiểu trong cuộc sống.
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
4
Chuyên đề tốt nghiệp
Chỉ số HPI (chỉ số nghèo khổ con người) do Liên Hợp Quốc đưa ra
cũng dựa trên cơ sở cách tiếp cận về năng lực để phản ánh đói nghèo theo ba
yếu tố năng lực điển hình là tuổi thọ, hiểu biết và mức sống. Trên thực tế, rất
nhiều nhà học giả đã cố gắng liệt kê đầy đủ các năng lực mà con người hướng
tới trong cuộc sống song hầu như chưa có nghiên cứu nào bao quát được tất
cả bởi tính đa dạng và phong phú của chúng. Ở đây, tác giả xin dẫn ra danh
sách các đặc trưng cần thiết cho một cuộc sống đầy đủ do Nussbaum đề xuất:
Hình 1.1: Những đặc trưng của một cuộc sống đầy đủ (Nussbaum)
a. Tuổi thọ bình thường
b. Sức khỏe tốt, dinh dưỡng đầy đủ
c. Có nhà ở
d. Sự toàn vẹn về thể chất, hoạt động và quyền lựa chọn sinh sản
e. Trí tưởng tượng, cảm xúc, suy nghĩ được truyền thụ qua giáo dục
f. Lập kế hoạch cho cuộc sống
g. Hòa nhập với xã hội, được bảo vệ khỏi sự kỳ thị và phân biệt
h. Được tôn trọng
i. Quyền lợi về mặt chính trị và mặt vật chất

Như vậy, có thể dễ dàng thấy rằng vấn đề thu nhập được đề cập đến
trong cách tiếp cận tiền tệ chỉ là một phần trong số các yếu tố năng lực, và vì
vậy, cách tiếp cận đói nghèo trên phương diện năng lực của con người có ưu
điểm là phản ánh đầy đủ, sâu sát và chính xác hơn tình trạng nghèo đói của
con người. Bởi thế, đây là cách tiếp cận về đói nghèo được sử dụng rộng rãi
nhất về mặt lý thuyết. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không phải là không có
nhược điểm, mà nhược điểm đó được thể hiện rõ nhất ở mặt áp dụng trong
thực tế để nghiên cứu về đói nghèo. Điểm yếu của cách tiếp cận này là khó
xác định được đầy đủ số lượng cũng như mức độ của các khả năng để đánh
giá tình trạng nghèo khổ trong thực tiễn. Thực tế, việc đo lường đói nghèo
theo cách hiểu này thường chỉ sử dụng một số khả năng cơ bản dễ được định
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
5
Chuyên đề tốt nghiệp
lượng như cách tính chỉ số HPI của Liên Hợp Quốc được đề cập đến ở trên.
Tương tự với quan điểm của Amatya Sen về các khía cạnh của đói
nghèo, Bob Baulch đã đưa ra sơ đồ kim tự tháp các khái niệm về nghèo đói
như sau:
Hình 1.2: Sơ đồ kim tự tháp các khái niệm về đói nghèo của Bob Baulch
1. Tiêu dùng
2. Tiêu dùng + Tài sản
3. Tiêu dùng + Tài sản + Con người
4. Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa XH
5. Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa XH + Chính trị
6. Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa XH + Chính trị + Bảo vệ
(Trong đó:
Tiêu dùng là thu nhập/tiêu dùng
Tài sản là tài sản tự nhiên : đất đai, của cải vật chất, khả năng tài chính
Con người là giáo dục, kỹ năng, sức khỏe ...
Văn hóa xã hội là hệ thống các mối quan hệ xã hội

Chính trị là khả năng tham gia và trao quyền
Bảo vệ là khả năng chống đỡ và giảm thiểu rủi ro)
Tuy chưa có được một định nghĩa về đói nghèo thống nhất theo cách tiếp
cận về năng lực, song từ các quan niệm kể trên, Ngân hàng thế giới đã đưa ra
một cách hiểu về đói nghèo bao gồm tương đối đầy đủ những khía cạnh cơ
bản:
- sự khốn cùng về mặt vật chất, được đo lường qua mức thu nhập bấp
bênh
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
6
Chuyên đề tốt nghiệp
- bị giới hạn về sức khỏe thể chất
- năng lực, hiểu biết bị kìm hãm
- sự phân biệt về giới tính
- dễ gặp nguy cơ bị tổn thương và rủi ro do thiếu sự bảo vệ, bị lạm dụng
bởi các thế lực và gặp phải các vấn đề trong giao tiếp với xã hội
- các tổ chức cộng đồng đại diện yếu
Theo quan điểm này, các chính sách XĐGN cần đi theo hướng tạo ra
những cơ hội cho người nghèo để họ được tự do phát huy năng lực của mình
để hướng tới một cuộc sống sung túc theo mong muốn của riêng họ.
1.2. Cách tiếp cận về sự loại trừ mang tính xã hội:
Một cách tiếp cận khác về đói nghèo theo nghĩa rộng là cách tiếp cận về
sự loại trừ mang tính xã hội. Sự loại trừ mang tính xã hội là việc các cá nhân
hay nhóm người, một phần hoặc hoàn toàn, bị ngăn chặn khỏi sự tham gia vào
xã hội mà họ sinh sống. Townsend định nghĩa sự tước đoạt theo ý nghĩa đói
nghèo là tình trạng con người bị loại ra khỏi lối sống, tục lệ và hoạt động của
xã hội. Nguyên nhân của việc này thường xuất phát từ những đặc điểm riêng
của nhóm người trong xã hội đó như người già, người tàn tật, người thuộc dân
tộc, chủng tộc khác… Atkinson xác định một ảnh hưởng quan trọng của sự
loại trừ xã hội là tính động lực: do một số bất lợi từ đói nghèo mà người

nghèo bị cô lập khỏi xã hội, tình trạng đó càng làm cho họ mất đi những cơ
hội để thỏa mãn tình trạng thiếu thốn của mình và để thoát nghèo, do đó càng
trở nên bất lợi, càng bị loại trừ, và bởi thế càng trở nên nghèo đói hơn nữa.
Nói chung, cách tiếp cận này tuy mở rộng một cách xem xét mới về đói nghèo
song được sử dụng ít phổ biến do tính tương đối (chỉ xảy ra ở một số cộng
đồng xã hội nhất định) và rất khó đo lường.
1.3. Cách tiếp cận mang tính tham gia:
Trong khi cách tiếp cận tiền tệ và cách tiếp cận theo năng lực - khả năng
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
7
Chuyên đề tốt nghiệp
bị chỉ trích là chỉ mang ý kiến của người “ngoài cuộc”, không chứa đựng cách
nhìn nhận về đói nghèo của chính những người nghèo thì cách tiếp cận mang
tính tham gia do Chambers khởi xướng
1
đã khắc phục được những hạn chế
này. Cách tiếp cận này khuyến khích người nghèo tham gia vào việc ra quyết
định và đánh giá thế nào là đói nghèo, mức độ ảnh hưởng quan trọng đến
cuộc sống của chính họ và họ cần phản ứng lại như thế nào đối với đói nghèo.
Mục đích của nó là giúp cho người nghèo có thể chia sẻ, phân tích và tăng
thêm hiểu biết về cuộc sống và điều kiện sống để họ lập được kế hoạch hành
động cho mình. Cách tiếp cận này nhìn vào đói nghèo từ nhiều phương diện:
xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị và phòng vệ, và do đó, nó cung cấp một cái
nhìn đa dạng, nhiều mặt về đói nghèo. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế, nó
thường chỉ được sử dụng bổ trợ cho những nghiên cứu sâu hơn về đói nghèo
như các “Báo cáo về Đói nghèo” và ấn phẩm “Tiếng nói của người nghèo”
của Ngân hàng Thế giới. Hạn chế đầu tiên là do tính chất tham gia của người
nghèo vào việc đánh giá đói nghèo, cách tiếp cận này không chỉ ra được cách
giải quyết khi có sự khác nhau trong cách nhìn nhận của những đối tượng
khác nhau: phụ nữ và nam giới, những người theo trường phái truyền thống

và trường phái hiện đại, những cộng đồng nghèo khác nhau… Lí do thứ hai,
do sự yếu thế của người nghèo trong xã hội, chưa chắc đã có thể khẳng định
họ dám nói lên những suy nghĩ của mình một cách trung thực và đầy đủ. Thứ
ba, đánh giá của một người nghèo, chỉ giới hạn trong tình cảnh nghèo của
chính họ, chưa phản ánh được bức tranh toàn cảnh về đói nghèo.
Ở Việt Nam, chúng ta thừa nhận định nghĩa về nghèo theo cách tiếp cận
về năng lực do Hội nghị Chống đói nghèo khu vực châu Á – Thái Bình
Dương do ESCAP tổ chức ở Bangkok, Thái Lan đưa ra vào tháng 9/1993:
“Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các
1
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
8
Chuyên đề tốt nghiệp
nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa
nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế, xã hội và phong tục tập quán của địa
phương”. Do đặc thù của một nước đang phát triển, đã từng tồn tại tình trạng
thiếu lương thực trong một thời gian dài nên chúng ta còn phân tách hộ đói
với hộ nghèo. Những hộ đói được hiểu là một bộ phận trong những hộ gia
đình nghèo mà không có được đủ lương thực để ăn hai bữa cơm hàng ngày,
chỉ đủ khả năng đảm bảo mức lương thực ít ỏi cần thiết để tồn tại, do đó tiêu
chuẩn thu nhập bình quân đầu người quy gạo của Bộ LĐTBXH đối với hộ đói
thấp hơn so với mức quy gạo của hộ nghèo.
1.4. Các phương pháp đánh giá đói nghèo
1.4.1. Ngưỡng nghèo (hay chuẩn nghèo):
Đây là một trong những thước đo quan trọng được sử dụng chủ yếu
trong việc xác định tình trạng đói nghèo. Ngưỡng nghèo là một mức độ phân
chia ranh giới giữa “nghèo” và “không nghèo”. Gồm có 2 loại: ngưỡng nghèo
tuyệt đối và ngưỡng nghèo tương đối.
Ngưỡng nghèo tuyệt đối là chuẩn tuyệt đối về mức sống tối thiểu cần
thiết để con người có thể tồn tại khỏe mạnh. Ngưỡng nghèo tuyệt đối cũng

gồm 2 loại : ngưỡng nghèo LTTP (được xác định bằng số tiền cần có để mua
được một rổ LTTP thiết yếu hàng ngày) và ngưỡng nghèo chung (có tính đến
số tiền chi tiêu cho cả các sản phẩm phi lương thực khác). Ngưỡng nghèo
LTTP thường chỉ được dùng phổ biến ở các nước đang phát triển và nhìn
chung là thường thấp hơn ngưỡng nghèo chung.
Ngân hàng thế giới World Bank (WB) đã đưa ra ngưỡng nghèo tuyệt đối
(được hiểu như là ngưỡng nghèo chung) quốc tế là 1$/ ngày cho các nước có
thu nhập thấp (GNP/người từ 755$/năm trở xuống, theo giá gốc năm 1999) và
cho các nước có thu nhập trung bình thấp (GNP/người từ 756 đến 2.995$/
năm, giá gốc năm 1999) là 2$/ngày. Tính theo ngang giá sức mua, ở Việt
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
9
Chuyên đề tốt nghiệp
Nam, hai ngưỡng này tương đương 20 và 40 cent/ ngày.
Ở Việt Nam, Tổng cục thống kê (TCTK) đưa ra hai ngưỡng. Ngưỡng thứ
nhất, nghèo đói LTTP là tình trạng mức thu nhập không bảo đảm được nhu cầu
dinh dưỡng tối thiểu 2100 Kcal/người/ngày đêm. Ngưỡng thứ hai là nghèo đói
chung, coi LTTP ứng với 70% nhu cầu cơ bản tối thiểu, 30% là các nhu cầu khác.
Bảng 1.1: Ngưỡng nghèo của TCTK qua các năm
(đơn vị : VNĐ/người/năm)
Năm 1998 2002 2004
Nghèo đói LTTP 1.286.808 1.381.000 1.488.000
Nghèo đói chung 1.789.872 1.915.000 2.076.000
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bên cạnh đó, ở Việt Nam còn có ngưỡng nghèo do Bộ LĐTBXH quy
định theo từng giai đoạn căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và mức giá cả ở từng khu
vực. Cụ thể:
- Giai đoạn 1996 – 2000:
+ Nông thôn miền núi, hải đảo: 55.000 đồng/người/tháng
+ Nông thôn đồng bằng: 70.000 đồng/ người/tháng

+ Thành thị: 90.000 đồng/người/tháng
- Giai đoạn 2000 – 2005:
+ Nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng
+ Nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng
+ Thành thị: 150.000 đồng/người/tháng
- Giai đoạn 2006 – 2010: quy định sẽ chỉ còn 2 ngưỡng nghèo là:
+ Nông thôn: 200.000 đồng/người/tháng
+ Thành thị: 260.000 đồng/người/tháng
Ngoài ra chúng ta cũng sử dụng thước đo về thu nhập bình quân đầu
người trong hộ một tháng quy gạo để làm chuẩn đói như sau:
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
10
Chuyên đề tốt nghiệp
- Giai đoạn 1993 – 1995:
+ Thành thị: dưới 13kg
+ Nông thôn: dưới 8kg
- Giai đoạn 1995 – 2000: dưới 13kg cho tất cả các vùng
- Giai đoạn 2000 đến nay: Bộ LĐTBXH không tiếp tục đưa ra mức
chuẩn đói do cơ bản đã giải quyết được tình trạng hộ đói kinh niên.
Ngưỡng nghèo tương đối là một mức phần trăm so với thu nhập trung
bình chung của toàn xã hội mà những người dân trong xã hội đó nếu có mức
thu nhập ròng thấp hơn mức này thì được coi người nghèo. Tỷ lệ phần trăm
này thường được xác định ở mức 50% hoặc 60% của thu nhập trung bình.
1.4.2. Tỷ lệ đói nghèo:
Tỷ lệ đói nghèo được xác định bằng số lượng người nghèo trên tổng dân
số, thể hiện quy mô số người nằm dưới ngưỡng nghèo, và thường được biển
hiện dưới dạng phần trăm.
Tỷ lệ nghèo chung (%) = (Số người nghèo chung) : Tổng dân số x 100
Tỷ lệ nghèo LTTP (%) = (Số hộ nghèo LTTP) : Tổng số hộ x 100
Đây cũng là một thước đo đói nghèo thông dụng, tuy nhiên nó có hạn

chế là không quan tâm đến mức độ đói nghèo (mức độ nằm dưới, cách xa
ngưỡng nghèo) do đó không biểu hiện được kết cấu đầy đủ của sự đói nghèo.
Bởi vậy, nếu chỉ căn cứ vào tỷ lệ đói nghèo thì sẽ khó có thể đưa ra được một
chính sách XĐGN sâu sát tới từng loại đối tượng thuộc diện này.
1.4.3. Khoảng nghèo:
Khoảng nghèo được tính bằng tổng mức thiếu hụt của tất cả những người
nghèo so với ngưỡng nghèo, hay được hiểu là chi phí để đưa tất cả những người
nằm dưới ngưỡng nghèo lên mức sống ngang bằng với ngưỡng nghèo. Nói
chung, thước đo này được sử dụng ít phổ biến hơn so với hai thước đo kể trên.
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
11
Chuyên đề tốt nghiệp
1.4.4. Chỉ số nghèo khổ con người:
Chỉ số nghèo khổ con người Human Poverty Index (HPI) là chỉ số đo
lường mức độ nghèo khổ của con người trên ba phương diện cơ bản: tuổi thọ,
hiểu biết và mức sống. Chỉ số này ở một quốc gia càng cao thì chứng tỏ tình
trạng đói nghèo của quốc gia đó càng nghiêm trọng. Liên Hợp Quốc sử dụng
HPI-1 cho các nước đang phát triển, HPI-2 cho các nước OECD.
Ở các nước đang phát triển, UNDP đưa ra công thức đo lường chỉ số này
như sau:
HPI
1
= [1/3(P
1
3
+ P
2
3
+ P
3

3
)]
1/3
P
1
: tỷ lệ người không sống đến 40 tuổi
P
2
: tỷ lệ người lớn không biết chữ
P
3
: tỷ lệ phần trăm dân số không được tiếp cận với nguồn nước sạch và
tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
Bảng 1.2: Xếp hạng một số nước theo chỉ số nghèo khổ con người
HPI-1 năm 2007
Xếp hạng HPI(%) Quốc gia Xếp hạng HPI(%) Quốc gia
1 3 Barbados 47 18.2 Indonesia
2 3.5 Uruguay 50 21.2 Fiji
3 3.7 Chile 52 21.5 Myanma
4 4.1 Argentina 55 23.5 South Africa
6 4.7 Cuba 60 30.8 Kenya
7 5.2 Singapore 62 31.3 India
10 6.8 Mexico 65 32.3 Ghana
13 7.8 Quata 70 34.5 Laos
16 8.3 Malaysia 80 37.3 Nigeria
20 8.8 Paraguay 85 38.6 Cambodia
24 10.0 Thailand 88 39.3 Congo
27 11.7 China 93 40.5 Bangladesh
34 14.3 Jamaica 97 42.9 Senegal
36 15.2 Vietnam 101 50.6 Mozambique

37 15.3 Philippines 105 54.9 Ethiopia
44 17.8 Sri Lanka 107 56.4 Mali
Nguồn:Tổng cục thống kê
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
12
Chuyên đề tốt nghiệp
2. Nguyên nhân của đói nghèo trên thế giới và ở Việt Nam
2.1. Giới thiệu một số nghiên cứu về nguyên nhân của đói nghèo trên
thế giới:
Một nhà nghiên cứu có tên là Phil Bartle cho rằng những nguyên nhân
lịch sử sâu xa của đói nghèo là chiến tranh, chủ nghĩa thực dân, chế độ nô lệ
và sự xâm lược. Còn ngày nay, có những yếu tố khác tạo ra sự tiếp tục tiếp
diễn của đói nghèo. Ông đã đưa ra mô hình “Năm yếu tố lớn” (The Big Five)
xác định năm nguyên nhân tạo nên đói nghèo như một vấn đề xã hội là: sự
thiếu hiểu biết, bệnh tật, sự lãnh đạm, tính không trung thực và tính lệ thuộc.
Hình 1.3: Mô hình “Năm yếu tố lớn” của Phil Bartle
Nguồn: WorldBank
Theo ông, sự thiếu hiểu biết ở đây không giống với sự ngu dốt mà bản
chất là vấn đề thiếu những thông tin cần thiết hữu ích cho người nghèo. Giáo
dục có thể là một giải pháp tốt nhưng cần chọn lọc kiến thức phù hợp để
giảng dạy, ví dụ như người nông dân cần biết loại cây trồng nào thích nghi
được với chất đất của địa phương. Bệnh tật làm giảm năng suất lao động và
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
Bệnh tật Sự lãnh đạm
Sự không trung thực Sự phụ thuộc
Đói nghèo
Sự thiếu hiểu biết
13
Chuyên đề tốt nghiệp
tổng sản lượng, và tạo ra ít sự thịnh vượng của quốc gia hơn. Ông cho rằng

“phòng bệnh hơn chữa bệnh” và đề cao vai trò của y tế cơ sở. Sự lãnh đạm là
khi con người cảm thấy bất lực, không muốn và không còn ý chí cải thiện tình
trạng tồi tệ của mình, cảm thấy ghen tị với những người có quyết tâm vươn
lên và tìm cách ghìm kéo họ xuống tình cảnh của mình. Sự thiếu trung thực
mà Phil Bartle đề cập đến chủ yếu là tệ nạn tham nhũng: một số tiền mà quan
chức chính phủ bỏ vào túi riêng có thể làm giảm giá trị đáng lẽ mà cả xã hội
có thể nhận được đi một khoản lớn hơn số tiền hối lộ đó nhiều lần. Cuối cùng
là sự phụ thuộc hay là tính ỷ lại của người nghèo, của quốc gia nghèo vào các
nguồn viện trợ làm cho họ mất đi động lực tự phấn đấu và cuối cùng, nghèo
vẫn hoàn nghèo.
Năm yếu tố lớn này dẫn đến những yếu tố cấp hai tạo nên đói nghèo là
thiếu thốn cơ sở vật chất hạ tầng cho người nghèo, thiếu thị trường, sự quản lý
của chính phủ yếu kém, thiếu công ăn việc làm, thiếu kĩ năng tay nghề, thiếu
vốn và các yếu tố khác.
Theo một nghiên cứu khác của Maxwell School, Syracuse University thì
có thể chia ra hai cách tiếp cận về đói nghèo là thuyết “Hoàn cảnh” (Case
theory) và lý thuyết “Chung” (Generic theory). Theo “Case theory” thì đói
nghèo xuất phát từ nguyên nhân tổng hợp của các đặc điểm riêng của người
nghèo như là:
- Giáo dục, kĩ năng, kinh nghiệm, trí thông minh
- Sức khỏe, tuổi tác
- Định hướng công việc, tầm nhận thức, văn hóa
- Sự phân biệt về tầng lớp, giai cấp, chủng tộc, giới tính…
Còn theo “Generic theory” thì đói nghèo lại được hiểu là tình trạng xuất
phát từ những vấn đề chung mang tính vĩ mô của nền kinh tế: thiếu những cơ
hội nghề nghiệp, tổng cầu thấp, thu nhập quốc gia thấp.
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
14
Chuyên đề tốt nghiệp
Trong khi đó, tổ chức MSU Women and International Development chỉ

đưa ra những nguyên nhân gây nên đói nghèo theo hướng liệt kê mà không
phân nhóm:
- Lịch sử bị cai trị và xâm lược
- Chiến tranh và xung đột vũ trang
- Chu trình sản xuất nông nghiệp
- Thảm họa tự nhiên và thiên tai
- Sự tập quyền
- Nạn tham nhũng
- Suy thoái môi trường
- Bất bình đẳng xã hội
Như vậy, có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới đói nghèo. Thực tế, những
nguyên nhân được nhắc tới trong các nghiên cứu nói trên còn có thể tiếp tục
được chia nhỏ chi tiết hơn nữa. Đối với đói nghèo ở Việt Nam có thể hợp
nhóm các nguyên nhân này vào ba nhóm nguyên nhân lớn. Ở đây, ta không
quan tâm tới những nguyên nhân mang tính lịch sử như chiến tranh, sự xâm
lược của nước ngoài mà chỉ quan tâm tới những gì có tác động đến đói nghèo
như một vấn đề xã hội hiện đại ngày nay.
2.2. Nguyên nhân đói nghèo ở Việt Nam
2.2.1. Nguyên nhân thuộc về điều kiện tự nhiên:
Đất nước ta được chia làm nhiều vùng miền có vị trí địa lý và địa hình
rất khác nhau. Ở những vùng có tính đặc thù như miền núi, vùng sâu vùng xa,
hải đảo, vị trí địa lý khá cách biệt các vùng khác, cộng thêm địa hình gập
ghềnh hiểm trở đã tạo khó khăn trong việc giao thông liên lạc với các khu vực
khác, tạo ra sự cô lập tương đối về mọi mặt đời sống. Nhiều nơi ở nước ta như
vùng núi phía bắc, các tỉnh miền trung: Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa…
thường xuyên phải gánh chịu hậu quả to lớn của các trận lũ lụt gây ra thiệt hại
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
15
Chuyên đề tốt nghiệp
to lớn về người và của, rơi vào tình trạng đói nghèo triền miên. Những vùng

canh tác nông nghiệp lại gặp phải vấn nạn về sâu bệnh, mưa đá, sương muối,
rét đậm rét hại… dẫn đến mất mùa, thất bát, mất đi các nguồn lực sản xuất.
Việt Nam từ lâu đã được coi là rừng vàng biển bạc, có nhiều tài nguyên.
Tài nguyên rừng, biển, đất đai, sinh vật, khoáng sản ... đều rất phong phú, đa
dạng. Tuy nhiên, theo thời gian, chúng đã bị khai thác gần như cạn kiệt.
Những tài nguyên đó khi còn dồi dào đã giúp nhiều người Việt Nam có thu
nhập tương đối, song hành động quá khứ đã để lại hậu quả cho thế hệ ngày
nay. Giờ đây, một bộ phận dân cư sống dựa vào tự nhiên đã mất đi nguồn thu
nhập đáng kể. Những tài nguyên còn lại đều ở tình trạng gặp khó khăn trong
việc khai thác.
2.2.2. Nguyên nhân xuất phát từ điểm yếu của người nghèo:
Những yếu tố như sự thiếu hiểu biết, sự lãnh đạm, bệnh tật và tính phụ
thuộc mà Phil Bartle nhắc tới trong lý thuyết “Năm yếu tố lớn” và các nguyên
nhân theo “Case theory” của Maxwell School, Syracuse University có thể xếp
vào nhóm nguyên nhân lớn này. Phần lớn người nghèo ở Việt Nam sinh sống
tập trung ở vùng nông thôn và vùng sâu, vùng xa, chỉ một phần nhỏ rải rác ở các
vùng thành thị đồng bằng. Đa số hoạt động nông nghiệp với lối canh tác truyền
thống lạc hậu, cho năng suất thấp. Những người làm việc trong các lĩnh vực phi
nông nghiệp thì có tay nghề kỹ thuật yếu. Bản thân họ có trình độ học vấn không
cao, nhiều người thất học. Cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo cũng được thể hiện
rất rõ. Một là, các hộ thuộc diện đói nghèo thì thường đông con (xuất phát từ nhu
cầu về lao động kiếm sống) song cũng chính vì thế lại tạo thêm gánh nặng về các
khoản chi tiêu cho gia đình. Thứ hai, thu nhập thấp, điều kiện ăn ở thiếu thốn
không đảm bảo được sức khỏe, dẫn đến tình trạng ốm yếu, bệnh tật của người
nghèo, mà đến lượt nó thì chính bệnh tật lại là nguồn gốc làm cho đói nghèo
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
16
Chuyên đề tốt nghiệp
thêm trầm trọng vì người nghèo không đủ sức lực để làm việc.
Một vấn đề khác cũng nổi cộm lên trong đó là tình trạng bất bình đẳng

giới. Trọng nam khinh nữ là quan niệm còn ăn sâu trong tiềm thức nhiều
người dân Việt Nam. Sinh nhiều con cũng do mong có được đứa con trai. Con
gái thường bị bắt nghỉ học sớm ở nhà giúp đỡ cha mẹ, vô hình trung gây lãng
phí nguồn chất xám lớn do cách nhìn thiển cận. Ở nhiều vùng núi có tục “thờ
chồng”, phụ nữ dù sức yếu vẫn phải làm lụng vất vả nuôi cả gia đình.
Cuối cùng, mặc dù thời gian gần đây Nhà nước đã có nhiều chính sách
XĐGN song ở nhiều nơi, nghèo vẫn hoàn nghèo. Đó là do tâm lý trì trệ,
trông chờ vào trợ cấp Nhà nước của bà con. Trong khi đó, trợ cấp thì có hạn.
Chừng nào chưa xóa bỏ được tâm lý ỷ lại này để tự lực vươn lên XĐGN thì
người nghèo chưa thể có được mức sống khá hơn một cách bền vững.
2.2.3. Nguyên nhân về phía cơ chế chính sách của Việt Nam:
Đây là những nguyên nhân ở tầm vĩ mô gây tác hại duy trì tình trạng đói
nghèo, có sự tương đồng với “Generic theory” của Maxwell School, Syracuse
University. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã tích cực thực hiện nhiều
chương trình dự án nhằm XĐGN, song hiệu quả đạt được chưa như mong
muốn và số hộ nghèo vẫn không giảm, vẫn còn tình trạng tái nghèo. Nguyên
nhân là do các biện pháp chính sách XĐGN được thực hiện còn thiếu tính đồng
bộ, nội dung chưa sát với thực tiễn địa phương, vì vậy khiến cho việc thực hiện
còn nặng về hình thức, chỉ giải quyết phần “ngọn” của vấn đề gây lãng phí
nguồn lực đầu tư vô ích. Tình trạng này sẽ được xem xét kỹ hơn ở mục II.3.2.
3. Sự cần thiết phải xóa đói giảm nghèo
3.1. Những tác hại mà đói nghèo gây ra:
Đối với bản thân người nghèo, hậu quả của đói nghèo có thể được nhìn
thấy hết sức rõ ràng. Vì “đói” mà thiếu ăn thường xuyên, vì “nghèo” mà các
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
17
Chuyên đề tốt nghiệp
nhu cầu sống bị hạn chế ở mức thấp. Cuộc sống thiếu thốn, nhà cửa tạm bợ,
đồ dùng chỉ đủ ở mức thiết yếu nhất. Tình trạng ốm đau bệnh tật, trẻ em suy
dinh dưỡng xảy ra ở nhiều nơi. Không đủ ăn, mặc, ở, việc học hành bị coi nhẹ

dẫn đến sự thất học, thiếu hiểu biết, tư duy con người trở nên lạc hậu. Các tệ
nạn xã hội như trộm cắp, nghiện hút, mại dâm… có cơ hội phát sinh. Người
nghèo, vì thế, hầu như không có tiếng nói và vị thế ngoài xã hội và dễ trở
thành nạn nhân của sự đối xử bất công như bị trả lương thấp, bị coi thường.
Đói nghèo gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường theo cơ chế về
“cầu”, người nghèo triệt để khai thác tài nguyên tự nhiên để phục vụ cuộc
sống. Để đánh bắt cá với số lượng lớn, ngư dân sẵn sàng cho nổ mìn. Vì mục
tiêu sinh lợi, phong trào nuôi ốc bươu vàng rầm rộ một thời gian đã gây nên
những mối nguy về mất cân bằng sinh thái. Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật quá liều lượng, những làng tái chế phế thải nhựa thành túi nilon… làm ô
nhiễm môi trường trầm trọng. Ở vùng cao, rừng bị đốt làm rẫy, bị “xẻ thịt”
đem bán, khoáng sản bị khai thác bừa bãi, động vật rừng bị săn bắn ồ ạt, đất
đai bạc màu theo nạn du canh du cư… khiến cho tài nguyên thiên nhiên ngày
một cạn kiệt.
Không những vậy, đói nghèo còn gây ra ảnh hưởng đến vấn đề ổn định
chính trị quốc gia. Những năm qua, việc đồng bào dân tộc bị các thế lực phản
động nước ngoài mua chuộc, xúi giục gây mất an ninh, trật tự xã hội đã trở
thành điểm nóng khiến cả xã hội phải quan tâm. Tất cả cũng do cuộc sống còn
khó khăn đã khiến người nghèo dễ bị lay động bởi những mối lợi trước mắt.
Nếu không giải quyết được dứt điểm nạn đói nghèo thì lòng tin của nhân dân
vào Đảng, vào Nhà nước còn có thể bị kẻ thù lợi dụng vào âm mưu phá hoại
của chúng.
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
18
Chuyên đề tốt nghiệp
3.2. Phân cách giàu nghèo là biểu hiện của bất bình đẳng:
Phân hóa giàu nghèo chính là bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
bởi vì: Con người sinh ra đều có những yếu tố tự nhiên như nhau cho phép họ
hưởng thụ cuộc sống như nhau trong tương lai, nhưng trên thực tế thì thu
nhập mà họ nhận được khi trưởng thành, làm việc lại là khác nhau. Chủ tịch

Hồ Chí Minh từng nói: “Mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng”, nhưng
sự khác nhau về điều kiện kinh tế, xã hội, môi trường bên ngoài ảnh hưởng
đến cuộc sống đã không cho con người có sự bình đẳng về mức sống. Trên
thực tế, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập bắt nguồn từ hai nhóm
nguyên nhân chính là từ việc sở hữu các nguồn lực (các nguồn lực này có
được là do được thừa kế tài sản, do hành vi tiêu dùng và tiết kiệm hoặc do sản
xuất kinh doanh) và từ lao động (do khác nhau về khả năng và kĩ năng lao
động, do khác nhau về cường độ làm việc, về nghề nghiệp và tính chất công
việc, do bị phân biệt đối xử…). Người nghèo không có điều kiện, và nhiều
khi không thể tự tác động lên các nguyên nhân đó để tự thay đổi cuộc sống
cho mình. Mức sống thấp lại mang đến các hệ quả cho người nghèo là thiếu
thốn về hưởng thụ các dịch vụ xã hội, dễ bị tổn thương và yếu thế (như định
nghĩa về đói nghèo của Ngân hàng Thế giới đã đề cập) làm cho sự chênh lệch
về chất lượng cuộc sống của người giàu và người nghèo càng thêm đậm nét.
Nhà nước ta là Nhà nước do dân, của dân và vì dân có chức năng quan
trọng là phân phối lại thu nhập để khắc phục tình trạng bất bình đẳng này, thu
hẹp khoảng cách giàu nghèo, đảm bảo công bằng xã hội.
3.3. Ý nghĩa của XĐGN đối với sự phát triển chung của toàn xã hội:
Các Mác đã nói: “ Gia đình là tế bào của xã hội”, mỗi con người lại là
một tế bào của gia đình. Một nền kinh tế dù phát triển đến mấy song vẫn để
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
19
Chuyên đề tốt nghiệp
cho một bộ phận dân cư phải chịu cảnh sống thiếu thốn thì không thể là một
sự tăng trưởng bền vững. Những khu vực nghèo đói ít nhiều kìm hãm sự phát
triển chung vì nó gây ra lãng phí nguồn lực cho phát triển kinh tế như nguồn
nhân lực, đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác. Vì vậy, thực hiện XĐGN
đồng nghĩa với quá trình giải phóng sức sản xuất, nâng cao hiệu quả và tiềm
năng kinh tế của đất nước. Một khi người nghèo được hưởng cuộc sống sung
túc, đã có sự tương đồng về trình độ phát triển giữa các khu vực thì sẽ tạo ra

thêm nhiều thế và lực mới (ưu thế của tăng trưởng bền vững, sự cạnh tranh và
hỗ trợ giữa các vùng kinh tế …) đóng góp trở lại vào sự phát triển kinh tế
chung, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
20
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO, XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO CHO DÂN
TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM
1.Tổng quan về dân tộc thiểu số ở Việt Nam
1.1. Sự phân bố các dân tộc thiểu số
Cùng chung sống lâu đời trên một đất nước, các dân tộc có truyền
thống yêu nước, đoàn kết giúp đỡ nhau trong chinh phục thiên nhiên và đấu
tranh xã hội, suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng phát
triển đất nước.
Lịch sử chinh phục thiên nhiên là bài ca hùng tráng, thể hiện sự sáng tạo
và sức sống mãnh liệt, vượt lên mọi trở ngại thích ứng với điều kiện tự nhiên
để sản xuất, tồn tại và phát triển của từng dân tộc. Với điều kiện địa lý tự
nhiên (địa mạo, đất đai, khí hậu...) khác nhau, các dân tộc đã tìm ra phương
thức ứng xử thiên nhiên khác nhau.
Ở đồng bằng và trung du, các dân tộc làm ruộng, cấy lúa nước, dựng
nên nền văn hoá xóm làng với trung tâm là đình làng, giếng nước cây đa,
bao bọc bởi luỹ tre gai góc đầy sức sống dẻo dai. Đồng bằng, nghề nông,
xóm làng là nguồn cảm hứng, là "bột" của những tấm áo mớ ba mớ bảy, của
dải yếm đào cùng nón quai thao, của làn điệu quan họ khoan thai mượt mà
và của khúc dân ca Nam Bộ ngân dài chứa đựng sự mênh mông của đồng
bằng sông Cửu Long.
Ở vùng thấp của miền núi, các dân tộc trồng lúa nước kết hợp với sản
xuất trên khô để trồng lúa nương, trồng ngô, bước đầu trồng các cây công

nghiệp lâu năm (cây hồi, cây quế...), thay thế cho rừng tự nhiên. Họ sống trên
những nếp nhà sàn, mặc quần, váy, áo màu chàm với nhiều mô típ hoa văn
mô phỏng hoa rừng, thú rừng. Đồng bào có tục uống rượu cần thể hiện tình
SV: Nguyễn Ngọc Cường Lớp: KTPT K47A_QN
21

×